Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Đa dạng hóa tôn giáo mà biểu hiện mới của nó trong thời gian gần đây đó là đa

dạng hóa niềm tin tôn giáo là một trong những xu hướng phổ biến trên thế giới cũng như

trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Đa dạng hóa niềm tin tôn giáo bắt nguồn từ nhiều

nguyên nhân, trong đó nguyên nhân về kinh tế - chính trị, văn hóa được xem như là nguyên

nhân hàng đầu cho sự xuất hiện của xu hướng này. Bài viết tập trung luận giải vấn đề có tính

lí luận, đó là sự phát triển từ đa dạng tôn giáo đến đa dạng niềm tin tôn giáo ở Việt Nam đồng

thời chỉ rõ những biểu hiện của sự đa dạng đó trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

pdf 7 trang kimcuc 17780
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
99 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0075 
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 99-105 
This paper is available online at  
XU HƯỚNG ĐA DẠNG HÓA NIỀM TIN TRONG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
Bùi Thị Thủy 
Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt. Đa dạng hóa tôn giáo mà biểu hiện mới của nó trong thời gian gần đây đó là đa 
dạng hóa niềm tin tôn giáo là một trong những xu hướng phổ biến trên thế giới cũng như 
trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Đa dạng hóa niềm tin tôn giáo bắt nguồn từ nhiều 
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân về kinh tế - chính trị, văn hóa được xem như là nguyên 
nhân hàng đầu cho sự xuất hiện của xu hướng này. Bài viết tập trung luận giải vấn đề có tính 
lí luận, đó là sự phát triển từ đa dạng tôn giáo đến đa dạng niềm tin tôn giáo ở Việt Nam đồng 
thời chỉ rõ những biểu hiện của sự đa dạng đó trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Niềm tin tôn giáo, đa dạng tôn giáo, đa dạng niềm tin tôn giáo, đời sống tôn giáo. 
1. Mở đầu 
Đời sống tôn giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế hóa có những chuyển 
biến mạnh mẽ. Đa dạng hóa tôn giáo không phải là một xu hướng mới ở Việt Nam, và dĩ nhiên 
không phải là hiện tượng xa lạ trên thế giới. Đa dạng hóa tôn giáo là một quá trình đã và đang 
diễn ra trong đời sống xã hội tôn giáo hiện đại được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề 
cập đến như là một xu thế của những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, chúng ta có thể kể đến 
một số những nghiên cứu đó như: Nghiên cứu về lí thuyết có các nhà nghiên cứu xã hội học tôn 
giáo nước ngoài: J. P. Willaim, Jonn Hick. Các học giả Việt Nam cũng đã bước đầu chú ý, nghiên 
cứu đến xu hướng đa dạng hóa tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt bắt đầu từ nghiên cứu của Đặng 
Nghiêm Vạn (2012) trong “Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, theo đó, đa 
dạng hóa tôn giáo được coi là 1 trong 4 xu hướng tôn giáo ở Việt Nam; Một số đề tài nghiên cứu 
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo (thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đề cập đến xu 
hướng đa dạng hóa như là một tất yếu và là vấn đề đặt ra cho công tác quản lí tôn giáo cũng như 
những hệ quả của đa dạng tôn giáo. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, đời sống tôn giáo Việt 
Nam không còn đơn thuần dừng lại ở đa dạng tôn giáo mà còn có những biến đổi bên trong, đó là 
sự đa dạng niềm tin tôn giáo thể hiện sự tồn tại “song song” các niềm tin tôn giáo trong một tín đồ, 
sự đa dạng tôn giáo trong một gia đình, một cộng đồng tôn giáo cũng như tình trạng “phai đạo”, 
“nhạt đạo” dẫn đến cải đạo, đó là biểu hiện mới của xu hướng đa dạng hóa tôn giáo mà bài viết 
muốn đề cập đến, hi vọng có thể cắt nghĩa được những diễn biến phức tạp trong đời sống tôn giáo 
ở Việt Nam hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Từ đa dạng tôn giáo đến đa dạng hóa niềm tin tôn giáo – những vấn đề lí thuyết 
Ngày nhận bài: 19/7/2018. Ngày sửa bài: 19/10/2018. Ngày nhận đăng: 2/11/2018. 
Tác giả liên hệ: Bùi Thị Thủy. Địa chỉ e-mail: hoangkhanhthuy@gmail.com 
Bùi Thị Thủy 
100 
Trước hết, đa dạng theo nghĩa tổng quát là sự xác nhận và chấp nhận tồn tại một cái khác. 
