Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích qua trường hợp đền diên cờ xứ Nghệ

Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị

di tích là qúa trình huy động sức đóng góp của các

lực lượng xã hội trên cơ sở quy định của pháp luật

nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

Luật di sản văn hóa đã khẳng định: “Nhà nước

khuyến khích việc xã hội hóa hoạt động bảo vệ và

phát huy giá trị di sản văn hóa”1. Và, “Nguồn tài

chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

bao gồm:

1. Ngân sách nhà nước;

2. Các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát

huy giá trị di sản văn hóa;

3. Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân

trong nước và nước ngoài”2.

Từ những quy định của pháp luật về di sản văn

hóa, có thể nhận thấy, xã hội hóa trong công tác

bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là một

trong những hoạt động hợp pháp, được nhà nước

khuyến khích. Vốn xã hội hóa là một trong ba

nguồn tài chính cơ bản để đầu tư cho công tác

bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó

có di tích

pdf 7 trang kimcuc 5400
Bạn đang xem tài liệu "Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích qua trường hợp đền diên cờ xứ Nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích qua trường hợp đền diên cờ xứ Nghệ

Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích qua trường hợp đền diên cờ xứ Nghệ
38
1. Quá trình xã hội hóa phục dựng di tích đền
Diên Cờ
Xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
di tích là qúa trình huy động sức đóng góp của các
lực lượng xã hội trên cơ sở quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
Luật di sản văn hóa đã khẳng định: “Nhà nước
khuyến khích việc xã hội hóa hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa”1. Và, “Nguồn tài
chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
bao gồm: 
1. Ngân sách nhà nước; 
2. Các khoản thu từ hoạt động sử dụng và phát
huy giá trị di sản văn hóa; 
3. Tài trợ và đóng góp của tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài”2.
Từ những quy định của pháp luật về di sản văn
hóa, có thể nhận thấy, xã hội hóa trong công tác
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là một
trong những hoạt động hợp pháp, được nhà nước
khuyến khích. Vốn xã hội hóa là một trong ba
nguồn tài chính cơ bản để đầu tư cho công tác
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó
có di tích
Cùng với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà
nước và cộng đồng, trên cơ cở những quy định
của pháp luật và sự quản lý, giám sát chặt chẽ của
cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa các cấp,
cùng với nguồn đầu tư của nhà nước, nguồn lực xã
hội hóa ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của
mình trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa, đóng góp thiết thực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội chung của đất nước, góp phần giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nguyucthn Thuthhoic - Kim Dung: Xž hi h‚a hot ng...
XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG 
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH 
QUA TRƯỜNG HỢP ĐỀN DIÊN CỜ XỨ NGHỆ
NGUYN THuchoasacC* - KIM DUNG**
TÓM TẮT
