Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam

Thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, tổng quan các tài liệu, dữ

liệu thứ cấp, nghiên cứu này phân tích thực trạng về xã hội hóa các loại hình dịch

vụ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dịch vụ gia đình đã trở nên

phổ biến ở khu vực kinh tế phát triển, tuy nhiên còn hạn chế ở những vùng điều

kiện kinh tế thấp hơn; xã hội hóa các dịch vụ gia đình thể hiện sự phát triển của

xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển, đem lại lợi ích cho

gia đình nói riêng, toàn xã hội nói chung.

pdf 5 trang kimcuc 4440
Bạn đang xem tài liệu "Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam

Xã hội hóa các dịch vụ gia đình ở Việt Nam
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 156
KINH TẾ
XÃ HỘI HÓA CÁC DỊCH VỤ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM 
SOCIALIZATION OF FAMILY SERVICES IN VIETNAM 
Nguyễn Thị Lan1* 
TÓM TẮT 
Thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, tổng quan các tài liệu, dữ 
liệu thứ cấp, nghiên cứu này phân tích thực trạng về xã hội hóa các loại hình dịch 
vụ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dịch vụ gia đình đã trở nên 
phổ biến ở khu vực kinh tế phát triển, tuy nhiên còn hạn chế ở những vùng điều 
kiện kinh tế thấp hơn; xã hội hóa các dịch vụ gia đình thể hiện sự phát triển của 
xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển, đem lại lợi ích cho 
gia đình nói riêng, toàn xã hội nói chung. 
Từ khóa: loại hình dịch vụ gia đình; xã hội hóa 
ABSTRACT 
Applying qualitative research methodology, a review of secondary literature 
and data, this study analyzes the current status of socialization of family services 
in Viet Nam. The results show that family services have become more prevalent 
in developed economies, but less popular in poorer areas. Socialization of family 
services demonstrates the development of society, creates a competitive 
environment, promotes development and brings benefit to family as well as the 
whole society. 
 Keywords: types of family service; socialization 
1Khoa Lý luận Chính trị - Pháp luật, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: lanlinhlinh@gmail.com 
Ngày nhận bài: 02/04/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 27/04/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 15/06/2018 
1. GIỚI THIỆU 
Trong cấu trúc cơ bản của xã hội (cá nhân - gia đình - xã 
hội), gia đình có vai trò và vị trí đặc biệt, quan trọng, vừa 
chuẩn bị hành trang cho mỗi cá nhân bước vào xã hội, vừa 
đón nhận từ xã hội những trọng trách to lớn trong việc duy 
trì sự ổn định và phát triển chung về mọi phương diện, 
nhất là giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hóa dân tộc từ 
thế hệ này sang thế hệ khác. Xã hội hóa việc cung cấp các 
dịch vụ gia đình là hoạt động vừa mang tính kinh tế vừa 
mang ý nghĩa xã hội. Khi được hỗ trợ những hoạt động gia 
đình, các thành viên lao động chính trong gia đình sẽ tập 
trung cho sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế, đồng 
thời, việc chăm sóc người già, trẻ em vẫn được bảo đảm. 
Ngọn lửa ấm thật sự của hạnh phúc gia đình sẽ là chỗ dựa 
tinh thần cho mỗi cá nhân, là nền tảng cho sự bình ổn, tiến 
bộ của xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, đảm 
nhận những chức năng xã hội đặc thù: chức năng sinh sản - 
tái sản xuất ra con người, duy trì nòi giống, cung cấp nguồn 
nhân lực mới cho xã hội; chức năng nuôi dưỡng, giáo dục; 
chức năng kinh tế - tổ chức đời sống gia đình, bảo đảm các 
nhu cầu sống cơ bản của các thành viên; chức năng đáp 
ứng nhu cầu tâm, sinh lý, tình cảm, chia sẻ, chăm sóc, yêu 
thương đặc biệt giữa các thành viên gia đình. Chính vì vậy, 
sự tồn tại và phát triển của gia đình không chỉ liên quan 
đến cuộc sống của từng cá nhân mà còn liên quan đến sự 
ổn định và phát triển của xã hội. Đánh giá được ý nghĩa 
quan trọng đó của gia đình, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 
XII đã nêu, “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá 
trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn 
hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi 
quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của 
phát triển bền vững. Xây dựng môi trường văn hóa lành 
mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp 
về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ 
năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã 
hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp 
luật; phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp 
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). 
