Về lịch sử, văn hóa vùng danh thắng Tây Thiên

Tkhông chỉ là ba đỉnh núi trong vùng địa lý hạn hẹp thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, mà còn là tên của heo nhận thức của các nhà khoa học, Tam Đảo

một dãy núi ở miền Đông Bắc, khởi từ Thái Nguyên

về Tam Đảo, luôn được các nhà sử học nhắc tới, bởi

nó như một “điểm dừng” (cùng với Việt Trì, Phú Thọ)

để các tộc người cơ bản hội nhập, rồi đối mặt với

vùng trước núi và châu thổ Bắc Bộ. Ở nơi ấy, người

Việt mở đầu cho một cuộc “trường chinh” khai phá

và phát triển nông nghiệp, làm bệ đỡ cho quá trình

mở đất, mở nước về sau. Cũng từ vùng chân núi

Tam Đảo mở sang hữu ngạn sông Hồng, với hệ núi

chủ Ba Vì, như tạo nên một thế cân bằng khởi đầu

cho sự phát triển dân tộc và kinh tế. Rồi biết bao

huyền thoại đã truyền lại, để ẩn sau nó biết bao sự

kiện lịch sử cần được làm sáng tỏ. Trong huyền

thoại về thần núi Ba Vì, thì khởi đầu vốn là nữ thần

đầy quyền năng - bà Ma Thị, rồi sau đó mới tới Tản

Viên, Cao Sơn, Quý Minh

pdf 8 trang kimcuc 3200
Bạn đang xem tài liệu "Về lịch sử, văn hóa vùng danh thắng Tây Thiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về lịch sử, văn hóa vùng danh thắng Tây Thiên

Về lịch sử, văn hóa vùng danh thắng Tây Thiên
26
Theo nhận thức của các nhà khoa học, Tam Đảokhông chỉ là ba đỉnh núi trong vùng địa lý hạnhẹp thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, mà còn là tên của
một dãy núi ở miền Đông Bắc, khởi từ Thái Nguyên
về Tam Đảo, luôn được các nhà sử học nhắc tới, bởi
nó như một “điểm dừng” (cùng với Việt Trì, Phú Thọ)
để các tộc người cơ bản hội nhập, rồi đối mặt với
vùng trước núi và châu thổ Bắc Bộ. Ở nơi ấy, người
Việt mở đầu cho một cuộc “trường chinh” khai phá
và phát triển nông nghiệp, làm bệ đỡ cho quá trình
mở đất, mở nước về sau. Cũng từ vùng chân núi
Tam Đảo mở sang hữu ngạn sông Hồng, với hệ núi
chủ Ba Vì, như tạo nên một thế cân bằng khởi đầu
cho sự phát triển dân tộc và kinh tế. Rồi biết bao
huyền thoại đã truyền lại, để ẩn sau nó biết bao sự
kiện lịch sử cần được làm sáng tỏ. Trong huyền
thoại về thần núi Ba Vì, thì khởi đầu vốn là nữ thần
đầy quyền năng - bà Ma Thị, rồi sau đó mới tới Tản
Viên, Cao Sơn, Quý Minh Huyền thoại để lại tới
ngày nay đã “đời hoá” các vị anh hùng văn hoá này
với những công trạng to lớn trong việc dựng nước
và giữ nước Song, qua các thần tích, chúng ta vẫn
lọc ra được một số điều “khi mờ, khi tỏ trong cái mớ
bòng bong” của truyền thuyết: Rằng, các vị đều là
thần núi Ba Vì, tuy ba mà là một (tam vị nhất thể). Ba
Vì là một trục nối Trời - Đất, đồng thời là nơi của vị
thần chống lầy, chống lụt cho nền kinh tế nông
nghiệp (sử dụng nước tại chỗ), có phần riêng Việt,
được định hình và phát triển. Mặt khác, ở một chi
tiết thoáng qua có đề cập tới sự tích Tản Viên (và cả
Quý Minh) đi từ vùng biển lên, như một phản ánh
(chưa khẳng định hoàn toàn) về sự hội nhập của
người vùng biển (Malayo) vào Bắc Bộ Còn nhiều
vấn đề khác nữa, tuy nhiên, tạm qua vài sự kiện nêu
trên, đại thể để thấy rõ hơn về Tam Đảo. Cũng con
số Ba đầy chất thiêng, đậm chất biểu tượng, như
một biểu hiện về sự “đồng quy văn hoá” của một số
cư dân trên thế giới (ít nhất mang ý nghĩa nền tảng,
mong cầu vững bền và phát triển). Trở lại với các
vị thần nguyên thuỷ của Ba Vì và Tam Đảo. Vị thần
Ma Thị, được kể là mẹ nuôi của Tản Viên. Bà là một
nữ thần đầy quyền uy, nhưng khi vai trò với lịch sử
cạn dần, Bà trao quyền lại cho Tản, rồi nhập thân
vào đất trời mà tồn tại với huyền thoại. Song, ở Tam
Đảo, nữ thần núi rừng “sống” mãi tới tận ngày nay.
Bà vẫn là Bà và tín ngưỡng thờ Bà có đủ độ dẻo để
VỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA 
VÙNG DANH THẮNG TÂY THIÊN
	