Khái niệm này thường được dùng theo nhiều cách khác nhau trong nhiều vấn đề khác nhau. Lí 
luận về đa dạng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng xuất phát từ tôn giáo và gắn với tôn giáo, 
đa dạng tôn giáo được hiểu là một tôn giáo có thể chấp nhận các tôn giáo khác theo luật tự do 
tôn giáo. 
Diana L. Eck cho rằng, đa dạng văn hóa và tôn giáo là đặc điểm cơ bản của mọi khu vực trên 
thế giới. 
Theo Nietzsche, đa dạng tôn giáo bắt nguồn từ tôn giáo đa thần. Đa thần giáo, dù rằng, trong 
truyền thống tôn giáo phương Tây xuất hiện trước hiện tượng đối lập với nó – truyền thống độc 
thần, nhưng xét ở phương diện phát triển xã hội, đa thần giáo là cần thiết khi nhu cầu của đời sống 
tâm linh độc thần không còn đáp ứng được trước hiện thực. Như vậy, trong điều kiện xã hội hiện 
đại, đa dạng hóa tôn giáo phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa trên các lĩnh vực của đời sống xã 
hội hiện đại. Chính xu hướng này đã chấm dứt sự “độc quyền” về tôn giáo trong các xã hội, làm 
xuất hiện những khái niệm “Thị trường tôn giáo”, “siêu thị tôn giáo”, lúc đó, sự lựa chọn dành cho 
nhu cầu tôn giáo của mỗi người trong xu hướng đa dạng hóa. 
Khái niệm đa dạng tôn giáo (religious pluralism) có những đặc điểm đó là tính đa dạng của 
tôn giáo (religious diversity) và tính thích nghi của tôn giáo. Theo đó, nghĩa rộng của đa dạng tôn 
giáo phản ánh ý tưởng các thành viên với các nền tảng tôn giáo khác nhau có thể thực hành và 
phát triển niềm tin truyền thống của mình giữa những người chống lại nó trong một môi trường 
bình thường. 
Niềm tin tôn giáo là một cảm xúc đặc biệt, một hiểu biết và sự tin tưởng vào định hướng chắc 
chắn, bền vững hướng đến những lực lượng và thế giới không tồn tại thật (theo nghĩa là chưa 
được chứng minh bằng khoa học). Vũ Dũng trong công trình nghiên cứu của mình cũng đã cho 
rằng: “niềm tin tôn giáo là những niềm tin rất bền vững, một niềm tin hướng đến những lực lượng 
và thế giới không tông tại” [4, tr.76]. 
Theo đó, đa dạng niềm tin tôn giáo là trong một lúc, một thời điểm, tín đồ hoặc cộng đồng 
tôn giáo có nhiều hơn một niềm tin vào đấng thần linh, sáng tạo và được chấp nhận. Hiện nay, đa 
dạng niềm tin tôn giáo được thể hiện ở những cấp độ khác nhau đối với những tôn giáo khác nhau 
và đang trở nên mạnh mẽ, hình thành xu hướng đa dạng hóa niềm tin tôn giáo. 
Ở Việt Nam, đa dạng hóa niềm tin tôn giáo bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất có thể 
thấy, Việt Nam vốn có một hệ thống tôn giáo đa dạng, bao gồm các tôn giáo bản địa và những tôn 
giáo ngoại nhập mà cho đến nay, có lẽ trừ Do Thái giáo (Judaisme), thấy đều có mặt. Người Việt 
Nam dễ dàng chấp nhận những tôn giáo của những nơi khác đến (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin 
Lành,) xuất phát từ truyền thống khoan dung tôn giáo của Việt Nam. Ở đó, không có sự bài 
xích, không có “ngăn cấm” các tôn giáo, miễn đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người Việt. 
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến xu hướng đa dạng hóa tôn giáo ở Việt Nam đó là sự có mặt 
ngày càng tăng của các “Hiện tượng tôn giáo mới” (New religious movements). 
Nguyên nhân thứ ba dẫn đến xu hướng đa dạng hóa tôn giáo bắt nguồn từ chính nhu cầu tôn 
giáo của một bộ phận tín đồ Việt Nam, sự đa dạng hóa văn hóa, đa dạng hóa kinh tế và toàn cầu 
hóa kinh tế đã tạo điều kiện cho sự nở rộ các tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Xu hướng đa dạng hóa tôn giáo ở Việt Nam đã và đang dẫn đến những sự biến đổi của “hệ 
thống tôn giáo”. Việt Nam vốn đã có hệ thống tôn giáo phong phú với 3 hệ thống chính sau đây: 
Hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng thứ nhất, tín ngưỡng bản địa, chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng 
tổ tiên ở những cấp độ khác nhau: cấp quốc gia (thờ Hùng Vương); cấp làng xã (thờ Thành hoàng 
làng); gia đình (thờ ông bà tổ tiên). 
Hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng thứ hai, các tôn giáo được du nhập từ bên ngoài vào: gồm 
Tam giáo (Nho – Phật - Lão) nhập từ Trung Quốc và Ấn Độ từ thời đầu Công nguyên; Công giáo 
Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 
101 
du nhập vào Việt Nam từ khoảng nửa đầu thế kỉ XVI; Tin lành du nhập đến Việt Nam từ đầu thế 
kỉ XX; Hồi giáo, Ấn giáo gắn với lịch sử vương quốc Champa. 
Hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng thứ ba, các tôn giáo bản địa mới nảy sinh ở đầu thế kỉ XX ở 
Nam Kì như Đạo Cao Đài (1926) và Phật giáo Hòa Hảo (1938). Ngoài ra, ở Nam Kì thời kì này 
còn có rất nhiều các nhóm phái tôn giáo khác gắn với đạo ông bà như: Bửu Sơn Kì Hương (cuối 
thế kỉ XIX), Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh Độ Cư Sĩ, 
Từ năm 1985 đến nay, theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, cũng như 
nhiều nước trên thế giới đã xuất hiện và phát triển các “hiện tượng tôn giáo mới” (Les nouveaux 
mouvements religieux) trong dân gian quen gọi là: Đạo lạ, Tà giáo, giáo phái “Việt Nam hiện 
nay có khoảng 50 – 60 “Hiện tượng tôn giáo mới” với khoảng 80 tên gọi khác nhau, là những 
minh chứng cho sự “nở rộ” của các Hiện tượng tôn giáo mới cũng như sự biến đổi mạnh mẽ đời 
sống tôn giáo Việt Nam ở những năm đầu của thế kỉ XXI” [2, tr.9]. 
Gần đây là sự du nhập của các hệ phái thuộc “gia đình Tin Lành” từ Âu - Mỹ vào Việt Nam, 
chúng rất đa dạng và phức tạp, khó có thể nhận diện về hệ phái của nó. 
Như vậy, đa dạng hóa niềm tin tôn giáo là một xu hướng tất yếu trong xu thế toàn cầu hóa, 
quốc tế hóa và cá nhân hóa tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Chính xu hướng này đã góp phần làm 
phong phú “Thị trường tôn giáo”, làm sôi động “thị trường tâm linh”, nhu cầu tâm linh của con 
người, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tôn giáo của từng cá nhân và xã hội. 
2.2. Biểu hiện của đa dạng hóa niềm tin tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 
2.2.1. Sự thức tỉnh, đa dạng niềm tin tôn giáo ở cấp độ ý thức cá nhân của đời sống tôn giáo 
Xu hướng đa dạng hóa, quốc tế hóa cũng như cá nhân hóa tôn giáo đã dẫn đến thực trạng tình 
hình đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ lại hoạt động mạnh mẽ, sôi nổi như thế. Hơn nữa, 
các tôn giáo mới không ngừng được xuất hiện, bằng chứng rõ nét nhất cho thấy điều này đó là, số 
lượng tôn giáo ở Việt Nam không ngừng được tăng lên. Cho đến tháng 3 năm 2017, tại Việt Nam 
công nhận 15 tôn giáo và 41 tổ chức tôn giáo, có khoảng 25.323.693 triệu tín đồ tăng 33,3% so với 
năm 2013 (Số liệu của Ban Dân vận TW tháng 3/ 2017). Như vậy, so với năm 2013, số lượng các 
tôn giáo cũng như số lượng các tín đồ ngày càng tăng. Tuy nhiên, con số đưa ra cũng rất khác nhau. 