Vấn đề xã hội hóa việc cung cấp các dịch vụ gia đình 
hay còn gọi là hệ thống dịch vụ hỗ trợ gia đình là nhóm 
hoạt động vừa mang tính kinh tế vừa mang ý nghĩa xã hội 
rộng khắp; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thời 
gian, kiến thức để phát triển gia đình và các thành viên gia 
đình có nhiều thời gian quan tâm đến nhau hơn. Hoạt 
động này sẽ phát triển hơn ở khu vực điều kiện kinh tế cao 
nhưng vẫn cần thiết được thực hiện ngay cả những khu vực 
mà điều kiện kinh tế còn hạn chế. Khi được hỗ trợ những 
hoạt động gia đình, các thành viên lao động chính sẽ tập 
trung cho đầu tư sản xuất, tăng trưởng kinh tế; việc chăm 
sóc người già, trẻ em được đảm bảo. Hiện nay, việc chuyên 
môn hóa giữa các ngành, lĩnh vực ngày càng sâu sắc, 
những loại hình dịch vụ nói chung, dịch vụ gia đình nói 
riêng ngày càng phát triển đa dạng về hình thức và nội 
dung. Xã hội hóa mạnh mẽ việc cung ứng các dịch vụ gia 
đình thể hiện sự phát triển của xã hội. Quá trình này cũng 
tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy xã hội phát triển, 
đem lại sự thuận lợi cho các gia đình trong việc thụ hưởng 
các dịch vụ của xã hội. 
2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, thu thập 
các dữ liệu thứ cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu, tác 
giả đã tổng hợp, phân tích thực trạng về xã hội hóa các loại 
hình dịch vụ gia đình ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra cho 
hoạt động này trong giai đoạn hiện nay. 
3. KẾT QUẢ VÀ BÌNH LUẬN 
Các loại hình dịch vụ gia đình ở Việt Nam hiện nay 
Với trình độ phát triển của nước ta hiện nay, dịch vụ gia 
đình được chia thành một số loại hình cơ bản, như sau: dịch 
vụ công, dịch vụ sản xuất - tiêu dùng, dịch vụ y tế - giáo 
dục và dịch vụ văn hóa (hình 1). 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 157
(Nguồn: Phạm Ngọc Trung, 2016) 
Hình 1. Các loại hình dịch vụ gia đình ở Việt Nam hiện nay 
 (i) Xã hội hóa dịch vụ công là những dịch vụ thuộc lĩnh 
vực đất đai (cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 
quyền sở hữu tài sản trên đất); xây dựng (giấy phép xây 
dựng, mua bán, sang tên đổi chủ bất động sản); đăng ký 
quyền cư trú, tạm trú, tạm vắng, hộ khẩu, làm chứng minh 
nhân dân, khai sinh, khai tử, lập di chúc, nhập học vào các 
trường lớp trong hệ thống giáo dục quốc gia, đăng ký kết 
hôn và hoạt động liên quan đến tố tụng thuộc hệ thống 
pháp lý (xử án dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình). Quan 
điểm về xã hội hoá dịch vụ công được hình thành từ Nghị 
quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VII) 
và được chính thức đưa vào trong văn kiện Đại hội Đảng 
VIII, “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh 
thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời 
động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức 
trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham 
gia giải quyết các vấn đề xã hội”. Nghị quyết Đại hội Đảng 
IX tiếp tục khẳng định, “Các chính sách xã hội được tiến 
hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của 
chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân 
dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức 
xã hội”. Như vậy, xã hội hoá chính là huy động nguồn lực từ 
khu vực tư nhân và sự tham gia của mọi thành phần kinh tế 
vào việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của 
Nhà nước, nhưng không làm giảm vai trò, trách nhiệm của 
Nhà nước trong việc đảm bảo các dịch vụ công cơ bản cho 
người dân. Về cơ bản, có thể hiểu dịch vụ công gồm nhiều 
loại hình dịch vụ, từ dịch vụ vui chơi, giải trí, y tế, giáo dục, 
cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo cho đến phúc lợi xã hội... 