TÓM TẮT
Tam Đảo là một địa điểm tụ cư của người Việt trước khi tràn xuống khai phá vùng châu thổ sông Hồng, là
một không gian văn hóa lớn, chứa đựng nhiều dấu tích văn hóa tâm linh trải dài cả ngàn năm. Tam Đảo như
một trục vũ trụ nối Trời với Đất. Khởi đầu là ba ngọn Thiên Thị - Thạch Bàn - Phù Nghì. Theo dòng Giải Oan và
Trường Sinh nối các chùa Đồng, chùa Địa Ngục (Lê Nê), đền Quốc Mẫu, chùa Tây Thiên, miếu Cô, miếu Cậu, đền
Thõng, gắn với nhiều dấu tích tâm linh mang tính khởi đầu và riêng biệt.
Từ khóa: Tam Đảo; chùa Đồng; chùa Địa Ngục; Quốc Mẫu; cô; cậu.
ABSTRACT
Tam Đảo used to be the ancient centre of Viet people before they came to Red river delta. This place is a vast
landscape with thousand-year cultural and ritual remains. Tam Đảo is like a universal axis to link Heaven to
Earth, starting from 3 mountains of Thiên Thị, Thạch Bàn, and Phù Nghì. Following Giải Oan (exculpation)
stream and Trường Sinh (Eternity) stream to link Đồng (Bronze) pagoda, Địa Ngục (Lê Nê) (Hell) pagoda, Quốc
Mẫu (Mother God) temple, Tây Thiên pagoda, miếu Cô (Girl Shrine), miếu Cậu (Boy Shrine), Thõng temple etc.
Many spiritual remains are starting points and unique sites.
Key words: Tam Đảo, Đồng pagoda; Địa Ngục pagoda; Quốc Mẫu temple; Girl Shrine, Boy Shrine.
	


