Về phát triển loại hình du lịch sinh thái tại Việt Nam

Du lịch sinh thái phát triển từ thập niên 1990 và có xu hướng ngày càng tăng

mạnh. Nhìn chung, tài nguyên phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam rất đa dạng và phong

phú, gắn với không gian 7 vùng du lịch đã được quy hoạch, mỗi vùng có tài nguyên du lịch

đặc trưng thu hút du khách. Nhưng trên thực tế, loại hình và sản phẩm du lịch sinh thái ở

Việt Nam chưa gây được ấn tượng đến du khách, đặc biệt là du khách thụ hưởng du lịch

sinh thái cao cấp với những đòi hỏi về chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn tổ hợp thể

chất, tinh thần và tâm trí của họ. Bài viết này, chúng tôi bàn về loại hình du lịch sinh thái

ở Việt Nam với những luận điểm cơ bản như nhận thức về du lịch sinh thái, tiềm năng,

thực trạng, những giải pháp giúp cho loại hình du lịch này phát triển có bản sắc, dấu ấn

và hòa vào chuẩn mức chung của du lịch sinh thái thế giới.

pdf 10 trang kimcuc 6000
Bạn đang xem tài liệu "Về phát triển loại hình du lịch sinh thái tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về phát triển loại hình du lịch sinh thái tại Việt Nam

Về phát triển loại hình du lịch sinh thái tại Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
109 
VỀ PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH 
DU LỊCH SINH THÁI TẠI VIỆT NAM 
DEVELOPING ECOTOURISM IN VIETNAM 
PHAN HUY XU
 và VÕ VĂN THÀNH 
 PGS.TS.GVCC. Trường Đại học Văn Lang, xuphanhuy@gmail.com, Mã số: TCKH11-18-2018 
 ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, vonhanchi@gmail.com 
TÓM TẮT: Du lịch sinh thái phát triển từ thập niên 1990 và có xu hướng ngày càng tăng 
mạnh. Nhìn chung, tài nguyên phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam rất đa dạng và phong 
phú, gắn với không gian 7 vùng du lịch đã được quy hoạch, mỗi vùng có tài nguyên du lịch 
đặc trưng thu hút du khách. Nhưng trên thực tế, loại hình và sản phẩm du lịch sinh thái ở 
Việt Nam chưa gây được ấn tượng đến du khách, đặc biệt là du khách thụ hưởng du lịch 
sinh thái cao cấp với những đòi hỏi về chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn tổ hợp thể 
chất, tinh thần và tâm trí của họ. Bài viết này, chúng tôi bàn về loại hình du lịch sinh thái 
ở Việt Nam với những luận điểm cơ bản như nhận thức về du lịch sinh thái, tiềm năng, 
thực trạng, những giải pháp giúp cho loại hình du lịch này phát triển có bản sắc, dấu ấn 
và hòa vào chuẩn mức chung của du lịch sinh thái thế giới. 
Từ khóa: du lịch sinh thái; du lịch thiên nhiên; du lịch xanh. 
ABSTRACTS: Ecotourism has flourished since the 1990s and become more and more 
developed. In general, resources for ecotourism development in Vietnam are diverse and 
plentiful, associated withthe seven planned areas of tourism which each has its own unique 
tourism resources to attract tourists. In fact however, ecotourism products and products in 
Vietnam have not impressed visitors, especially visitors enjoying high-end ecotourism with 
high demands on quality products to satisfy their physical, spritual and mental well-being. In 
this article, we discuss about ecotourism in Vietnam with basic insights such as ecotourism 
awareness, potential, status and solutions for developing ecotourism withits own identity, 
impression and harmony with the general standard of world ecotourism. 
Key words: ecotourism; nature-based tourism; green tourism. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, ở nước ta nhiều nơi phát triển 
du lịch sinh thái ồ ạt, mạnh ai nấy làm, không 
đúng với bản chất và nội hàm của khái niệm 
du lịch sinh thái. Do đó, hiệu quả thấp không 
hấp dẫn du khách và phản tác dụng. Vì vậy, 
chúng ta cần nắm vững khái niệm và đặc điểm 
của du lịch sinh thái để xây dựng điểm đến và 
khu du lịch sinh thái đúng nghĩa khoa học. 
Du lịch sinh thái giúp cân bằng các mục 
tiêu phát triển mà UNESCO và các tổ chức 
thế giới đưa ra: Kinh tế - xã hội - môi trường 
hoặc: Kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường, 
trong đó, con người là trung tâm của mọi sự 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018 
110 
phát triển. “Người ta dự báo rằng, đến thế kỷ 
XXI con người sẽ biết sống hòa điệu với thiên 
nhiên, hơn là phá phách tự nhiên và triết lý 
của thế kỷ XXI là triết lý Tân tự nhiên (Neo-
Naturalism)” [15, tr.332]. Trước đây, con 
người luôn xem mình ngự trị thiên nhiên, cố 
gắng cải tạo thiên nhiên và đó là quan điểm 
sai lầm trong quá trình phát triển khiến cho 
con người đã và đang phải trả giá bằng 
những biến đổi khí hậu, thiên tai (nguyên 
nhân gián tiếp của con người) và nhân tai. 