Khi kinh tế và đời sống xã hội phát triển thì ngày càng có 
thêm nhiều loại hình mới về dịch vụ công với những 
phương thức cung cấp mới. Cùng với sự mở rộng của nền 
kinh tế thị trường, mức sống và lối sống của người dân 
ngày càng được nâng cao, phát sinh nhiều nhu cầu xã hội 
mới, nhất là sự khác biệt về nhu cầu giữa các đối tượng, 
thành phần và khu vực khác nhau (thành thị, nông thôn). 
Sự thay đổi như vậy luôn tạo ra áp lực cho chính quyền (tổ 
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, ngân sách), vượt quá khả 
năng cung ứng và quản lý của Nhà nước. Do đó, xã hội hóa 
dịch vụ công là xu hướng tất yếu mà các thành phố đều 
hướng đến trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị. 
Xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực gia đình và dịch 
vụ công cho toàn xã hội là những căn cứ chủ yếu để đánh 
giá, tìm hiểu chỉ số PAPI (chỉ số hài lòng của dân chúng đối 
với bộ máy công quyền). Chỉ số này thể hiện trình độ và 
đạo đức của bộ máy công chức, viên chức, thể hiện sự văn 
minh, tiến bộ xã hội. Do đó, vấn đề xã hội hóa dịch vụ công 
trong lĩnh vực gia đình giúp các vấn đề nêu trên được giải 
quyết nhanh chóng, góp phần tiết kiệm thời gian, lao động, 
tạo ra nhiều của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống của 
mỗi gia đình - tế bào của xã hội. 
(ii) Xã hội hóa dịch vụ y tế - giáo dục đã trở nên phổ 
biến trong xã hội hiện đại. Trong dịch vụ y tế, khám chữa 
bệnh, chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp (thẩm mỹ), tâm sinh lý, 
sinh đẻ có kế hoạch, phòng chống dịch bệnh và vệ sinh an 
toàn thực phẩm, tham gia dịch vụ trong lĩnh vực này là 
những bác sĩ, nhà khoa học ở các bệnh viện (công và tư), 
trung tâm y tế dự phòng, viện khoa học chuyên ngành. Đặc 
biệt, hệ thống bác sĩ gia đình (chiếm 20% tổng dân số) là 
lực lượng quan trọng trực tiếp tham gia vào quá trình chăm 
sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, tư vấn 
thường xuyên, kịp thời để phát hiện, ngăn ngừa, xử lý các 
bệnh hiểm nghèo đúng lúc, có hiệu quả. Bác sĩ gia đình là 
loại hình dịch vụ gia đình tiến bộ, góp phần bảo vệ sức 
khỏe nhân dân và giảm bớt chi phí, thời gian, sự quá tải ở 
các bệnh viện. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, chi 
cho sức khỏe hàng năm ở các quốc gia chiếm một tỷ lệ 
không nhỏ trong tổng sản phẩm thu nhập kinh tế quốc 
dân. Việt Nam là quốc gia đứng hàng đầu trong khu vực 
Đông Nam Á về chi phí cho sức khỏe hàng năm với 6,6% 
(Singapore là 4,2%, Thái Lan là 3,9%); ở nước Anh, chi 9% 
GDP, mỗi người dân chi khoảng 1.350 bảng/năm (tương 
đương 150,6 tỷ bảng/năm); nước Mỹ chi 16,9% GDP, mỗi 
người dân bình quân chi 8.000 USD/năm (tương đương 250 
tỷ USD/năm). Đây được coi là một dịch vụ tiện ích, quan 
trọng trong cuộc sống hiện đại. Hiện, nhiều quốc gia trên 
thế giới xem Hàn Quốc, Thái Lan là thiên đường thẩm mỹ. 