thích ứng theo sự thay đổi tâm tưởng nhân quần
trên dòng chảy của lịch sử. Bà như cùng với núi
rừng Tam Đảo là “đồng nhất thể” - Một chứng cứ
cho thấy, Tam Đảo và vùng chân núi này sớm trở
thành một trong những vùng văn hoá mang tính
khởi nguyên của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Suy
cho cùng, Bà là đỉnh cao văn hoá tâm linh của cư
dân vừa sống với rừng, với ruộng. Một giả thiết đặt
ra với chúng ta là: Có đến cả nghìn năm và lâu hơn
nữa, đông đảo cư dân Việt đã tập trung ở vùng đất
thuộc chân dãy Tam Đảo. Có thể đó là điều kiện
thuận lợi cho việc hoằng dương Phật pháp của các
nhà sư người Ấn ở thế kỉ thứ III trước Công nguyên.
Hồi đó, vị đại anh hùng của Ấn Độ là Asoka, sau
cuộc đại chiến thắng, ông đã thực hiện một cuộc
đại kết tập Phật giáo, chuyển từ Phật giáo Tiểu thừa
sang cách tu Đại chúng bộ, mở đầu cho các tông
phái Đại thừa. Ông đã cho dựng tháp Phật ở khắp
nơi trên những vùng đất thuộc ảnh hưởng của Ấn
Độ. Sử sách (Thuỷ Kinh chú, đời Đường) cũng đã ghi:
Asoka cho dựng tại thành Lê Nê ở đất Việt một ngôi
tháp Phật. Toà tháp này tới nay không còn và cũng
chưa biết được cụ thể dựng ở đâu. Tuy nhiên, nhiều
nhà nghiên cứu (sử học, khảo cổ học, tôn giáo
học) đã cho rằng, đương thời, người Việt vẫn
đang trong thời gian rời núi tiến xuống khai phá
miền châu thổ, họ còn tập trung nhiều ở vùng chân
núi Tam Đảo. Nơi đó thích hợp với sự “hoằng dương
đạo pháp” của các thiền sư. Một giả thiết để làm
việc đặt ra cho chúng ta là: Nơi ấy có thể liên quan
tới “thành Lê Nê” và tháp của vua Asoka.
Hiện nay, ở khu vực Tam Đảo vẫn có dấu tích về
chùa “Địa Ngục” (chùa ở trên núi Thạch Bàn, một
ngọn chính của Tam Đảo, không phải chùa Tây
Thiên bây giờ, chùa cách khu danh thắng Tây Thiên
khoảng hơn 5km đường chim bay). Theo Đoàn
Trung Còn, Phật học từ điển, chữ Niraya được phiên
sang âm Hán Việt là Lê Nê giả, có nghĩa là “Địa
ngục”. Phải chăng, đó là nơi mà các linh hồn tội lỗi
phải qua trước khi đầu thai chuyển kiếp. Nếu đúng
như vậy thì, chùa nằm ở trong rừng (có nghĩa trang-
nơi của các kiếp đời đã qua) đúng với tập quán của
người Việt, đó là một biểu hiện dung hội của Phật
giáo với tín ngưỡng bản địa và cũng hợp với tính từ
bi của dòng Đại thừa (cứu độ chúng sinh theo tinh
thần “tự độ độ tha, tự giác giác tha”).
Tây Thiên là một mảnh trời Thiên quốc lạc
xuống trần gian. Ở nơi ấy, mọi lời ngợi ca của thế
27
 !"# $%&'(()
*+,-.%/012 3
45%&
28
gian chỉ để nói tới cái hình mà chưa nói được đủ về
cái thể của trời đất mà người xưa để lại. Đó cũng là
những vẻ đẹp tâm linh đầy chất thánh thiện, đã hội
lại ở các công trình kiến trúc để đời nối đời đắp xây
cho khu vực này. Đến nay, biểu hiện cụ thể là chùa
Đồng (thời gần đây gọi là Đồng Cổ), là đền Mẫu -
Lăng Tiêu, đền Thần Núi, chùa cổ Tây Thiên, với ba
tấm bia mộ chỉ ghi danh tu hành của Thiền sư mà
không ghi hành trạng, là một số công trình tương
đối mới hội vào, như điện Địa Mẫu, điện Cô Chín
Tất cả những di tích này đan xen nhau trên mảnh
đất thiêng ở lưng chừng núi Thạch Bàn. Từ miền
thánh địa, một dòng sinh lực vũ trụ lấy khí thiêng ở
tầng cao, theo khe núi mà tràn xuống trần gian, tạo
thành dòng Giải Oan, rồi trên đường đi kết hợp với
thác Bạc, thác Vàng và nhiều dòng bên lề, kết thành
suối Trường Sinh, chảy qua cửa đền Cậu và đền
Thõng, rồi đem sinh khí làm nên các vụ mùa bội thu
cho cánh đồng Thõng và vùng đất chân núi. Ngược
lại, con đường hành hương của các tín đồ cũng
men theo bờ suối mà lên, với tâm thanh lòng tĩnh,
chân đi không mỏi, trên con đường mòn tâm tưởng
từ đời vào đạo, từ trần gian về miền cực lạc. Mỗi chỗ
dừng là một kiến trúc gắn với một niềm tin tâm linh
vô bờ bến.
Dưới đây, chúng tôi điểm qua vài nét của một