Đền Diên Cờ thuộc xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là nơi phụng thờ Cao Sơn, Cao Các đại
vương và gắn liền với Cương Quốc công Nguyễn Xí, vị tướng anh hùng của Lê Lợi, có công lớn trong công cuộc
chống quân Minh xâm lược, giành lại nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Điểm nổi của di tích là sự dung hội nhiều
hệ tư tưởng với tín ngưỡng bản địa và yếu nghĩa triết học gắn với Dịch học, Nho học, trong đó, tinh thần “Chí
quán tam tài” là ý thức chủ đạo trong kiến trúc, được thể hiện qua kết cấu mặt bằng và mặt đứng. Đây là kết
quả của sự tổng hòa, tổng hợp những đặc trưng kiến trúc cổ truyền Việt và sự sáng tạo, phát triển của đương
đại, với khát vọng muôn đời, muôn thuở: thiên - địa - nhân (trời - đất và con người) hợp nhất.
Từ khóa: đền Diên Cờ; tam tài; Cao Sơn; Cao Các; Nguyễn Xí; Mẫu.
ABSTRACT
Dien Co temple of Nghi Truong commune, Nghi Loc district, Nghe An province, is the place to worship kings
of Cao Son, Cao Cac and attached to the general of Nguyen Xi - the general of King Le Loi, with great success in
the fight against the Ming invaders, regain independence, sovereignty of the nation. Focus of the monument is
the combined content of many ideologies and local beliefs as well as philosophical meanings of Confucius and
Taoism in which the spirit of " Three Principles " is the mainstream consciousness of the architecture that is ex-
pressed through structure and facade surface. This is the result of total harmony, synthesis characteristics of
traditional Vietnamese architecture and innovation, development of contemporary, aspiring to eternity: heaven-
earth - human ismerged.
Key words: Dien Co temple; Three Principles; Cao Son; Cao Cac; Nguyen Xi; Mother God.
* Cc Di sn văn hóa
** Ban Qun lý Di tích và Danh thng Ngh An 
Đền Diên Cờ thuộc địa phận xóm 14, 15, xã Nghi
Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hiện chưa
có cứ liệu lịch sử để khẳng định, đền Diên Cờ được
khởi dựng từ khi nào, nhưng theo lời kể của các cụ
cao niên tại địa phương, địa điểm này từng gắn với
Cương Quốc công Nguyễn Xí - Trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí từng cho binh sĩ hạ trại
nghỉ ngơi ở vùng Diên Cờ, rồi phát lệnh tuyển mộ
binh sĩ đánh giặc Minh. Sau khi thắng trận trở về,
Nguyễn Xí lại hợp binh về đây khao quân và tu bổ
lại đền. Sau đó, đền này còn được tu bổ, tôn tạo bởi
Nguyễn Thức Vạn (thời Lê Trung hưng) và nhân dân
địa phương ở các giai đoạn sau
Cũng theo lời kể của các cụ địa phương, đền
Diên Cờ trước đây gồm các hạng mục chính:
thượng điện, trung điện, hạ điện, nghi môn, sân, là
nơi thờ Cao Sơn - Cao Các, Cương Quốc công
Nguyễn Xí, Mẫu Liễu, Nguyễn Thức Vạn và một số vị
hậu thần có công với cộng đồng
Trước Cách Mạng tháng Tám (1945), đền Diên
Cờ từng là căn cứ cách mạng, là nơi các đảng viên
thuộc Chi bộ đảng Nghi Lộc hội họp bí mật để
nhận định tình hình và chỉ đạo cách mạng. Trong
kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), đền Diên
Cờ là trụ sở của Ủy ban Hành chính kháng chiến
huyện Nghi Lộc. Trải qua thăng trầm của lịch sử,
những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, về cơ
bản, đền chỉ còn lại ba gian thượng điện, với kết
cấu gỗ, tường xây gạch, mái lợp ngói xi măng,
nhưng di tích luôn giữ vai trò là trung tâm sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng, đồng