Hàng năm, hơn 4.000 trung tâm dịch vụ thẩm mỹ trên khắp 
đất nước Hàn Quốc phục vụ khoảng 650.000 người với chi 
phí trên 50 tỷ USD, riêng thủ đô Seoul phục vụ 60.000 
người/năm. Dịch vụ này đã và đang có xu thế phát triển 
mạnh ở nước ta. Mỗi cá nhân, tổ chức đều biết đến các dịch 
vụ làm đẹp, tư vấn và trực tiếp tham gia các dịch vụ mà 
mình lựa chọn phù hợp với thẩm mỹ, túi tiền mọi lúc, mọi 
nơi. Bên cạnh đó, nhu cầu được học tập một cách bài bản, 
hệ thống, theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế ở Việt Nam 
cũng phát triển mạnh trong những năm gần đây. Dân số 
Việt Nam hiện có trên 92 triệu người, với hơn 21,5 triệu 
người đang trong độ tuổi đi học, đây là một thị trường lớn, 
thu hút các quốc gia hàng đầu thế giới về lĩnh vực giáo dục, 
đào tạo quan tâm, đầu tư; với hơn 110.000 học sinh, sinh 
viên đang theo học ở 40 quốc gia trên thế giới, các gia đình 
phải chi trên 3 tỷ USD/năm cho con em học tập ở nước 
ngoài. Đó là một khoản chi tiêu lớn, tương đương với lượng 
ngoại tệ thu về hàng năm từ xuất khẩu lúa, gạo. Nếu dịch 
vụ xã hội hóa giáo dục gia đình trong nước được củng cố, 
phát triển kịp thời, nâng cao chất lượng giáo dục, từng 
bước hỗ trợ cho hệ thống giáo dục quốc gia, từ đó, chẳng 
những phục vụ cho người Việt Nam, mà còn thu hút các du 
học sinh quốc tế đến học tập, góp phần làm giảm lượng 
ngoại tệ chi cho giáo dục ra nước ngoài. Do đó, dịch vụ xã 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 158
KINH TẾ
hội hóa giáo dục gia đình cần được hình thành một cách có 
kế hoạch, chiến lược cụ thể, ngăn chặn các tình trạng còn 
tồn đọng, đồng thời nâng cao uy tín của giáo viên. Trong 
năm 2015, 2016, các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Pháp, 
Nhật đã quyết định mở một số trường ở Việt Nam hoặc 
liên kết với các trường trong nước tham gia vào quá trình 
cung cấp dịch vụ giáo dục. Đây là một chủ trương cần được 
quán triệt, thực hiện để áp ứng yêu cầu nguồn nhân lực 
chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước. 
Trong môi trường kinh tế thị trường đang phát triển 
mạnh mẽ ở nước ta hiện nay, vị trí của hơn 20 triệu gia đình 
ở Việt Nam là một thị trường rộng lớn, mỗi gia đình (hoặc 
một nhóm gia đình) ngày càng khẳng định là một đơn vị 
kinh tế tương đối độc lập với nhu cầu lớn và đa dạng về 
dịch vụ kinh tế, tiêu dùng. Những gia đình chuyên sản xuất, 
kinh doanh ở lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp rất cần xã 
hội hóa dịch vụ về giống cây trồng, vật nuôi, nguồn thức ăn 
cho gia súc, thuốc trừ sâu, bảo quản chế biến sau thu 
hoạch, xuất nhập khẩu nông sản, thực phẩm với các thị 
trường khu vực và quốc tế. Những gia đình hoạt động 
trong lĩnh vực công, thương nghiệp cần xã hội hóa dịch vụ 
về thị trường, nguyên-nhiên-vật liệu, kỹ thuật công nghệ 
để không ngừng cải tiến nâng cao năng suất lao động, chất 
lượng, hiệu quả sản xuất. Các công ty gia đình (hoặc một số 
gia đình có điều kiện) luôn quan tâm đến những loại hình 
dịch vụ bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm 
tài sản, bảo hiểm con người). Trong lĩnh vực y tế, xã hội 
hóa dịch vụ này sẽ góp phần nâng cao chất lượng trình độ 
chuyên môn cho bác sĩ, dịch vụ chăm sóc sức khỏe con 
người có tính cạnh tranh sẽ mang đến cho người bệnh 
những lựa chọn phù hợp. 