Con số 25.323.693 triệu tín đồ là theo thống kê, điều tra của Ban Tôn giáo Chính phủ, con số này 
khác rất nhiều nếu xem kết quả thống kê của các tôn giáo, đặc biệt của Phật giáo, Công giáo và Tin 
Lành. Trong thống kê của Giáo hội cũng như của chức sắc các tôn giáo, số lượng tín đồ tôn giáo 
Việt Nam là rất lớn. Phật giáo thậm chí còn thống kê, khoảng gần 70% dân số Việt Nam theo Phật 
giáo (gồm “Nhóm đã quy y có Sổ bộ và phái Quy y tại các tự viện trên 63 tỉnh thành trong cả nước 
là 16.232.064 người, còn lại là tín ngưỡng đạo Phật 38.376.355 người. Như vậy, số lượng Phật tử sẽ 
là khoảng 54.608.419 người” [6, tr.339]. Dĩ nhiên, con số mà Giáo hội Công giáo Việt Nam đưa ra 
nhiều hơn con số thống kê của Ban tôn giáo Chính phủ (7.063.712 tín đồ năm 2017), theo đó, có 
khoảng trên dưới 10 triệu tín đồ Công giáo hiện nay. Với Tin Lành, con số thống kê được là 
1.047.936 tín đồ (trên thực tế các Hệ phái thống kê con số khoảng 1.500.000 tín đồ. Sự tăng lên 
nhanh chóng số lượng lớn tín đồ của các tôn giáo ở Việt Nam trong những năm gần đây đã cho thấy, 
dường như tôn giáo đang thực sự “trỗi dậy” một cách mạnh mẽ. Sự “thức tỉnh” này cũng phù hợp 
với những xu hướng phát triển của thế giới cũng như của khu vực trong khoảng gần 1 thế kỉ trở lại 
đây. Điều này trái ngược hoàn toàn với những dự báo trước đó, khi một bộ phận các nhà nghiên 
cứu cho rằng, thế kỉ XX sẽ là thời kì “nhạt đạo”, “khô đạo” trên trái đất. Nhận xét của Cadiere về 
tôn giáo của Việt Nam vẫn còn giá trị: “Tôn giáo người Việt, ở đây nên dùng số ít, cho ta cái cảm 
nhận y như khi lạc vào núi rừng Trường Sơn: đâu đó những đại thụ khổng lồ, rễ đâm đến đâu nào 
ai biết được; trên nó là cả một vòm lá phủ tràn bóng mát,” [7, tr.19]. 
Sở dĩ có tình trạng trên là bởi vì xu hướng đa dạng hóa tôn giáo, xu hướng cá nhân hóa tôn 
giáo đã dẫn đến tình trạng ở Việt Nam không chỉ đa dạng tôn giáo mà còn có tình trạng một tín 
Bùi Thị Thủy 
102 
đồ nhưng đa dạng niềm tin tôn giáo. Điều đó có nghĩa là, một người không chỉ có một niềm tin 
vào một tôn giáo mà còn có niềm tin vào các tôn giáo khác. Trên thế giới, khó có thể tìm ra một 
quốc gia nào người dân lại “dễ dãi” trong niềm tin vào các vị thần như vậy. Họ vừa có thể tin 
Chúa, nhưng vẫn có thể thăng hoa trong các buổi Hầu đồng, nhưng cũng không kì thị gì Phật giáo, 
thậm chí, vẫn có thể quy y tại một ngôi chùa nào đó với tinh thần: đều là kính thần, thần phù trợ. 
Bên cạnh đó, một Phật tử cũng sẵn sàng vừa là người theo Thiền Tông, nhưng cũng có thể quy y 
tại một ngôi chùa Mật tông khác hoặc thêm cả những tôn giáo gần với Phật giáo và tín ngưỡng thờ 
Mẫu. Người Việt Nam vốn có truyền thống đa thần giáo, cho nên, sự có mặt của các tôn giáo mới 
là một nhu cầu nội tại cũng như một sự “đòi hỏi” nội tại bên trong tâm thức tôn giáo người Việt về 
những yêu cầu đổi mới trước những vị thần linh. 
Hơn nữa, các loại hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay rất phong phú, đa dạng. Khi mà các xu 
hướng toàn cầu hóa tôn giáo và đa dạng hóa tôn giáo ngày càng diễn ra mạnh mẽ dẫn đến sự đa 
dạng về chủng loại, nguồn gốc và “chất lượng” đã hình thành “thị trường tôn giáo ở Việt Nam” mà 
mỗi người Việt đều có thể lựa chọn cho mình một hoặc một vài “sản phẩm” ưng ý, phù hợp với nhu 
cầu, mục đích sử dụng của mình. Như vậy, sự đa dạng ở đây không chỉ là đa dạng về loại hình tôn 
giáo ở Việt Nam, vấn đề ở đây là sự đa dạng trong mỗi gia đình, trong mỗi con người. Điều đó được 
thể hiện như sau: 
Trong một số gia đình Việt Nam hiện nay đang có sự đa dạng niềm tin tôn giáo. Mỗi thành viên 
trong gia đình theo đuổi những niềm tin khác nhau. Cha mẹ có tín ngưỡng đạo Phật, còn con cháu 
có thể gia nhập vào một hệ phái Tin Lành nào đó theo Bắc Mỹ hoặc theo Hàn Quốc, nhưng cũng có 
khi lại gia nhập vào các Đạo tràng Phật giáo hiện đại – những trường hợp như đã nói ở trên, sau khi 
đi du học, công tác nước ngoài, đặc biệt từ các nước như: Anh, Mỹ, Pháp, Singgapo, Thái Lan, 
Mức độ thể hiện niềm tin của tín đồ tôn giáo người Việt cũng khá phong phú, tùy từng tôn 
giáo khác nhau, vùng miền khác nhau và vùng văn hóa khác nhau có những nét “đậm nhạt” 
khác nhau. 