Với nhận thức mới hiện nay, trong cuộc 
chinh phục tự nhiên, con người đang từng 
bước nhận ra rằng, mình không thể đóng vai 
ông chủ, mà cần phải là những người bạn 
thân thiện với môi trường sống [7, tr.373]. Bà 
Gro H. Brundtland (1990), nguyên Thủ 
tướng Na Uy từng nhận định: “Có hai mối 
nguy hiểm lớn đang rình rập chúng ta: chạy 
đua vũ trang hạt nhân và nguy cơ ô nhiễm. 
Tức là hai quả bom: quả bom hạt nhân và 
quả bom sinh thái” [3, tr.269]. Theo cách nói 
của bà, “quả bom sinh thái” đang dần hiện 
hữu rõ nét hơn với môi trường sinh thái toàn 
cầu. Trong bài viết này, chúng tôi làm rõ khái 
niệm du lịch sinh thái cũng như những đặc 
trưng của nó, tiềm năng và thực trạng phát 
triển du lịch sinh thái ở Việt Nam cùng với 
những giải pháp cho du lịch sinh thái phát 
triển bền vững, có điểm nhấn và góp phần 
vào mục tiêu đưa ngành Du lịch Việt Nam 
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Các khái niệm liên quan 
Từ năm 2002, Tổ chức Du lịch Thế 
giới (UNWTO) đưa ra thông điệp “Du lịch 
sinh thái - chìa khóa để phát triển du lịch 
bền vững” đã hướng các quốc gia đến phát 
triển sinh thái như một loại hình du lịch cơ 
bản của phát triển bền vững. Trên thực tế, ở 
nhiều nước việc tập trung phát triển du lịch 
thiên nhiên và du lịch sinh thái đang là một 
ngành kinh doanh sinh lợi, nhiều triển vọng 
phát triển và đóng vai trò quan trọng trong 
thu hút ngoại tệ [2]. 
Có nhiều khái niệm về du lịch sinh thái 
đã được đề xuất theo góc độ chuyên môn 
và cách nhìn của các tổ chức, cá nhân các 
nhà nghiên cứu du lịch học. Khái niệm du 
lịch sinh thái đã được các nhà sinh thái học 
đưa ra vào những năm 1960 và các nhà 
nghiên cứu du lịch chấp nhận trong những 
năm 1980 khi du lịch sinh thái là một phân 
khúc du lịch phát triển nhất trong những 
năm 1990 [18, tr.12]. Một số quan niệm nổi 
bật về du lịch sinh thái, theo Tổ chức Liên 
minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN): 
“Du lịch sinh thái là sự đi du lịch tham quan 
có trách nhiệm đối với môi trường tại những 
nơi còn tương đối nguyên sơ để thưởng thức 
và hiểu biết về thiên nhiên, có hoặc không 
kèm theo đặc trưng văn hóa bản địa, có sự 
hỗ trợ đối với công tác bảo tồn và ít tác động 
đến môi trường, giúp du khách tham gia 
thiết thực và có ích đối với văn hóa xã hội 
của người dân địa phương” [16, tr.113]. 
Bộ quy tắc ứng xử đạo đức toàn cầu 
trong du lịch của WTO (nay là UNWTO) 
từ năm 1999 cũng đã khẳng định, du lịch 
thiên nhiên và du lịch sinh thái đặc biệt có 
lợi để làm phong phú và nâng cao vị thế 
của du lịch, giúp họ tôn trọng các di sản 
thiên nhiên, cư dân địa phương và phù hợp 
với năng lực thực hiện của các điểm tham 
quan [17]. Trước và sau đề xuất của Tổ 
chức Du lịch thế giới (1999), một loạt các 
quốc gia phát triển du lịch ngày càng quan 
tâm đến du lịch sinh thái, chẳng hạn như Úc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
111 
(1994), Hoa Kỳ (1998), Nepal, Malaysia,... 
đưa ra định nghĩa du lịch sinh thái làm 
khung lý thuyết triển khai phát triển du lịch 
sinh thái trong thực tiễn [8, tr.131- 133]. 
Hội nghị Thượng đỉnh Quốc tế về Du 
lịch sinh thái tại Québec, Canada (2002) đã 
cố gắng làm rõ sự nhầm lẫn này bằng cách 
sử dụng khái niệm du lịch sinh thái như 
một công cụ thực hiện bảo tồn và phát triển 
bền vững với một số đặc điểm nhận diện du 
lịch sinh thái như: Du lịch sinh thái đóng 
góp một cách tích cực cho việc bảo vệ các 
di sản tự nhiên và văn hóa; Du lịch sinh 
thái đưa cộng đồng dân cư địa phương 
tham gia việc phát triển và khai thác loại 
hình du lịch này, đồng thời đóng góp vào 
việc nâng cao cuộc sống của họ; Du lịch 
sinh thái cung cấp cho du khách sự diễn 
giải về các tài nguyên tự nhiên và văn hóa; 
Du lịch sinh thái phù hợp với du lịch cá 
nhân cũng như các chuyến du lịch được các 
tổ chức cho các nhóm nhỏ [18, tr.13-14]. 