Những dịch vụ nguồn nhân lực lao động, việc làm, xuất 
khẩu lao động, cùng dịch vụ tài chính, tiền tệ, ngân hàng 
cũng là một thị trường lớn giúp cho nhiều công ty có thể 
hoạt động có hiệu quả. Do áp lực của công việc chuyên 
môn và tốc độ phát triển kinh tế đô thị hiện nay, nhu cầu 
nguồn nhân lực giúp việc gia đình ngày càng lớn. Nhiều gia 
đình muốn chăm sóc cho trẻ em và người cao tuổi một 
cách tốt nhất. Hiện nay, thị trường nhân lực giúp việc ở 
nước ta đang bỏ ngỏ cho các gia đình tự giao dịch, tìm 
kiếm. Cũng có một số công ty môi giới việc làm tham gia 
vào lĩnh vực này nhưng chưa chuyên nghiệp, thậm chí có tư 
tưởng làm ăn chộp giật. Chính vì vậy, thị trường này chưa 
phát huy hết hiệu quả, góp phần ổn định gia đình, mà còn 
tiềm ẩn nhiều rủi ro về an ninh, an toàn cho cả hai bên. Có 
nhiều trường hợp người giúp việc gia đình bị thiệt thòi về 
kinh tế, thậm chí bị hành hung, bạo lực. 
Dịch vụ gia đình trong lĩnh vực tiêu dùng, mua bán vật 
tư xây dựng, đồ nội thất, trang phục, thực phẩm cũng rất 
sôi động. Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công 
nghệ và đặc biệt là Internet, ngày nay mọi gia đình có thể 
mua bán các mặt hàng qua mạng ở mọi lúc, mọi nơi. Họ 
cũng có thể lắp đặt hệ thống camera an ninh để theo dõi 
các hoạt động của nhân viên trong khuôn viên sản xuất và 
sinh hoạt của người thân trong gia đình. Chủ hộ gia đình có 
thể tham khảo giá cả, chất lượng và lựa chọn được những 
dịch vụ hoàn hảo, như ý. 
(iii) Xã hội hóa dịch vụ gia đình về văn hóa là một trong 
những loại hình dịch vụ gia đình phát triển nhất hiện nay, 
như: dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí phát triển mạnh mẽ ở 
mọi vùng, miền trên đất nước. Nhờ xã hội hóa dịch vụ này, 
việc kết nối qua mạng ngày càng trở nên phổ biến và tiện 
lợi mà các công ty du lịch có thể trực tiếp hướng dẫn, tư 
vấn về những tour đa dạng, đáp ứng nhu cầu của mọi gia 
đình trong xã hội. Nhiều gia đình, kể cả ở miền núi hoặc hải 
đảo cũng có thể tham gia vào chuỗi dịch vụ du lịch trực 
tiếp với các gia đình khác trên mọi miền. Tuy nhiên, dịch vụ 
tổ chức hiếu, hỷ ở đô thị hiện nay đang bị biến thể, thực 
hiện theo cách hoàn toàn khác. Đám cưới ở các đô thị 
thường tổ chức ở khách sạn, nhà hàng, hoặc thuê người 
đến nhà nấu nướng, phục vụ. Đám hiếu thì thường được tổ 
chức ở nhà tang lễ của các bệnh viện hoặc của thành phố. 