Với đạo Phật, cũng thật khó để xác định đâu là tín đồ Phật giáo, bởi nếu chiểu theo quy định 
của tín đồ tôn giáo trên thế giới: có làm phép gia nhập đạo (lễ Quy y), có tên trong đạo (Pháp 
danh), có sinh hoạt trong một hệ phái nhất định, tham dự những nghi lễ thường xuyên của tôn giáo 
mình theo, Nếu chiểu theo những quy định, có lẽ, Phật giáo ngoài số chức sắc, số còn lại cũng 
khá ít, bởi tâm lí của người Việt, đặc biệt là người Việt vùng Đồng Bằng Bắc Bộ là con người ta 
chỉ tìm đến chùa chiền, cửa Phật khi về già hoặc khi ốm đau, bệnh tật. Câu “Trẻ vui nhà, già vui 
chùa” cũng vẫn còn khá phổ biến trong tâm thức tôn giáo của đồng Bằng Bắc Bộ. Đây chính là 
một “khía cạnh” trong đời sống đức tin của những người được coi là “có tín ngưỡng Phật giáo” ở 
Bắc Bộ cũng như trên cả nước hiện nay. 
Ngược lại với Phật giáo Miền Bắc, với Phật giáo Nam Tông thì những quy định khắt khe 
cũng như những sinh hoạt thường niên của tín đồ với các cơ sở thờ tự của Phật giáo là một thuận 
lợi để tín đồ Phật giáo thể hiện dễ dàng tâm thức, tình cảm tôn giáo của mình. Các hoạt động liên 
quan đến vòng đời, thậm chí những sinh hoạt hàng ngày: như học hành, lao động, các tín đồ 
đều có mong muốn được thực hiện trong khuôn viên của các cơ sở thờ tự Phật giáo, họ tích cực 
học kinh bằng tiếng Pali,. 
Với Công giáo và Tin Lành có sự chặt chẽ hơn trong việc xác nhận niềm tin tôn giáo của 
mình khi họ có tham gia vào nghi thức Rửa tội hoặc làm phép Băp tem. Số liệu cũng như các hoạt 
động sinh hoạt của tín đồ Công giáo và Tin Lành có sự hướng dẫn, quản lí chặt chẽ của Giáo hội 
và các Hội thánh cho nên số liệu công bố trên là khá chính xác. 
 Khi nhìn vào số lượng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam tăng nhanh trong những năm vừa qua, 
thể hiện sự quay trở lại, sự “thức tỉnh” tôn giáo đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh số 
lượng tín đồ là con số “định lượng” cho sự phát triển mạnh mẽ niềm tin tôn giáo đang trỗi dậy còn 
Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 
103 
có biểu hiện “định tính” trên cả phương diện sinh hoạt tôn giáo (thể hiện mức độ sùng đạo, lòng 
mộ đạo) của tín đồ tôn giáo nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung. Điều đó chứng tỏ 
chính những xu hướng biến đổi tôn giáo đang là nguyên nhân dẫn đến những sự biến đổi mạnh mẽ 
trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 
2.2.2. Phai, nhạt đạo, cải đạo, chuyển đạo trong đời sống cá nhân tôn giáo Việt Nam hiện nay 
Sự phai đạo và nhạt đạo trong đời sống đức tin của một tín đồ là những nét khá đặc trưng của 
đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Nghe có vẻ như mâu thuẫn với “sự thức tỉnh” của đời sống 
tôn giáo Việt Nam, nhưng nó lại là hoàn toàn có lí và cũng phù hợp với xu hướng biến đổi đời sống 
tôn giáo trên thế giới khi mà chúng ta biết đến đời sống “nhạt đạo” của các quốc gia được coi là 
trung tâm của Công giáo thế giới. J.P Willaime nhận xét “Thực trạng tôn giáo ở châu Âu hiện nay 
có thể được mô tả qua thuật ngữ “tin mà không theo” và “theo mà không tin”: một mặt, người ta 
thấy sự tái xuất hiện những niềm tin tôn giáo dù chúng thể hiện mờ nhạt và dễ rạn vỡ; mặt khác, 
vẫn thấy rõ số đông những người liên tục tuyên bố “theo” một tôn giáo nhưng lại ít gắn bó và ít thực 
hành tôn giáo đó” [10, tr.93 - 93]. 