Các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng 
đề xuất những định nghĩa về du lịch sinh 
thái, có thể kể đến Hector Ceballos 
Lascurain, người Mexico (kiến trúc sư, nhà 
môi trường học, cố vấn du lịch sinh thái 
quốc tế từ năm 1987) đã đưa ra định nghĩa 
du lịch sinh thái: “Du lịch sinh thái đến 
những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc 
ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: 
nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn 
phong cảnh và giới động thực vật hoang dã 
cũng như những biểu thị văn hóa (cả quá 
khứ và hiện tại) được khám phá trong 
những khu vực này” [8, tr.131]. 
Tại Việt Nam, Hội thảo “Xây dựng 
chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở 
Việt Nam” (1999) đề xuất định nghĩa du 
lịch sinh thái: “Là loại hình du lịch dựa 
vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với 
giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ 
lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự 
tham gia tích cực của cộng đồng địa 
phương” [14]. Luật Du lịch (2005): “Du 
lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào 
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa 
phương với sự tham gia của cộng đồng 
nhằm phát triển bền vững” [Khoản 19, 
Điều 4]. Luật Du lịch Việt Nam sửa đổi 
(2017): “Du lịch sinh thái là loại hình du 
lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc 
văn hóa địa phương, có sự tham gia của 
cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo 
vệ môi trường” [Khoản 16, Điều 3]. 
Đặc điểm của du lịch sinh thái 
Martha Honey với bài viết Ecotourism 
and sustainable development - Who owns 
paradise?, cho rằng du lịch sinh thái có bảy 
đặc điểm: 1) Những đặc điểm du lịch tự 
nhiên; 2) Hạn chế những tác động tiêu cực 
đến sinh thái (từ khách sạn, rác thải, hành vi 
du khách); 3) Xây dựng nhận thức đúng đắn 
về môi trường (giáo dục du khách và cộng 
đồng địa phương); 4) Cung cấp lợi ích tài 
chính trực tiếp cho việc bảo tồn; 5) Cung cấp 
tài chính và quyền lợi hợp pháp cho người 
dân địa phương; 6) Tôn trọng văn hóa bản 
địa; 7) Vấn đề dân chủ và thể chế [4, tr.29]. 
Theo Hector Ceballos Lascurain, trong 
lời nói đầu bài Global ecotourism policies and 
Case studies - Perspectives and Constraints, 
hầu hết các nhà nghiên cứu du lịch đều cho 
rằng, du lịch sinh thái có những đặc điểm 
như sau: 1) Hoạt động của du lịch sinh thái 
được tiến hành trong một bối cảnh tự nhiên 
tương đối chưa bị xáo trộn; 2) Những tác 
động tiêu cực của hoạt động du lịch được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018 
112 
giảm thiểu; 3) Hoạt động du lịch hỗ trợ cho 
sự bảo tồn di sản tự nhiên và văn hóa; 4) 
Liên quan đến các cộng đồng địa phương 
trong quá trình thực hiện và cung cấp lợi ích 
chọ họ; 5) Đóng góp cho sự phát triển bền 
vững và là một công việc có lợi; 6) Yếu tố 
giáo dục/đánh giá/giải thích (di sản tự nhiên 
và văn hóa) phải được hiện hữu [5]. 
Loại hình du lịch sinh thái có một số đặc 
điểm nổi bật như sau: 1) Gắn liền với giáo 
dục môi trường, bảo vệ hệ sinh thái thông 
qua du lịch; 2) Chú trọng mối quan hệ giữa 
con người và thiên nhiên hoang dã; (3) Giảm 
thiểu tác động tiêu cực của du khách đến môi 
trường, văn hóa bản địa [11, tr.146]. 
Nhìn chung, các định nghĩa về du lịch 
sinh thái có sự thống nhất cao về nội dung 
với bốn đặc điểm: Du lịch sinh thái phải 
được thực hiện trong môi trường tự nhiên 
còn hoang sơ hoặc tương đối hoang sơ gắn 
với văn hóa bản địa; Du lịch sinh thái hỗ 
trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc 
tính tự nhiên, văn hóa và xã hội tại điểm 
tham quan; Du lịch sinh thái có tính giáo 
dục môi trường cao và có trách nhiệm với 
môi trường; Du lịch sinh thái phải mang lại lợi 
ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia 
của cộng đồng dân cư địa phương [18, tr.14-17]. 
Những đặc điểm cơ bản của du lịch sinh 
thái là dựa vào giá trị của cảnh quan thiên 
nhiên, kết hợp với văn hóa bản địa nhằm nỗ 
lực phát triển bền vững về môi trường, văn 
hóa và cộng đồng cư dân bản địa. 
Đặc điểm của du lịch sinh thái ở Việt 
Nam: phát triển dựa vào giá trị (hấp dẫn) 
của thiên nhiên và văn hóa bản địa, được 
quản lý bền vững về môi trường sinh thái, 
có giáo dục, diễn giải về môi trường, có 
đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát 
triển cộng đồng [6]. 