thời, là nơi để các thế hệ con em của Diên Cờ đi
làm ăn xa xứ hướng về 
Từ lâu, mong ước phục hồi di tích luôn được
nung nấu trong tâm thức của nhiều người dân
Diên Cờ nhưng mãi chưa thực hiện được, bởi chưa
hội đủ điều kiện và nhân duyên. Đến năm 2009 -
2010, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền
các cấp, các cơ quan, đơn vị chuyên môn, các nhà
nghiên cứu, di tích đã được đầu tư tôn tạo, phục
dựng, với sự đóng góp của nhân dân sở tại và
khách thập phương, trong đó nổi lên là sự đóng
góp của gia đình cụ Nguyễn Đăng Cẩn và cụ
Nguyễn Thị Sinh, đặc biệt là người con cả - Đại tá,
Anh hùng Lao động Nguyễn Đăng Giáp, cùng sáu
người em trai (Nguyễn Đăng Ngọ, Nguyễn Đăng
S 1 (58) - 2017 - Di sn v	n h‚a v
t th
39
Tošn cnh n Di˚n C
 - uhoasacnh: Trn Quyt
40
Hiền, Nguyễn Đăng Hùng, Nguyễn Đăng Trung,
Nguyễn Đăng Hiếu, Nguyễn Đăng Thuận), đều là sĩ
quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngoài ra,
còn có các doanh nghiệp, như Tổng Công ty 36,
Công ty CPXL&TM Trường Lộc, Công ty
ĐTXLTM&CN An Phú, Công ty CP Anh Quân và các
nhà hảo tâm, như ông Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn
Trung Dũng, Trần Văn Thanh, Đào Tiến Thành,
Nguyễn Hồng Tuấn, Trương Công Thịnh, Vũ Lập
Phương, Võ Văn Ba, Lương Văn Trinh (đều là các
giám đốc công ty con - thuộc Tổng Công ty 36), các
ông Dương Duy Ngọc - Giám đốc Công ty Thang
máy Thăng Long, ông Võ Tấn Thịnh ở Tp. Hồ Chí
Minh, ông Nguyễn Tuấn, bà Nguyễn Thị Mai, ông
Nguyễn Thanh Lượng thuộc Công ty Thủ Đô, ông
Lê Xuân Hà ở xã Nghi Phú, Tp. Vinh... Sau ba năm
phục dựng trên cơ sở khoa học và những tư liệu
lịch sử để lại, đến ngày 15/7/2012, công trình đã
khánh thành, được quy hoạch trong khuôn viên
rộng 7.000m2, với 9 hạng mục chính: thượng điện
(cung đệ nhất), trung điện (cung đệ nhị), hạ điện
(cung đệ tam), nhà hóa vàng, nhà phục vụ, núi đất,
nghi môn, sân và bia đá - Những hạng mục này
đều được phục dựng, tôn tạo theo lối kiến trúc
truyền thống, di tích ngày càng khang trang.
Theo Anh hùng Lao động - Đại tá Nguyễn Đăng
Giáp, việc phục dựng ngôi đền, đã góp phần củng
cố đời sống văn hoá tinh thần và tâm linh của nhân
dân địa phương, với tinh thần “Phi cổ bất thành
kim”; khơi sâu đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của
nhân dân trong vùng, giáo dục cho thế hệ trẻ biết
noi gương những bậc nhân thần, tiên hiền để phấn
đấu, học tập, làm việc, đóng góp cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đền Diên Cờ được tôn tạo,
phục dựng là thành quả của một hướng đi đúng
đắn, là sự cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị di tích, góp phần
bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc 
Trong một lần về với Diên Cờ, Giáo sư - Anh
hùng Lao động Vũ Khiêu đã cho biết: “Được đến
thăm và chứng kiến đền Diên Cờ, một công trình
văn hóa - lịch sử gắn với tên tuổi của những vị tiên
liệt của nước Việt ta, tôi càng ghi nhận công lao,
Nguyucthn Thuthhoic - Kim Dung: Xž hi h‚a hot ng...
Rc kiucthsacu trong hi n Di˚n C
 - uhoasacnh: Trn Quyt
tâm sức và sự tri ân của thế hệ hôm nay. Từ công
trình này, mỗi người đến đây sẽ chiêm nghiệm cho
mình về trách nhiệm với dân, với nước trong công
cuộc xây dựng đất nước hôm nay. Cho nên, như tôi
đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt, nhưng nhân kiệt
cũng sinh địa linh là như thế, mà Đại tá, Anh hùng
Lao động Nguyễn Đăng Giáp là một minh chứng!”.
2. Về ngôi đền hiện nay
2.1. Ý nghĩa kiến trúc
Về cơ bản, kiến trúc đền hiện nay đã được phục
dựng theo một trật tự nhất định của truyền thống-
Mở đầu là nghi môn khá đồ sộ, với ba cửa vào, hình
vòm cuốn ở tầng đế, thoáng như mang hơi hướng
của những cửa “nhập tẫn”, “xuất huyền” để nhập
vào lẽ đạo. Phảng phất đâu đó, tinh thần của Nho
giáo đã thâm nhập vào tư duy dân gian, mà biểu
hiện cụ thể là ba tầng lầu ở phía trên, đều được kết
cấu theo hình thức hai tầng tám mái, như gắn với
triết lý “Tam tài” (thiên - địa - nhân) và “Dịch học”. 
Từ nghi môn, theo đường thần đạo, vào cung
đệ nhất. Trước mặt tòa này là bức bình phong, với
ý nghĩa để chống quỷ dữ và khí độc thâm nhập
vào chính điện. Sát phía trước của bình phong, là
tượng hổ bằng đá, với tư cách là thần linh cai
quản mặt đất, có khả năng trừ tà, sát quỷ, đồng
thời, cũng biểu trưng cho uy lực của nhà thánh.
Trước bình phong còn có một ban thờ nhỏ, bằng
đá, tạo nên một chỉnh thể trong việc thờ cúng
Thổ Địa. Sau bình phong, qua một khoảng sân
hẹp là đến cung đệ nhất, với kiến trúc ba gian, hai
chái lớn. Tòa này, được kết cấu theo kiểu hai tầng
tám mái, với các góc đao cong duyên dáng. Điều
đáng quan tâm, là yếu nghĩa gắn với “triết học”
truyền thống của ông cha ta đã được tuân thủ
một cách khá triệt để. 
Trước hết, nền của tòa này được bó vỉa đá để
xác nhận về một “không gian thiêng” của thánh
thần3 Ở mặt đứng kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng,
đối với những tín đồ, bao giờ họ cũng mong muốn,
khi hành lễ, thắp hương được đứng trong dòng
chảy sinh lực thông tam tầng vũ trụ: thiên - địa -
nhân. Trong kiến trúc đền Diên Cờ cũng rất dễ nhận
S 1 (58) - 2017 - Di sn v	n h‚a v
t th
41
Hšng thuthhoi nht tuthnga phi qua trŸi: y vi˚n B Ch˝nh tr, Ph‚ Thuchoasac tng Ch˝nh phuchoasac Vng ˜nh Huucthsac vš Anh h•ng Lao ng
Nguyucthn 	ng GiŸp dŽng hng ti n - uhoasacnh: Trn Quyt
42
ra điều này, đó là: mái tượng trưng cho tầng trời, với
các biểu tượng về mặt trời, mặt trăng, đôi hồi long
tượng cho mây và những chi tiết khác mang ý
nghĩa cầu mưa, cầu mùa, cầu sinh sôi, phát triển
Ý thức này ít nhiều đã chịu sự ảnh hưởng của Nho
giáo, để cầu cho muôn vật ngày một tăng trưởng
theo ước vọng của con người, hợp với tư duy nông
nghiệp muôn thuở của người Việt. Và, đó cũng là
ước vọng của những người con Diên Cờ xưa và nay. 
Qua một khoảng sân rộng thứ hai, đến cung đệ
nhị. Kết cấu của tòa này như là sự lặp lại kết cấu của
cung đệ nhất. Tuy nhiên, kiến trúc lại được dựng
trên nền cao hơn 2 bậc (khoảng 30cm). Hai cung đệ
nhất và đệ nhị ít nhiều chịu ảnh hưởng của kiến trúc
Huế, như đã xuất hiện hình thức hồi long ở bờ nóc,
đặc biệt là ở cổ diêm giữa hai tầng mái, được bưng
lại, với hình thức chia ô, mà ít nhiều chúng ta như
thoáng thấy bóng dáng của hình thức điêu khắc
truyền thống. Những đường chia ô khá lớn, nổi
khối, nhô ra phía trước, như muốn đẩy hình trang trí
lùi về phía sau. Đây là một giải pháp kỹ thuật, tạo
cho đề tài được thể hiện trong ô mang giá trị mỹ
thuật cao hơn. 
Sau cung đệ nhị, là một khoảng sân rộng, dẫn
vào cung đệ tam, là nơi thờ những vị thần chính của
cả quần thể kiến trúc này. Các kiến trúc sư và chủ