Đối với đời sống tôn giáo Việt Nam cũng nằm trong xu hướng biến đổi và phát triển chung 
đó. Theo những kết quả điều tra xã hội học của Viện Nghiên cứu tôn giáo Việt Nam thì số lượng 
hành vi tôn giáo một cá nhân thực hiện khá không thường xuyên giữa các tôn giáo. Ngay bản thân 
đối với những người theo Ki tô giáo, tỷ lệ tin vào Chúa cũng giảm, tỷ lệ nghi ngờ về phép màu 
nhiệm cũng tăng lên. Bởi, trong đời sống tôn giáo đa màu sắc thì luận đề của O. B.S. Storrer lại 
càng đúng về một thời đại tôn giáo mà các tôn giáo cùng được song song tồn tại: “Truyền thống 
tôn giáo xưa kia có thể được áp đặt một cách độc đoán, từ nay phải được thương mại hóa. Nó phải 
được bán cho một khách hàng mà người đó không còn bị buộc phải mua” [8, tr.84] 
Sự “nhạt đạo” thể hiện ở trong hành vi tôn giáo của tín đồ một số tôn giáo như Phật giáo, 
Công giáo và Tin Lành. 
Trong mỗi một con người, tùy từng thời điểm của cuộc đời cũng có những sự theo đuổi 
những niềm tin khác nhau. Thường lúc trẻ, khi còn mải mê học tập, làm việc và tham gia các hoạt 
động trải nghiệm cuộc sống thì đa số người Việt (trừ tín đồ của Đạo Tin Lành và Công giáo hoặc 
Phật giáo Nam Tông), người Việt trẻ (độ tuổi dưới 45) đều không có, hoặc ít có ý thức về niềm tin 
tôn giáo, đa phần họ vẫn dừng lại ở quan niệm tôn giáo là mê tín dị đoan, tôn giáo là không văn 
minh, không tiến bộ cho nên họ không quan tâm đến tôn giáo. Tuy nhiên, khi trong cuộc đời có 
những biến cố về sức khỏe, công danh, tiền tài, địa vị xã hội, lúc đó người Việt mới tìm đến các 
hình thức tôn giáo. Như vậy, với người Việt, việc tìm đến tôn giáo không chỉ đơn thuần là để giải 
quyết vấn đề tâm linh, tôn giáo không phải là câu chuyện của “thế giới bên kia”, chỉ lo phần hồn. 
Vấn đề mục đích, nhu cầu của người Việt với tôn giáo là cho cuộc sống thực tại, “ở đây và ngay 
bây giờ”. Đây cũng là một điều đặc biệt trong tâm thức tôn giáo của người Việt, nhất là hiện nay, 
trước những khó khăn của cuộc sống, đặc biệt là về kinh tế thì nhu cầu được “mua rẻ bán đắt”, 
được “một vốn bốn lời”, khiến con người ta tìm đến tôn giáo ngày một đông đảo hơn, và 
thường thì họ tìm đến Phật giáo vì Phật giáo có những “bài giải” hữu hiệu, làm thỏa mãn được 
nhu cầu của tín đồ. Khi mục đích của tín đồ không phải vì tâm linh mà để giải quyết những công 
việc của “thế tục” điều đó thể hiện rõ nhất sự tác động của xu hướng thế tục hóa tôn giáo ở Việt 
Nam. Càng “thế tục” hóa tính “thiêng” của tôn giáo sẽ càng giảm đi, điều này sẽ được thể hiện ở 
cấp độ hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam khi họ hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, 
hướng về cộng đồng, chung tay cùng cộng đồng giải quyết những vấn nạn của xã hội. 