Liên quan đến du lịch sinh thái, chúng 
tôi trình bày thêm các thuật ngữ: 
Khách du lịch sinh thái: là những du 
khách tìm hiểu, trải nghiệm, thẩm nhận giá 
trị sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn 
tại các điểm đến. 
Hệ sinh thái tự nhiên: là một hệ thống 
mở hoàn chỉnh, bao gồm các quần xã sinh 
vật và khu vực sống của sinh vật. Hệ sinh 
thái bao gồm hệ động vật, thực vật, vi sinh 
vật và môi trường vô sinh như ánh sáng, 
nhiệt độ, chất vô cơ,... Hệ sinh thái thường 
được chia thành hệ sinh thái tự nhiên và hệ 
sinh thái nhân văn. 
Hệ sinh thái nhân văn: là mối quan hệ có 
hệ thống giữa con người, xã hội và tự nhiên. 
Tóm lại, du lịch sinh thái không cho 
phép con người can thiệp vào các hệ sinh 
thái tự nhiên, cho dù là can thiệp mang lại 
lợi ích kinh tế - xã hội cho con người và 
con người chấp nhận đền bù bằng vật chất 
cho những thiệt hại mà họ gây ra đối với tự 
nhiên [18, tr.15]. 
2.2. Tiềm năng du lịch sinh thái Việt Nam 
Tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho du 
lịch sinh thái tại Việt Nam rất đa dạng và 
phong phú. Nước ta có tài nguyên địa chất, 
địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, động 
thực vật rất đặc biệt (có khoảng 21.000 loài 
thực vật, gần 12.000 loài động vật, trong đó 
có nhiều loài đặc hữu, có những loài được 
đưa vào Sách Đỏ của thế giới như Sao La, 
Vooc mũi hếch, Bò biển,...), là 1/10 quốc 
gia có đa dạng sinh học phong phú nhất thế 
giới, xếp hạng thứ 16 trên thế giới về mức 
độ đa dạng của tài nguyên sinh vật (theo 
WCMC) và là một trong các nước được ưu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
113 
tiên cho bảo tồn toàn cầu. Đến hết năm 
2017, UNESCO công nhận đến 10 khu dự 
trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, 8 khu 
Ramsar của thế giới. Trên cả nước có 
khoảng 300 hang động, có 3.260 km bờ 
biển với 125 bãi tắm, hầu hết là các bãi tắm 
đẹp. Nước ta là 1/12 quốc gia có vịnh đẹp 
nhất thế giới, có nhiều sông, hồ nổi tiếng 
như sông Hồng, sông Tiền, sông Hậu; hồ 
Ba Bể,... Hiện có 164 rừng đặc dụng, trong 
đó có 31 vườn Quốc gia, 69 khu bảo tồn tự 
nhiên, 45 khu vực bảo vệ cảnh quan, 20 
khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa 
học. Một số di sản tự nhiên được UNESCO 
vinh danh như: Vịnh Hạ Long, Di sản 
Thiên nhiên Thế giới (1994, 2000); Vườn 
Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (2003, 
2015); Công viên địa chất Cao Nguyên đá 
Đồng Văn (2010); Di sản Tự nhiên và Văn 
hóa Danh thắng Tràng An (2014); Công 
viên địa chất Non nước Cao Bằng (2018). 
Đây là những tài nguyên rất tốt để nghiên 
cứu, tìm hiểu, phát triển loại hình du lịch 
sinh thái, tham quan tìm hiểu về đời sống 
động thực vật hoang dã và văn hóa bản địa. 
Chính vì vậy, chiến lược phát triển du 
lịch Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010, Chiến 
lược phát triển du lịch Việt Nam cho thời 
kỳ mới đến năm 2020, và tầm nhìn đến 
năm 2030 luôn xác định du lịch sinh thái là 
một trong các dòng sản phẩm du lịch chính, 
có sức cạnh tranh cao so với các nước trong 
khu vực và trên thế giới [2]. 
2.3. Thực trạng và thách thức của phát 
triển du lịch sinh thái Việt Nam 
Theo UNWTO (2002), loại hình du 
lịch sinh thái đòi hỏi cao và chặt chẽ về ý 
nghĩa giáo dục cho du khách sự tôn trọng, 
bảo tồn thiên nhiên và văn hóa bản địa, 
đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho cộng 
đồng địa phương. Du khách không chỉ 
thưởng thức thiên nhiên mà quan trọng hơn 
là phải biết tôn trọng, bảo tồn, giữ gìn thiên 
nhiên, môi trường, đồng thời phải biết tôn 
trọng, bảo tồn giá trị văn hóa và quyền lợi 
kinh tế của cộng đồng địa phương. Lâu 
nay, vì không nhận thức đúng về khái niệm, 
nội dung của du lịch sinh thái và do lợi ích 
cục bộ, cá nhân nên một số điểm du lịch 
sinh thái đã làm sai lệch, tùy tiện. Chẳng 
hạn, có những nơi người ta giết thịt động 
vật, chặt phá cây rừng và xả rác khắp nơi; 
Một số điểm du lịch sinh thái xây dựng giả 
tạo, sai quy luật môi t ... ách nhiệm, 
chúng ta cần hiểu đúng thế nào là du lịch 
sinh thái và ứng dụng trong hoàn cảnh ở 
Việt Nam. Cần thấy rằng, du lịch sinh thái 
là loại hình du lịch dựa vào các giá trị tự 
nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương 
với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát 
triển bền vững. Ở một khía cạnh khác, có 
thể hiểu du lịch sinh thái là loại hình du 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018 
114 
lịch mà lợi ích của nó gắn chặt với trách 
nhiệm bảo tồn môi trường và cải thiện phúc 
lợi cho người dân địa phương. Sản phẩm du 
lịch sinh thái của Việt Nam chưa thật sự tạo 
ra điểm nhấn trong cảm nhận của du khách 
trong và ngoài nước. 