số kiến trúc chính:
Đền Thõng: Là một kiến trúc (mang tính) khởi
đầu cho cả hệ thống di tích Tây Thiên. Đền nằm ở
chân núi, trên một nền cao rộng, được dựng theo
phong cách cổ truyền. Mở đầu là hệ thống bậc đá
chạy dài suốt mặt trước, với ba lối lên, phân cách
bởi bốn rồng lớn (hai rồng nguyên con ở giữa, hai
rồng vân hoá kẹp hai lối bên). Kiểu thức này mang
hình thức cung đình (tương tự rồng ở lối chính lên
điện Kính Thiên, Hà Nội). Tiếp theo là nghi môn tứ
trụ, mới được dựng lại theo cách thức truyền thống,
với chất liệu bằng đá, đứng đón ở đầu sân thềm. Sự
to lớn của các trụ nghi môn cao vượt lên, như chênh
vênh giữa một không gian rộng lớn, khiến tính chất
“trục vũ trụ” của chúng càng trở nên rõ rệt. Đỉnh hai
trụ lớn (cửa của thần) là bốn con phượng áp đuôi
vào nhau, rồi vượt lên cao (ở trung tâm), để ấp ngực
xuống, cùng hội lại tạo thành kết cấu hình “trái
dành” (vỏ ủ ấm tích xưa). Dù cho cách thể hiện ít
nhiều có nét gai góc, bởi những đao lửa tỏa ra,
thiếu mềm mại, nhưng trong trường hợp này, ý
nghĩa của phượng vẫn được bảo đảm theo tinh
thần truyền thống (đầu đội công lý và đức hạnh,
mắt tượng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu
trời, cánh là gió, lông là cây cỏ, đuôi (dạng đuôi
công) là tinh tú, chân là đất Vì vậy, phượng tượng
cho vũ trụ, nó như một hiện thân của cả bầu trời và
mặt đất, là biểu tượng của vĩ nhân, của thần thánh
và của nguồn sinh lực vô biên). Với bố cục này,
hình tượng của phượng như đã nói lên ước vọng
của con người thuộc tư duy nông nghiệp, muốn
thông qua đó để hội sinh lực của bốn phương trời
lại mà chảy qua cột (trục vũ trụ), tràn về trần gian
cho muôn loài sinh sôi. Dưới phượng là hệ mui
luyện (mái cong ở cả bốn mặt), mỗi mặt chạm nổi
một hổ phù đang oẹ “mặt trăng” ra (hình tượng
nguyệt thực một phần) như biểu tượng cho ước
vọng cầu được mùa Rồi, lồng đèn đầu cột là hình
tượng cụ thể về yêu cầu của con người gửi lên các
đấng thiêng liêng. Xưa kia, cửa giữa (giữa hai trụ
lớn) là cửa của thần, thường đóng vào ngày thường,
chỉ mở vào ngày hội để rước kiệu và nghi trượng
qua. Hai cửa bên là nơi vào (Nhập tẫn) và ra (Xuất
huyền) của tín đồ. Khi đến tiếp cận với thần linh đòi
hỏi người ta phải có tấm lòng thành kính cao độ,
nên ở trên đầu trụ của cửa này (ở hai bên cửa của
thần, giới hạn bởi trụ lớn và một trụ thấp hơn) được
đặt một con lân/nghê trong tư thế nhìn xuống.
Trong trường hợp này, lân như biểu tượng cho tầng
trên, cho sức mạnh thần thánh, cho trí tuệ siêu việt
và sự trong sáng, nên nó đứng/ngồi đó để kiểm
soát tâm hồn kẻ hành hương, đảm bảo (ở mặt tinh
thần) cho thế giới thiêng liêng luôn được thanh
tịnh. Sau nghi môn trụ là sân đền, rất rộng, được lát
đá, nhằm tăng sự thiêng liêng. Ở nơi ấy, không có
con đường riêng (thần/linh đạo chạy thẳng từ nghi
môn vào chính điện) cho thần, bởi người dân địa
phương cho rằng: Quốc Mẫu Tây Thiên được coi là
bà Mẹ khởi nguyên, thiêng liêng, mang tư cách của
một đấng vô cùng (quyền năng tối thượng, đứng
đầu bách thần), lòng Mẹ bao la, nhân từ, vị tha, gần
gũi và không phân biệt trên tinh thần “thiên
nhân đồng nhất thể”. Người dân Tây Thiên tin rằng,
chúng sinh đi trên sân này như bước vào cõi thánh
thiện và đều như con của bà Mẹ thế gian vĩ đại, nên
sân được lát đá toàn bộ (nhiều nhà dân tộc học văn
hoá, khảo cổ học, tôn giáo học của thế giới và
trong nước, đã chỉ ra rằng: Thời đại đồ đá, đồ đồng
qua đi, các công cụ vô cùng đẹp của các thời đó
không được dùng nữa, chúng chìm dần vào lòng
đất và bị lãng quên... Về sau, qua một sự kiện nào
đó, chúng được đào lên, người ta không tin là nó tự
có trong tự nhiên, họ cũng không hẳn tin chủ nhân
của các vật này là con người. Cuối cùng, chúng
	