Điều này đã dấn đến việc mối quan hệ huyết thống trong 
gia đình hoặc quan hệ với xóm làng bị mờ nhạt, mỗi gia 
đình tự lo liệu tùy theo hoàn cảnh của mình. Dịch vụ gia 
đình trong nghi lễ vòng đời của một con người từ khi sinh 
ra cho đến khi trưởng thành, cưới xin, lên lão, đến ma chay, 
cầu cúng đều có các công ty dịch vụ đảm nhận. Cách tổ 
chức này đã làm cho cảm xúc của con người thay đổi, cảm 
thấy buồn vì sự hiện diện của họ hàng, người thân, xóm 
làng không được đông đủ như xưa và nghi lễ cũng không 
còn sự trang nghiêm, trọng thể. Tuy nhiên, đây cũng có thể 
là con đường để tiến lên xã hội văn minh, tiến bộ. Tình yêu, 
hạnh phúc, đạo đức, sự hiếu thảo vẫn được thể hiện, chỉ có 
điều nó được thể hiện bằng cách thức đơn giản hơn, không 
cầu kỳ và tốn kém như xưa. Dịch vụ gia đình ở các đô thị về 
mặt nghi lễ, phong tục, tập quán là một nét đặc trưng, là 
loại nhu cầu đặc biệt không thể thiếu. 
Yếu tố tác động đến xã hội hóa các dịch vụ gia đình 
Xã hội hóa các dịch vụ gia đình dù ở loại hình nào đều là 
những hợp đồng kinh tế, vì vậy, luôn chịu sự tác động của 
những yếu tố: sự phát triển kinh tế, xã hội; luật pháp; 
phong tục tập quán; đạo đức; khoa học, công nghệ (hình 2). 
(Nguồn: Phạm Ngọc Trung, 2016) 
Hình 2. Yếu tố tác động đến xã hội hóa các dịch vụ gia đình 
Yếu tố kinh tế-xã hội: các loại hình dịch vụ gia đình ở 
nước ta hiện nay đang phát triển dần từ trình độ tự phát, 
mang đậm yếu tố tình cảm sang trình độ có tổ chức nhất 
định, mang đậm yếu tố kinh tế. Về bản chất, đây chính là 
mối quan hệ tương tác hai chiều (hoặc đa chiều) giữa một 
bên có nhu cầu dịch vụ và một bên có khả năng đáp ứng 
dịch vụ. 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 159
Yếu tố công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yếu tố đô thị 
hóa: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa 
đã góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, từng 
bước phá vỡ cấu trúc của gia đình tiểu nông truyền thống, 
dần dần hình thành tầng lớp thị dân với mô hình gia đình 
hạt nhân hai thế hệ là chủ yếu. Song song với sự phát triển 
kinh tế ngày càng cao, sự phát triển xã hội cũng đạt đến 
trình độ nhất định, làm cho thế hệ trẻ ngày nay thay đổi 
nhận thức. Họ nhận thức được rằng gia đình là tế bào của 
xã hội, cần phải tương tác, trao đổi thì tế bào gia đình mới 
có thể phát triển được. 
Yếu tố luật pháp, cơ chế, chính sách: để những dịch vụ 
gia đình đi vào cuộc sống, ngày càng trở nên rõ ràng, bảo 
đảm quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi bên đều được thực hiện 
tốt thì hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách cho những 
dịch vụ đó phải được xây dựng và ngày càng hoàn thiện. 
Hơn nữa, hệ thống cơ chế chính sách pháp luật cũng cần 
phải được cụ thể và minh bạch để có thể đi vào cuộc sống. 
Việt Nam với nền văn hóa phương Đông, trọng nghĩa hay 
nể nang, tâm lý nông dân còn đậm nét, đồng thời những 
yếu tố về tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc cũng chi 
phối, đã tác động đến các loại hình dịch vụ gia đình, vì vậy, 
những dịch vụ này cũng thiên về tình cảm hơn là về pháp 
lý, có thể xảy ra tranh chấp và thiệt thòi thường về phía 
người lao động. 