 Với Nghị quyết của Đại hội đồng Liên 
Hợp Quốc “Du lịch sinh thái - Chìa khóa 
để xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi 
trường”, du lịch Việt Nam cần có nhiều 
luận cứ để nâng cao chất lượng du lịch sinh 
thái và đóng góp cho du lịch Việt Nam trở 
thành ngành kinh tế mũi nhọn [2]. 
Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn 
của nước ta rất phong phú và đa dạng. 
Tiềm năng về du lịch sinh thái rất lớn 
nhưng thực tế để có một mô hình du lịch 
sinh thái đúng nghĩa là không dễ dàng. Do 
hiểu sai khái niệm du lịch sinh thái nên 
nhiều nơi đã xây dựng mô hình du lịch sinh 
thái giả tạo, khiên cưỡng, chắp vá, thay đổi 
cảnh quan tự nhiên bằng cảnh quan nhân 
tạo, chặt rừng, đào ao và kênh rạch, nuôi, 
nhốt động vật và trồng một số cây,... rồi 
treo biển quảng cáo đó là du lịch sinh thái. 
Nơi đó, lại tiếp đón nhiều du khách làm cho 
“sức chứa” quá tải. Du khách đến ngắm 
cảnh và ăn nhậu thịt rừng các loại,... Như 
vậy, rõ ràng đó không phải là một hình du 
lịch sinh thái. 
Thực trạng về du lịch sinh thái nhân 
văn chưa có gì nổi trội và hấp dẫn. Về 
hướng dẫn viên du lịch sinh thái còn rất 
thiếu và yếu, đặc biệt chưa am hiểu khoa 
học sinh thái nhiệt đới và cận nhiệt đới. 
Tuy nhiên, ở nước ta, cũng có trên 10 khu 
du lịch sinh thái được vinh danh, đặc biệt là 
Topas Ecolodge (ở Sa Pa) đã được Tạp chí 
National Geographic ca ngợi. Ngoài ra, 
một số địa phương đã giữ gìn, bảo vệ hệ 
sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn 
phục vụ tốt cho du lịch sinh thái. Nhưng ở 
một số vùng miền, hệ sinh thái tự nhiên và 
sinh thái nhân văn đang bị suy thoái. Theo 
kết quả của báo cáo thường niên năm 2012 
mang tên The Environmental Performance 
Index (EPI) của hai trung tâm nghiên cứu 
môi trường thuộc Đại học Yale và 
Columbia thực hiện, về ảnh hưởng của chất 
lượng không khí, Việt Nam đứng thứ 123 
trong bảng xếp hạng 132 quốc gia khảo sát, 
được xem là có không khí bẩn thứ 10 thế 
giới. Ở miền núi, tình trạng phá rừng làm 
cho cảnh quan đồi núi nham nhở, xơ xác, 
ảnh hưởng đến du lịch sinh thái. Ở miền 
biển và hải đảo, tình trạng rác thải và nước 
xả thải công nghiệp làm cho du khách nước 
ngoài phàn nàn. Ví dụ, một nhóm du khách 
Hoa Kỳ đầu năm 2017 khi đến Cù Lao 
Chàm đã phàn nàn về rác. Ở nông thôn, 
cảnh vứt bừa rác, gà vịt, heo bị chết bệnh ra 
sông, rạch. Một số nhà máy hoặc lò gạch 
gây ô nhiễm nguồn nước và không khí 
khiến cho dân địa phương bức xúc. Ở các 
đô thị, nhất là các thành phố lớn, tình trạng 
kẹt xe, rác thải, tiếng ồn, nhà vệ sinh bẩn 
đáng sợ đã làm cho du khách khó chịu. 