được gán cho là của thần linh. Và, như thế, chúng
có một sức linh nhất định. Sau đó, bằng tư duy liên
tưởng mênh mông ngang tầm trời đất, các đồ thờ
làm bằng những chất liệu này, cũng tự thân chứa
sức thiêng hơn nhiều so với đồ thờ bằng các chất
liệu khác). Trên đường vào, một cây đa chín cội,
nằm bên phải mép sân như tượng cho đời thường
đứng quy y trước cửa đạo và như muốn nhắc con
người thành tâm hơn nữa. Chính điện của đền
Thõng nằm tại cuối sân, cân xứng ở hai bên gian
thờ là hai cây đại cổ thụ, mà mỗi khi tới mùa đông,
chúng không còn một chiếc lá, để như mang một
vẻ đẹp tâm linh cao thượng. Các già làng thường
bảo, khi mùa đông tới, sinh khí của trời bị hao mòn,
lúc đó, cây đại, mang tư cách là cây thiên mệnh,
vươn “tay” lên hút sinh lực của tầng trên, nhằm góp
phần duy trì sự sống cho thế gian.
Ngôi điện chính có kết cấu mặt bằng hình chữ
Đinh, gồm tiền bái, với ba gian hai chái lớn, phần
“chuôi vồ”, nơi đặt bàn thờ của thánh Mẫu có ba
gian dọc. Tuy mới được tu bổ lớn vào năm 1993,
nhưng điện thờ vẫn gần như giữ nguyên được kiểu
dáng của tổ tiên để lại, nhất là ở mặt tinh thần của
kiến trúc. Cụ thể, với bốn góc mái cong như tạo cho
ngôi điện tránh được cảm giác nặng nề. Ở kết cấu
mặt đứng, chúng ta vẫn thấy cả toà nhà như tượng
cho ba tầng thế giới, với mái là biểu tượng của tầng
trời, có mặt trời ở chính tâm bờ nóc, là rồng tượng
cho mây, là lân tượng cho trí tuệ tầng trên, là con si-
vẫn ở hai đầu kìm nóc tượng cho chủ nguồn nước
Tất cả hội lại như một bầu trời chứa đầy sinh khí,
mang yếu tố dương. Đối với tầng mái là nền, tượng
cho yếu tố âm. Âm - Dương đối đãi qua những cột
cái và các chân tảng đá (có khi tạc đài sen). Tất cả đã
tạo cho không gian lòng nhà đầy sinh khí, nơi mà
thần và người tiếp cận. Hiện nay, thần thủ điện là
Tây Thiên Quốc Mẫu, vì thế, khó có thể gọi đây là
đền Trình, mà thực chất là đền Hạ, nơi Quốc Mẫu
xuống đời để cứu vớt chúng sinh. Một đặc điểm nổi
bật khác của kiến trúc này là, do được dựng ở dưới
thấp, trước một không gian rộng lớn (sân và cánh
đồng Thõng), nên trước con mắt của chúng ta, nó
như bị hút xuống đất. Song, cũng kết cấu tương tự
như tại nhiều kiến trúc ở khu đền Thượng, do không
có một không gian rộng lớn bằng phẳng trước mặt,
lại ở trong lòng không gian lớn, luôn bị ngắt khúc
bởi núi rừng, khiến kiến trúc đó như những mầm cây
muốn chồi lên để tạo thành những điểm nhấn văn
hoá giữa rừng xanh bao la (dù cho kết cấu cũng
tương đồng đền Thõng).
Trở lại với đền Thõng, kiến trúc này không có ý
thức vươn theo chiều cao, nó đã tương đồng như
mọi kiến trúc truyền thống khác, ngoài điều kiện