hưng công đã khẳng định vị trí trọng tâm thờ tự của
tòa này bằng cách đặt nó trên một nền cao nhất - 9
bậc (cửu trùng), với kết cấu 5 gian, 2 chái và mặt
đứng với 3 tầng mái, 12 góc đao cong, hai lần cổ
diêm. Đứng trước tòa này, khách hành hương như
không khỏi suy ngẫm về sự to lớn tương đối của
kiến trúc, các vị thần được thờ, mà còn phải chú ý
đến tính triết học của nó. Cụ thể như: đối với những
ngôi chùa, kiến trúc ba tầng mái, thường nằm sau
Phật điện, mang ý nghĩa “tam phẩm vãng sinh”, gắn
với thế giới của Tây phương cực lạc, nơi của những
chúng sinh có Phật quả cao, thấp khác nhau, được
tái sinh từ những bông sen to, nhỏ và ở các tầng
bậc khác nhau. Đương nhiên, thế giới của các kiếp
đời đã qua còn gắn với tháp cửu phẩm liên hoa
nằm trong tòa nhà ba tầng đó.
Đối với những cung điện, hoặc những kiến trúc
phi Phật, thì tòa nhà 3 tầng mái lại biểu trưng cho
Tam tài (thiên - địa - nhân, tức ba thế lực chính chi
phối 3 thế giới của vũ trụ theo trục đứng), thường
ở phía trước, như Hiển Lâm các của Thế miếu, thuộc
Đại nội Huế. 
Suy cho cùng, đó là sự tổng hòa, tổng hợp từ
những đặc trưng kiến trúc cổ truyền Việt và sự sáng
tạo, phát triển của đương đại, với khát vọng muôn
đời, muôn thuở, đó là: thiên - địa - nhân (trời - đất và
người) hợp nhất...
2.2. Hệ thống thờ tự và thần linh
Thông thường, đối với những kiến trúc gắn với
triết lý “Tam tài”, tòa đằng trước, thường gần gũi với
thế gian, nếu là chùa thì đó là nơi chúng sinh ngồi
tụng kinh, còn trong trường hợp của đền Diên Cờ,
vị trí này (cung đệ nhất) thích hợp với nhân vật lịch
sử - Cương Quốc công Nguyễn Xí. Và, tòa sau cùng
(cung đệ tam), với ba tầng mái, hợp với Cao Sơn
(núi cao), Cao Các (gác cao), vì đỉnh núi thường có
mây vờn, chân núi chìm trong lòng đất - Ở khía
cạnh văn hóa tín ngưỡng và tâm linh, núi được coi
là một trục vũ trụ trong quan hệ đối đãi giữa trời và
đất, một cặp uyên ương thần - thánh, thuộc tư duy
liên tưởng của người xưa. Đương nhiên, cung đệ
nhị thích hợp với việc thờ Mẫu Liễu Hạnh và chư vị
thần linh thuộc hệ tín ngưỡng này
Đối với người Việt, núi Tổ, như khởi đầu được
gán cho núi Ba Vì. Từ Ba Vì mà thần Núi được đời
hóa, nhân cách hóa để trở thành ba vị thần: Tản
Viên, Cao Sơn và Quý Minh. Qua đó, chúng ta hiểu
rằng, đây là một biểu tượng về “Tam vị nhất thể” - ba
mà là một, một mà là ba. Rõ ràng, từ Cao Sơn chỉ
núi cao, dễ nhận thức đối với cư dân nông nghiệp
Việt, nên vị thần Cao Sơn đã tràn đi khắp mọi miền
theo bước chân của tộc người chủ thể. Cũng vì thế
mà Cao Sơn sớm trở thành vị thần biểu trưng của
nguồn hạnh phúc nông nghiệp, nên nhiều địa
phương, dù không có núi vẫn thờ Ngài là Đức
Thánh Cả. Với một vị anh hùng văn hóa được nảy
sinh từ thời nguyên thủy như Tản Viên, muốn tồn
tại trong lịch sử thì đương nhiên phải được người
đời bổ sung cho những thần tích, như lấy vợ, giúp
nước chống ngoại xâm, hay dạy dân những nghề
sản xuất cụ thể để thích ứng với yêu cầu tâm linh
của cư dân ở các địa phương khác nhau. 
Với Cương Quốc công Nguyễn Xí, vị tướng
anh hùng của Lê Lợi, có công lớn trong việc
Nguyucthn Thuthhoic - Kim Dung: Xž hi h‚a hot ng...
chống quân Minh xâm lược. Ngài đã từng đánh
Đông, dẹp Bắc. Sau khi mất, Ngài đã trở thành
phúc thần, đặc biệt đối với cư dân gắn với những
con thuyền xuôi ngược nối Nghệ An với vùng