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch 
mang lại cho du khách sự trải nghiệm, thẩm 
nhận, cảm thụ, giải trí về thiên nhiên và 
nhân văn. Nhưng thực trạng ô nhiễm môi 
trường ở nhiều nơi khá trầm trọng đã và 
đang làm cho du khách thất vọng. Đó là 
chưa kể đến những sản phẩm du lịch sinh 
thái nghèo nàn, dịch vụ du lịch còn yếu 
kém đã làm cho phần lớn du khách nước 
ngoài không trở lại Việt Nam (theo số liệu 
khảo sát có đến hơn 85% du khách nước 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
115 
ngoài không trở lại Việt Nam). Trên thực tế 
cho thấy, hầu hết các điểm du du lịch sinh 
thái của nước ta hiện nay đều không tuân 
theo một nguyên tắc nào. Người ta chỉ làm 
du lịch theo kiểu “mì ăn liền”, không cần 
biết rằng một trong những yêu cầu cơ bản 
để tiếp cận du lịch sinh thái là khả năng 
nhận thức cùng với trách nhiệm cao đối với 
các giá trị thiên nhiên, rằng mọi hoạt động 
đều phải hướng tới sự phát triển bền vững. 
Tất cả cần một hành động mới và cụ thể từ 
giữ gìn vệ sinh với cộng đồng, hạn chế gây 
ô nhiễm nước, không khí, rác thải, tiếng ồn 
và tiết kiệm năng lượng. 
Một thách thức nữa đối với du lịch 
sinh thái Việt Nam đó là tác động xấu của 
biến đổi khí hậu trong những năm gần đây 
mà theo các nhà khoa học, Việt Nam có 
khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu 
Long, 11% diện tích Đồng bằng sông 
Hồng, 3% diện tích của các địa phương 
khác thuộc khu vực ven biển sẽ bị ngập 
nước, sẽ có khoảng 10 - 12% dân số Việt 
Nam bị ảnh hưởng trực tiếp, với tổn thất 
khoảng 10% GDP [19]. 
Như vậy, hệ sinh thái tự niên và sinh 
thái nhân văn của nước ta sẽ bị tác động 
lớn, ảnh hưởng không tốt đến du lịch sinh 
thái. Những năm gần đây, chỉ lấy ví dụ ở 
rừng tràm Trà Sư, An Giang, biến đổi khí 
hậu đã làm nhiệt độ tăng cao, tình trạng hạn 
hán kéo dài gây thiếu nước, tăng nguy cơ 
cháy rừng; lũ lụt không theo quy luật, làm 
thời gian phục vụ du lịch sinh thái ngắn lại, 
đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng tràm 
bị mất đi cũng ảnh hưởng đến tính hấp dẫn 
đối với khách du lịch, cơ sở hạ tầng bị hư 
hại, người dân địa phương bị ảnh hưởng 
đến sức khỏe và đời sống [1]. 
Có thể dễ nhận ra những hạn chế trong 
phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam: Du 
lịch với số đông du khách tác động tiêu cực 
đến môi trường tự nhiên, khu vực nhạy 
cảm; Chưa có chiến lực trong quy hoạch, 
phân vùng phát triển du lịch sinh thái; Quy 
mô và hình thức tổ chức hoạt động du lịch 
sinh thái còn nhỏ lẻ; Chưa có các nghiên 
cứu thị trường bài bản cũng như việc quảng 
bá du lịch sinh thái còn yếu; Công tác quản 
lý du lịch sinh thái còn hạn chế; Thiếu sự 
đầu tư cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật; 
Không tuân thủ các nguyên tắc phát triển 
du lịch sinh thái, phá vỡ cảnh quan. Các 
trung tâm giáo dục môi trường cho du 
khách còn yếu. 
Không gian phát triển du lịch sinh thái 
ở Việt Nam dựa trên tổ chức không gian du 
lịch Việt Nam bao gồm: 
1) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: Du 
lịch sinh thái trải nghiệm thiên nhiên hùng 
vĩ. Tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu hệ 
sinh thái, đa dạng sinh học rừng á nhiệt đới 
núi cao và rừng thường xanh nhiệt đới; Hệ 
sinh thái nông nghiệp (ngắm cảnh theo 
mùa, tham quan ruộng bậc thang). 
2) Vùng Đồng bằng sông Hồng và 
duyên hải Đông Bắc: Du lịch sinh thái, 
khám phá đa dạng sinh học và di sản thiên 
nhiên thế giới. Tham quan thắng cảnh, tìm 
hiểu hệ sinh thái núi đá vôi ngập nước - di 
sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. 
Tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu khu dự 
trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng. 
3) Vùng du lịch Bắc Trung Bộ: Du lịch 
sinh thái hang động và đa dạng sinh học 
Đông Trường Sơn. Tham quan, thám hiểm 
hệ sinh thái núi đá vôi, hang động di sản 
thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng; 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018 
116 
Tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu đa dạng 
sinh học Đông Trường Sơn. 
4) Vùng duyên hải Nam Trung Bộ: Du 
lịch sinh thái biển đảo. Tham quan, trải 
nghiệm thắng cảnh biển, hệ sinh thái biển: 
cồn cát, rạn san hô, thảm cỏ biển. 
5) Vùng Tây Nguyên: Du lịch sinh thái - 
trải nghiệm cảnh quan vùng cao nguyên đất 
đỏ bazan. Tham quan, tìm hiểu các hệ sinh 
thái rừng Khộp (rừng thưa lá rộng, rụng lá 
theo mùa). Du lịch sinh thái gắn liền du lịch 
cộng đồng và tham quan bản làng dân tộc. 