Người tín đồ Phật tử có thể có nhiều niềm tin vào các Đấng thánh thần trong một lúc là một 
biểu hiện của khía cạnh “nhạt đạo” của đời sống đức tin tôn giáo bởi mỗi một vị thần sẽ trợ giúp 
một lĩnh vực, khía cạnh của đời sống khác nhau. Sự đa dạng hóa tôn giáo là môi trường, còn lí 
thuyết lựa chọn cá nhân là căn nguyên cho tình trạng trên. Với một số tín đồ, họ sẵn sàng từ bỏ 
đức tin nếu cảm thấy không còn phù hợp, không “thiêng” và sẵn sàng “chuyển đạo”, “cải đạo” 
Bùi Thị Thủy 
104 
sang một tôn giáo mới cho phù hợp với nhu cầu, mục đích sử dụng của bản thân và gia đình. Sự 
đa dạng tôn giáo là một trong những điều kiện để các tín đồ có thể “lựa chọn” riêng cho mình 
những niềm tin phù hợp. 
Sự “nhạt đạo” còn thể hiện ở vị trí của các vị chức sắc trong các tôn giáo đã giảm sút ít nhiều, 
khoảng cách giữa tín đồ và các chức sắc thể hiện gần gũi hơn. Người Việt có câu: “gần chùa gọi Bụt 
bằng anh”, là cách nói suồng sã về sự “thân tình” của tín đồ Phật giáo đối với các nhà sư trong chùa. 
Sự gần gũi này trước đây chưa từng có, đặc biệt với Công giáo vốn là một tôn giáo có những quy định 
chặt chẽ về giới luật, giữa con chiên với linh mục, cha xứ có khoảng cách khá lớn, con chiên chỉ được 
ngắm cha xứ, nghe giảng bằng việc tham gia Thánh lễ, mối quan hệ này là mối quan hệ với “bề trên”. 
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khoảng cách này đã giảm đi đáng kể. Mối quan hệ giữa con 
chiên và cha – linh mục là mối quan hệ với bề trên bây giờ không còn tuyệt đối nữa. Với tinh thần 
cởi mở, dân chủ và hiện đại (hơn nữa, có lẽ, chính Tin Lành đã thể hiện nét nổi trội hơn hẳn Công 
giáo về tính dân chủ trong việc bổ nhiệm Mục sư nên đã ảnh hưởng đến tinh thần của đạo Công 
giáo), người Công giáo Việt Nam khi sinh hoạt tại các giáo xứ hiện nay đã có tiếng nói “phản ánh” 
đối với các bậc bề trên. 
Trong đời sống của người Công giáo, khái niệm “ngoan đạo” cũng đã có những sự thay đổi. 
Nếu trước đây, việc tin vào Chúa, việc tham dự các Thánh lễ là bắt buộc, việc thuộc Kinh thánh là 
bắt buộc, thì hiện nay, trong giới trẻ, đặc biệt tại các đô thị lớn, việc tham dự các Thánh lễ đã giảm 
xuống. Nhiều người trẻ đã không còn siêng năng đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ, nhiều người trẻ 
cũng đã nghi ngờ cả phép màu nhiệm của Chúa, thậm chí, họ còn hạ tiêu chuẩn trong xem xét đánh 
giá tín đồ xuống còn: chỉ cần đi lễ, không cần phải thuộc các sách Kinh như vậy cũng đã là thực hiện 
đúng lời Chúa. 
Đời sống tôn giáo Việt Nam cũng đang có sự chuyển biến mạnh mẽ trong nội bộ số lượng tín 
đồ giữa các tôn giáo, hoặc giữa các hệ phái khác nhau trong cùng một tôn giáo. Trên bình diện tôn 
giáo, có thể dễ dàng nhận thấy có sự chuyển dịch về số lượng tín đồ giữa các tôn giáo. Có sự dịch 
chuyển từ tôn giáo này sang tôn giáo khác (chúng ta gọi đó là hiện tượng chuyển đạo) hoặc cũng 
có những hiện tượng quay trở về với tôn giáo ban đầu của mình (cải đạo). 