Yếu tố đạo đức biểu hiện rõ nét nhất qua nhân cách con 
người, cũng tác động không nhỏ đến các loại hình dịch vụ 
gia đình. Vì dịch vụ là thỏa thuận, hợp đồng giữa hai bên, 
cho nên mỗi bên đều phải có trách nhiệm hoàn thành 
những điều đã cam kết. Những cam kết đó chỉ được thực 
hiện tốt khi mọi người đều phải có đạo đức, lòng trung 
thực, tôn trọng đối tác và phẩm giá của mình. Có lòng tự 
trọng, coi đối tác như chính người thân của mình, đồng 
thời coi sự thành đạt của đối tác là một phần quan trọng 
trong công việc của mình thì mâu thuẫn, tranh chấp mới 
không xảy ra. 
Yếu tố toàn cầu hóa và sự phát triển của khoa học, 
công nghệ ngày càng tác động sâu sắc đến các loại hình 
dịch vụ gia đình. Từ khi tham gia vào toàn cầu hóa, nhận 
thức của đa số các bạn trẻ về vấn đề gia đình và dịch vụ gia 
đình đã thay đổi. Họ có thêm hiểu biết, thông tin và mô 
hình để tham khảo, nghiên cứu học tập, thực hiện. Tuy 
nhiên, khoa học công nghệ đã vô tình làm các thành viên 
trong gia đình giảm sự gắn kết, chia sẻ bằng lời nói, hành 
động trực tiếp. Công nghệ đã chiếm gần như toàn bộ thời 
gian của các thành viên trong gia đình nhất là đối với thế 
hệ trẻ. Hơn nữa, sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc 
biệt là truyền thông trong môi trường Internet đã thu hẹp 
khoảng cách giữa các cá thể trong xã hội, từ bữa ăn, giấc 
ngủ, phương tiện sinh hoạt trong gia đình cho đến nhu cầu 
tinh thần, vui chơi giải trí, học tập, tư vấn, chia sẻ tình 
cảm đều có thể được phục vụ chu đáo, ranh giới giữa các 
gia đình với hệ thống dịch vụ gia đình trên quy mô quốc 
gia và quốc tế dường như đang bị xóa nhòa. Xã hội hóa 
dịch vụ gia đình vượt qua các rào cản, xuyên quốc gia, có 
thể kết nối với từng gia đình, trên các lĩnh vực làm cho mọi 
nhu cầu đều được đáp ứng bất kỳ lúc nào. Đó là một bước 
tiến lớn lao của xã hội, dựa trên nền tảng của khoa học, 
công nghệ hiện đại nhưng chính điều này lại dần gia tăng 
khoảng cách giữa các thành viên trong gia đình. 
Vấn đề đặt ra từ xã hội hóa dịch vụ gia đình 
Bên cạnh việc xã hội hóa các dịch vụ gia đình mang lại 
lợi ích thiết thực, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển thì 
vấn đề xã hội hóa dịch vụ gia đình cũng cho thấy còn nhiều 
vấn đề nảy sinh: 
Xã hội hóa dịch vụ công gia đình: dịch vụ thuộc lĩnh 
vực đất đai (cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 
quyền sở hữu tài sản trên đất) xây dựng (giấy phép xây 
dựng, mua bán, sang tên đổi chủ bất động sản); đăng ký 
quyền cư trú, tạm trú, tạm vắng, hộ khẩu, làm chứng minh 
nhân dân, khai sinh, khai tử, lập di chúc, nhập học vào các 
trường lớp trong hệ thống giáo dục quốc gia, đăng ký kết 
hôn và hoạt động liên quan đến tố tụng thuộc hệ thống 
pháp lý (xử án dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình). Tuy 
nhiên, trong quá trình thực hiện các dịch vụ trên đã hình 
thành một đội ngũ không nhỏ làm việc trung gian (cò đất, 
cò làm các loại giấy tờ) nhằm kiếm lợi hoặc gây khó khăn 
cho các bên tham gia. 