6) Vùng Đông Nam Bộ: Du lịch sinh 
thái sông. Tham quan, tìm hiểu hệ sinh thái 
dọc tuyến sông Sài Gòn, hệ sinh thái rừng 
ngập mặn Cần Giờ. 
7) Vùng Đồng bằng sông C u Long: Du 
lịch sinh thái - hệ sinh thái đất ngập nước. 
Tham quan, tìm hiểu hệ sinh thái đất ngập 
nước nội địa với hệ thống các kênh rạch 
Đồng bằng sông Cửu Long; Tham quan, tìm 
hiểu hệ sinh thái ngập mặn ven biển. 
2.4. Một số giải pháp cần thiết để phát 
triển du lịch sinh thái ở Việt Nam 
1) Nâng cao nhận thức về du lịch sinh 
thái (thông qua giáo dục, tuyên truyền...), 
trong đó việc am hiểu đúng về khái niệm 
du lịch sinh thái và đặc điểm du lịch sinh 
thái để quy hoạch, xây dựng và quản lý 
đúng đắn mô hình du lịch sinh thái. 
2) Cần hoàn thiện cơ chế chính sách để 
phát triển du lịch sinh thái tương xứng với 
tiềm năng: phát triển du lịch sinh thái và 
sớm hội nhập với thế giới, cần có chính sách 
đúng đắn về cơ sở hạ tầng theo quy hoạch 
và theo luật. Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, 
cán bộ quản lý, hướng dẫn viên, nhân viên 
phục vụ. Doanh nghiệp tư nhân cần tham 
gia đầu tư và quản lý du lịch sinh thái có bài 
bản. Cộng đồng dân cư địa phương cần 
được thụ hưởng lợi ích xứng đáng. 
3) Các nhà kinh doanh, nhà quản lý, 
nhà khoa học và nhà dân cần có sự hợp tác, 
liên kết trong việc quy hoạch, xây dựng, 
quảng bá du lịch sinh thái. 
4) Nhà kinh doanh và công ty lữ hành 
không được thương mại hóa du lịch sinh 
thái. Đảm bảo đạo đức du lịch sinh thái, 
quan tâm đến “sức chứa” của điểm đến du 
lịch sinh thái. 
5) Cần đào tạo bài bản hướng dẫn viên 
du lịch sinh thái, đặc biệt về kiến thức sinh 
thái học (tự nhiên và nhân văn), ngoại ngữ 
để cung cấp đúng đắn về giáo dục môi 
trường cho du khách (hoặc đào tạo, cấp 
chứng chỉ hướng dẫn du lịch sinh thái). 
6) Cộng đồng địa phương phải được 
tham gia và hưởng lợi trong các dự án phát 
triển du lịch sinh thái, được trả công bằng 
tiền, hiện vật từ du khách hoặc qua các nhà 
tổ chức du lịch nhằm góp phần tôn tạo cảnh 
quan sinh thái tại các cộng đồng mà du 
khách đến tham quan. 
7) Các cơ quan quản lý du lịch và chức 
năng liên quan từ trung ương đến địa 
phương cần kiểm tra chặt chẽ việc xây dựng 
các điểm và khu du lịch sinh thái từ khâu 
quy hoạch đến hoạt động. Xứ lý theo Luật 
các điểm và khu du lịch có nhiều sai phạm. 
3. KẾT LUẬN 
Cho đến nay, quan niệm về du lịch 
sinh thái vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc 
độ khác nhau, với nhiều tên gọi khác nhau, 
mặc dù các nhà khoa học vẫn còn đang 
tranh luận về định nghĩa này để có thể tìm 
ra một định nghĩa chung nhất cho du lịch 
sinh thái. Tựu trung lại, du lịch sinh thái có 
những đặc điểm như Tổ chức Du lịch Thế 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
117 
giới (UNWTO), Tổ chức Liên minh Bảo 
tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), hoặc 
quan điểm của các cá nhân nhà nghiên cứu 
như Hector Ceballos Lascurain, Martha 
Honey đã tổng kết. Ở Việt Nam, các tổ 
chức và cá nhân các nhà nghiên cứu cũng 
có quan niệm tương tự, cụ thể là Luật Du 
lịch Việt Nam (2017). Đây là những quan 
điểm phù hợp để triển khai phát triển du 
lịch sinh thái ở nước ta. Du lịch sinh thái 
không chỉ là về mặt tự nhiên mà còn có liên 
hệ đến văn hóa, cụ thể là văn hóa cộng 
đồng dân cư sở tại, “một trong hai giá trị 
thiết yếu đối với con người, vượt ra ngoài 
phương diện kinh tế thuần túy đó chính là 
văn hóa và môi trường” [3, tr.276]. 