châu thổ Bắc Bộ. Theo dòng lịch sử, vai trò của
Ngài đã vượt ra ngoài quê gốc để trở thành vị
thần được tôn thờ trong tâm thức chung của
người Việt - Ngài, đã nhập vào hệ thống thờ Mẫu
để mang tư cách quan Hoàng Mười, với một
phong thái của người trí thức phong lưu, đại
diện cho ước vọng muôn đời, muôn thuở của cư
dân thôn xã và trở thành một vị thần chính trong
thần điện của tín ngưỡng thờ Mẫu. Không một
cuộc hầu đồng nào vắng giá hầu Ngài, với tư
cách của một người cha ban phúc lộc cho những
tín đồ của hệ thống thần điện này. Thông
thường, những nơi thờ riêng Ngài, cũng như các
vị thần linh khác, theo tinh thần chung của
người Việt, thường phối thờ thân phụ, thân mẫu.
Theo đó, ở trung tâm của cung đệ nhất, đền
Diên Cờ là nơi ngự của Ngài, với gian sát bên trái
nên là nơi của thân phụ; và, tương ứng bên phải
là nơi thờ thân mẫu. Tất nhiên, ban thờ thân phụ,
thân mẫu, thường được làm nhỏ hơn ban thờ
chính chút ít, nhưng cũng đủ để biểu hiện sự
kính ngưỡng đối với thánh và để làm gương cho
người đời noi theo. 
Tục thờ Mẫu ở nước ta bắt nguồn từ thời
nguyên thủy, với bà chúa Rừng, rồi qua bà mẹ Xứ
sở, xuống đến vùng đồng bằng giáp biển thì xuất
hiện hệ Thánh Mẫu Tứ phủ, bao gồm bốn hệ thống
cơ bản.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và
thẩm mỹ của di tích, năm 2016, đền Diên Cờ đã
được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Thoáng qua đôi nét về giá trị lịch sử - văn hóa
và yếu nghĩa triết học qua kiến trúc cùng hệ thần
linh để cùng nhau thấy rằng, đền Diên Cờ, xứ
Nghệ, với những nét độc đáo và riêng biệt luôn
hòa trong dòng chảy lịch sử - văn hóa chung của
xứ Nghệ và dân tộc. Đó là một bài học gắn với
hoạt động xã hội hóa trong công tác bảo vệ và
phát huy giá trị di tích, nơi trời - đất và con người
hội tụ để giữ mạch nguồn kết nối quá khứ - hiện
tại và tương lai.
3. Bài học kinh nghiệm về xã hội hóa trong
công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích 
Qua thực tiễn hoạt động xã hội hóa công tác
bảo vệ và phát huy giá trị di tích thời gian qua và
trường hợp đền Diên Cờ, có thể tạm rút ra một số
bài học kinh nghiệm về công tác xã hội hóa hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị di tích, như sau:
- Thứ nhất, về mặt nhận thức, di sản văn hóa,
trong đó có di tích, cơ bản, vốn thuộc sở hữu của
cộng đồng (làng/xã), do làng/xã, dòng họ tự quản.
Trước đây, khi công trình bị hỏng, dân làng, hay
dòng họ thường kêu gọi đóng góp để sửa chữa hay
làm mới. Tính tự phát khi thực hiện tu bổ di tích
trong làng xã, phố phường hiện nay còn khá cao,
nên việc quản lý hoạt động tu bổ di tích rất phức
tạp. Do đó, trước khi tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích,
cần lập dự án trình cơ quan có thẩm quyền thẩm
định, phê duyệt... Mặt khác, với đặc thù ở nước ta,
S 1 (58) - 2017 - Di sn v	n h‚a v
t th
43
Anh h•ng Lao ng - GiŸo s Vuchoahuyen Khi˚u v d hi 
n Di˚n C
 2016 - uhoasacnh: Trn Quyt
Cuchoahoi Nguyucthn 	ng C"n - 
Chuchoasac hng c“ng tr•ng tu, t“n to n - uhoasacnh: Trn Quyt
44
phần lớn di tích đều đã tồn tại qua nhiều thời kỳ lịch
sử, ít khi có bản vẽ thiết kế và ảnh chụp để lại.
Nguồn tư liệu lịch sử và những ghi chép chi tiết về
diện mạo kiến trúc của di tích rất hiếm; các nhân
chứng lịch sử am tường về kiến trúc trước khi trở