Hiện nay chúng ta chưa có con số thống kê chính xác xem số lượng tín đồ chuyển đạo, cải 
đạo cụ thể từ các tôn giáo, nhưng có những chuyển biến mà chúng ta có thể nhìn thấy, đó là có 
một bộ phận những người Tin Lành chuyển sang Công giáo (vì lí do phải đóng 10% lợi nhuận 
hàng năm cho Hội Thánh, trường hợp này diễn ra nhiều ở các vùng dân tộc thiểu số, nhất là ở các 
tỉnh Tây Nguyên); trường hợp thứ hai là những người Công giáo quay trở lại với Phật giáo (xuất 
hiện nhiều ở các vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng); nhưng cũng có nhiều những hiện tượng 
chuyển từ tín ngưỡng dân gian sang Tin Lành (đó chủ yếu là ở Tây Bắc, Tây Nguyên) và cũng từ 
các tín ngưỡng dân gian sang Phật giáo (đặc biệt là sau khi Giáo hội đã có mặt ở tất cả các tỉnh 
Tây Bắc); bên cạnh đó cũng thấy được sự xuất hiện của những Hiện tượng tôn giáo mới trong đó 
bao chứa được rất nhiều những Đấng sáng tạo khác nhau, Những chiều kích này đã tạo nên bức 
tranh tôn giáo đa dạng, phức tạp trong đời sống tôn giáo Việt Nam, với mỗi một khía cạnh, đời 
sống tôn giáo Việt Nam cũng phản ánh đúng quy luật của sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức 
tôn giáo. Chắc chắn rằng trong những năm tiếp theo, đời sống tôn giáo Việt Nam còn có nhiều 
những biến chuyển phức tạp xuất phát từ thực trang đa dạng hóa niềm tin tôn giáo hiện nay. 
3. Kết luận 
Đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay không còn đơn thuần là đa dạng tôn giáo nữa, Sự đa 
dạng hóa các hình thức tôn giáo hiện nay đã biểu hiện mới thành đa dạng hóa niềm tin tôn giáo, 
trong đó biểu hiện rõ nét nhất đó là mỗi người có thể có nhiều niềm tin tôn giáo khác nhau trong 
cùng một lúc, có thể chuyển đạo, cải đạo. Tuy nhiên, khi tình trạng cải đạo chuyển đạo cũng như 
một người có nhiều niềm tin tôn giáo cũng đặt ra vấn đề khó khăn đối với công tác quản lí tôn 
Xu hướng đa dạng hóa niềm tin trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay 
105 
giáo, đòi hỏi trong công tác quản lí nhà nước về tôn giáo cũng cần có những nhận thức và cơ chế, 
chính sách cho phù hợp với tình hình mới, có như vậy mới tránh được những xung đột tôn giáo, 
tạo ra sự ổn định phát triển xã hội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] C. Brinton, (Nguyễn Kiên Tường dịch) 2007. Con người và tư tưởng phương Tây. Nxb Từ điển 
Bách khoa. 
[2] Trương Văn Chung (chủ biên), 2014. Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt 
Nam và Thế giới. Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. 
[3] D. Lehmann, 2002. Religion and globalization, Religions in the modern world. Routlege, New 
York. 
[4] Vũ Dũng, 1998. Tâm lí học Tôn giáo. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[5] Bùi Thanh Hà trong “Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn 
lại”.Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội, 2016. 
[6] Hoàng Thu Hương, tháng 12 năm 2017. “Chuyên nghiệp hóa trong hoạt động từ thiện xã hội: Xu 
hướng nhập thế của Phật giáo Việt Nam đương đại”. Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Phật giáo nhập thế 
và các vấn đề xã hội đương đại, Ninh Bình, tr.339 
[7] Đỗ Trinh Huệ (dịch), 2015, Cadiere, Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt. 
Nxb Thuận Hóa. 
[8] Olivier B.S.T.ank – Storper, 2012. Xã hội học Tôn giáo, (Hoàng Thạch dịch). Nxb Thế giới. 
[9] P. Bréchon, 2001. L’érolution du religieux, Futuribles. N260 
[10] J.P. Willaime, 2004. Religions et modernité, ed.Académie de Versailles. 
[11] Đặng Nghiêm Vạn, 2012. Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
[12] Nguyễn Thanh Xuân, 2005. Một số tôn giáo ở Việt Nam. Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
[13] X.A Toocarev, 1995. Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, (Lê Thế Thép 
dịch), Sách tham khảo. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
ABSTRACT 
The Trend of Diversification of Religious Beliefs in the Current Religious Life in Vietnam 
Bui Thi Thuy 
Falculty of Philosopy, Hanoi National University of Education 
Religious diversification where its new manifestation takes in the form of diversification of 
religious beliefs is one of popular trends in the religious life the world as well as in Vietnam. The 
diversification of religious beliefs may have many causes with economic, political and cultural 
changes considered as main causing factors for the trend emergence. The paper focuses on the 
theoretical explanation of the diversification trend that developed out of the religious 
diversification in Vietnam, and its manifestations in the religious life in Vietnam at present. 
Key words: Religious belief, religious diversity, diversity of religious beliefs, religious life. 

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_da_dang_hoa_niem_tin_trong_doi_song_ton_giao_o_viet.pdf