Việt Nam được các tổ chức thế giới 
đánh giá có tiềm năng phát triển du lịch 
sinh thái rất cao, tuy nhiên thực trạng hoạt 
động và khai thác du lịch sinh thái ở Việt 
Nam còn nhiều bất cập do nhận thức sai 
lệch về loại hình du lịch sinh thái hoặc các 
nhà kinh doanh du lịch với tình trạng kinh 
doanh “ăn xổi”, không quan tâm đúng mức 
đến du lịch sinh thái khiến cho tình trạng 
khai thác du lịch sinh thái hiện nay chưa đi 
đúng hướng và để lại nhiều hậu quả môi 
trường và ảnh hưởng đến cuộc sống của 
người dân địa phương nơi diễn ra các hoạt 
động du lịch sinh thái. Trên cơ sở giữ gìn, 
bảo vệ tài nguyên tự nhiên và nhân văn, xử 
lý tốt mối quan hệ tự nhiên - con người - xã 
hội và tổ chức quản lý tốt du lịch sinh thái 
thì du khách nước ngoài mới cảm thấy hài 
lòng và đến Việt Nam ngày càng nhiều 
hơn. Vấn đề du lịch sinh thái tại Việt Nam 
là bảo vệ, phát huy giá trị của môi trường 
sinh thái tự nhiên và nhân văn trong du 
lịch. Tìm cách hạn chế tác động xấu của 
biến đổi khí hậu đến cộng đồng dân cư các 
vùng miền nói chung và khách du lịch nói 
riêng. Ngoài ra, du lịch sinh thái tại Việt 
Nam cũng phải tính đến “sức chứa” của 
điểm tham quan để tránh tình trạng quá tải 
làm ảnh hưởng đến môi trường sống của 
sinh vật, con người địa phương hoặc là chất 
lượng của sản phẩm du lịch sinh thái. Nghị 
quyết 08 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 
16-01-2017 đã xác định mục tiêu đưa du 
lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi 
nhọn, sẽ tạo điều kiện cho loại hình du lịch 
sinh thái Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Kỳ 
vọng, trong những năm sắp tới, du lịch Việt 
Nam sẽ bứt phá và đạt nhiều thắng lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đinh Thị Mỹ Lan (2017), Biến đổi khí hậu tác động đến du lịch sinh thái rừng tràm 
Trà Sư, An Giang, luận văn Thạc sĩ 2017. 
[2] Đỗ Thị Thanh Hoa (2016), Những vấn đề đặt ra tồn phát triển du lịch sinh thái ở Việt 
Nam, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, 
traodoi/1230-nhung-van-de-dat-ra-trong-phat-trien-du-lich-sinh-thai-o-viet-nam.html. 
[3] Gro H. Brundtland (1990), Gro Harlem Brundtland - Nhà môi trường Na Uy, Người 
đưa tin UNESCO, tháng 9, in trong Tạp chí Người đưa tin UNESCO - Những vấn đề xuyên 
thế kỷ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018 
118 
[4] Martha Honey (1999), Ecotourism and sustainable development - Who owns paradise?, 
Island press, Washington, USA. 
[5] Micheal Luck, Torsten Kirstges (edited, 2003), Global ecotourism policies and Case 
studies - Perspectives and Constraints, Channel View Publications, UK. 
[6] Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2016), Tổng quan về nghiên cứu du lịch sinh thái, Tạp chí 
Văn hóa Nghệ thuật, số 382, tháng 4. 
[7] Nguyễn Văn Kim (Chủ biên, 2016), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb 
Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[8] Nguyễn Văn Thuật (2016), Ý kiến mới về du lịch sinh thái, Tạp chí Khoa học Đại học 
Đồng Nai, số 01/2016. 
[9] Phạm Trung Lương (Chủ biên, 2002), Du lịch Sinh thái - Những vấn đề về lý luận và 
thực tiễn phát triển du lịch ở Việt Nam, Nxb Giáo dục. 
[10] Phạm Trương Hoàng (2014), Hướng du lịch sinh thái phát triển bền vững, Báo Nhân 
dân số ra ngày 22/8/2014. 
[11] Phan Huy Xu, Võ Văn Thành (2016), Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb Tổng 
hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
[12] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch. 
[13] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du lịch. 
[14] Tổng cục Du lịch Việt Nam (1999), Kỷ yếu hội thảo Xây dựng chiến lược phát triển 
du lịch sinh thái ở Việt Nam. 
[15] Trần Quốc Vượng và các tác giả khác (2015), Văn hóa Việt Nam - Những hướng tiếp 
cận liên ngành, Nxb Văn học. 
[16] Trần Thúy Anh (Chủ biên, 2010), Ứng x văn hóa trong du lịch, Nxb Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[17] UNWTO (1999), Global Code of Ethics for Tourism, pdf. file. 
[18] Võ Văn Sen, Ngô Thị Phương Lan, Ngô Thanh Loan (Chủ biên, 2018), Xây dựng sản 
phẩm du lịch đặc thù Đồng bằng sông C u Long - Từ lý thuyết đến thực tiễn, Nxb Đại học 
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
[19] Đài Truyền hình Việt Nam VTV1 đưa tin Hội nghị Liên minh Nghị viện thế giới 
(IPU) họp tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11/5/2017. 
Ngày nhận bài: 09-8-2018. Ngày biên tập xong: 04-9-2018. Duyệt đăng: 24-9-2018 

File đính kèm:

  • pdfve_phat_trien_loai_hinh_du_lich_sinh_thai_tai_viet_nam.pdf