thành phế tích không nhiều... Theo đó, khi phục
dựng di tích luôn gặp nhiều khó khăn trong việc
xác định cơ sở khoa học. Vì vậy, trước khi tiến hành
phục dựng, cần thiết phải có quá trình nghiên cứu
bài bản, đồng thời, phải phối hợp chặt chẽ với cơ
quan quản lý, đơn vị chuyên môn, đội ngũ chuyên
gia để xác định rõ cơ sở khoa học của việc phục
dựng từng di tích cụ thể;
- Thứ hai, xã hội hóa là một quá trình mang tính
xã hội trong mối tương tác đa chiều, nên yếu tố
quyết định sự thành công của hoạt động này chính
là sự kết hợp chặt chẽ, bài bản giữa cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan chuyên môn và cá nhân, tổ
chức tham gia vào quá trình xã hội hóa hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị di tích;
- Thứ ba, có thể khẳng định, tiềm năng của
nguồn lực xã hội hóa trong công tác bảo vệ và
phát huy giá trị di tích là rất lớn. Nếu được khai
thác và sử dụng hiệu quả, sẽ tạo ra những đóng
góp không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, góp phần giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay
nay. Theo đó, nhà nước cần nghiên cứu để đưa ra
những chính sách cụ thể hơn trong việc huy động,
sử dụng nguồn lực xã hội hóa, đồng thời, có hình
thức tôn vinh xứng đáng đối với những tập thể, cá
nhân điển hình trong công tác bảo vệ và phát huy
giá trị di tích;
- Thứ tư, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
di tích là một quá trình liên tục, gắn liền với sự hình
thành và tồn tại lâu dài của di tích. Vì vậy, không
nên hiểu một cách giản đơn, là công tác xã hội hóa
chỉ gắn với một giai đoạn tu bổ, tôn tạo, phục hồi di
tích cụ thể. Theo đó, công tác xã hội hóa hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị đối với mỗi di tích cũng
rất cần có một kế hoạch, chiến lược dài hạn, cụ thể
và phải được kế thừa, bổ sung sao cho phù hợp với
nhu cầu thực tiễn;
- Thứ năm, lịch sử đã cho thấy, yếu tố văn hóa,
tín ngưỡng và tôn giáo là những hạt nhân căn bản
góp phần định hình và duy trì hệ thống di tích ở
nước ta. Vì vậy, việc duy trì sự hài hòa các nhân tố
này cũng cần được đặc biệt chú trọng trong công
tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
di tích hiện nay./.
N.T - K.D
Chú thích:
1- Xem thêm: Điều 57, Luật di sản văn hóa (2001).
2- Xem thêm: Điều 58, Luật di sản văn hóa (2001).
3- Theo các nhà dân tộc học, thời kỳ đồ đá, đồ đồng qua đi,
các hiện vật của đương thời dần chìm vào trong lòng đất và con
người cũng dần quên đi. Sau đó, do một sự vô tình nào đó, họ
gặp lại những hiện vật này. Họ không tin đó là sản phẩm do con
người làm ra và cũng không tin những vật ấy có sẵn trong tự
nhiên. Cuối cùng, họ đã gán cho những vật đó là của thần
linh Rồi, bằng tư duy liên tưởng, những thứ bằng đá, bằng
đồng được con người cho là vật mang một “sức linh” nhất định.
Sau đó, những chất liệu này đã được sử dụng làm đồ thờ, linh
đạo, ngưỡng cửa, bậc thềm, bó vỉa nền kiến trúc thờ tự.
(Ngày nhận bài: 02/12/2016; ngày phản biện đánh giá:
25/12/2016; ngày duyệt đăng bài: 06/01/2017).
Nguyucthn Thuthhoic - Kim Dung: Xž hi h‚a hot ng...
Mt thoŸng hi n Di˚n C
 - 2013 - 
uhoasacnh: Trn Quyt
i biu Quc hi Dng Trung Quc v d hi 
n Di˚n C
 2016 - uhoasacnh: Trn Quyt

File đính kèm:

  • pdfxa_hoi_hoa_hoat_dong_bao_ve_va_phat_huy_gia_tri_di_tich_qua.pdf