Xã hội hóa dịch vụ y tế - giáo dục: khi thực hiện xã hội 
hóa ở góc độ nào đó đã làm bộ phận không nhỏ cán bộ, 
giáo viên, bác sĩ bị tha hóa về phẩm chất. Lợi dụng xã hội 
hóa các dịch vụ gia đình một số các bác sĩ, cán bộ, giáo viên 
đã tư lợi cá nhân, lợi dụng ép làm thêm, học thêm tràn làn 
gây tốn kém về vật chất và ảnh hưởng đến súc khỏe của 
các thành viên trong gia đình. Trong y tế cũng như trong 
giáo dục bắt đầu hình thành tư tưởng của một bộ phận 
không nhỏ những người có tiền có thái độ không tôn trọng 
đức nghề nghiệp, truyền thống tôn sư trọng đạo của nghề. 
Bên cạnh đó, xã hội hóa dịch vụ gia đình y tế, giáo dục đã 
ảnh hưởng đến vấn đề công bằng người đến trước không 
có tiền vẫn phải chờ đợi, người có tiền được quan tâm 
chăm sóc, ưu tiên hơn. 
Xã hội hóa dịch vụ văn hóa: các gia đình có thể tự do 
lựa chọn các tour du lịch, nhà hàng, khách sạn theo ý thích 
nhưng một số kẻ đã lợi dụng các thông tin trên mạng để 
lừa đảo như: book vé máy báy chuyển tiền trước nhưng đến 
sân bay không có vé, đặt nhà hàng, khách sạn nhưng ăn 
uống, ở, đi lại không đúng như trong quảng cáo, hợp đồng. 
Trong các đám cưới ở thành phố, đa số mời những người 
có tiền, có địa vị ở các nhà hàng sang trọng như để thể hiện 
đẳng cấp chứ không còn là niềm vui hỷ của cả dòng họ. 
Việc tang gia bối rối đã dần mất đi chữ nghĩa và tình: thuê 
người khóc mướn, không tổ chức tang lễ tại nhà, nhanh 
chóng đưa tang, thậm chí còn “check in” tươi cười trong 
đám ma (thuê trọn gói). 
4. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng về mảng ghép loại 
hình dịch vụ gia đình trong bức tranh tổng thể về các loại 
hình dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam. Dịch vụ gia đình 
đã và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô và thể loại, đây 
cũng là tất yếu khách quan trong bối cảnh Việt Nam đang 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 160
KINH TẾ
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Các loại hình dịch vụ 
gia đình đã và đang giúp cho sinh hoạt gia đình ngày càng 
trở nên thuận tiện, hiệu quả. Trong xu thế toàn cầu hóa, 
Việt Nam đã gia nhập WTO, FTA... vì vậy, thị trường dịch vụ 
gia đình có nhiều cơ hội để phát triển, tuy nhiên yếu tố 
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, để hội 
nhập trong khu vực và thế giới, các loại hình dịch vụ gia 
đình cần được sự quan tâm từ cấp Trung ương đến địa 
phương và sự chung tay hành động của toàn xã hội. Bên 
cạnh đó, cần tiếp tục duy trì, thực hành các nguyên tắc đạo 
đức đối với thế hệ trẻ trong quá trình này. Có như vậy, các 
loại hình dịch vụ gia đình mới phát huy tối đa hiệu quả, 
không ngừng nâng cao chất lượng sống cho gia đình Việt 
Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này còn hạn chế, chỉ áp dụng 
các phương pháp nghiên định tính mà chưa có nghiên cứu 
định lượng để đo lường sự tác động của các yếu tố đến xã 
hội hóa các dịch vụ gia đình, đây cũng chính là hướng 
nghiên cứu tiếp theo của tác giả trong tương lai./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 29. 
2. Nguyễn Văn Quang, (2010). Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung 
ứng dịch vụ công ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội, 
LH-08-06-ĐHLHN. 
3. Phạm Ngọc Trung, (2016). Loại hình dịch vụ gia đình ở Việt Nam dưới 
góc nhìn văn hóa. Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam, 
van-hoa-47032 

File đính kèm:

  • pdfxa_hoi_hoa_cac_dich_vu_gia_dinh_o_viet_nam.pdf