vật liệu kiến trúc “hạn chế”, thì ý thức tín ngưỡng
của người Việt vẫn coi thần linh còn rất gần gũi,
chưa tách biệt hẳn, luôn vì con người mà tồn tại.
Mặt khác, với ý thức muốn hoà vào thiên nhiên vũ
trụ để cùng tồn tại, nên ngôi nhà xưa của người Việt
ít khi cao hơn cây lớn xung quanh. Tinh thần ấy như
thấy rõ ở đền Thõng, nơi mà Quốc Mẫu Tây Thiên
muốn hoà với thế gian để đem phúc đến cho con
người. Ngoài ra, với những đền thờ Quốc Mẫu thì ở
chính điện vẫn chỉ có một tượng của Bà, chưa hề có
bóng dáng các thần Mẫu nông nghiệp của miền
châu thổ thấp (Tam toà, Tứ phủ). Vì thế, có thể tạm
nghĩ, Bà là một vị thần Mẹ khởi nguyên còn nặng
yếu tố rừng núi, ít nhiều có nét tương đồng với bà
Mẹ Đông Cuông (Văn Chấn - Yên Bái) sớm hơn cả
bà Mẹ Xứ sở, và cũng có thể sớm hơn cả thần nửa
núi nửa đồng bằng: Tản Viên Bà như đại diện cho
cư dân Việt ở đương thời, đang bước xuống miền
chân núi để mở đầu cho cuộc “hành hương” xuống
vùng châu thổ. Và, như thế, Bà không chỉ là một
thần linh tối thượng để thờ cúng mà còn là một anh
hùng văn hoá ở thời nguyên thuỷ, đánh dấu về một
bước đi lịch sử khởi đầu của dân tộc.
Đền Cậu - đền Cô: Vượt qua đền Thõng, con
đường đá xếp gập ghềnh men theo bờ suối, đưa
tâm hồn kẻ hành hương bước dần ra ngoài không
gian nhân tạo để nhập vào không gian tự nhiên bao
la. Chân bước đi mà lòng hướng tới bản thể của đất
trời, khoảng hơn 1,5km tới đền Cậu. Ở nơi đó, trước
đã từng có một miếu ...  hội tụ được khí thiêng của trời đất. Chúng ta
đã từng biết, chùa Phật Tích, chùa Dạm (đều ở Bắc
Ninh), chùa Hương (Hà Tĩnh), đền thờ Tản Viên (Ba
Vì) và nhiều chùa, đền khác, thường được dựng ở
lưng chừng núi thiêng, ít khi ở đỉnh (trừ trường hợp
núi, đồi thấp). Bởi theo quan niệm dân gian, đỉnh
núi cao là điểm thông thiên địa. Việc xây dựng ở đó
có thể làm đứt mạch nối đất - trời, sợ ảnh hưởng tới
cuộc sống thế gian.
Về đền Thượng: Những tầng bậc xen nhau của
mạch núi tại nơi đây đã tạo nên nền của các điện
	


6.789:%;7<5.%/012 3
45%&
thờ khác nhau, trong đó, đền Thượng nằm tại
trung tâm. Ở mặt phong thuỷ thì vị trí này mang
thế tay ngai, lưng tựa vào ngọn Thạch Bàn, hai bên
là hai dãy núi chạy xuống, phía trước rộng, thoáng,
là cửa mở xuống trần gian nhìn về cánh đồng
Thõng và rộng hơn là cả vùng châu thổ. Nơi đây,
mây vờn núi, cây cối tốt tươi, chim muông tụ hội,
khe suối reo vui, tạo thành một trong những miền
Thánh địa của dãy núi Tam Đảo này. Đền Thượng
quay mặt về hướng Tây - Nam, trong đó, hướng
Tây thuộc âm, mặt thần thuộc dương, hợp với
nhau tạo thành thế âm - dương đối đãi; các hướng
khác cũng tương tự (tay phải thuộc dương, đặt về
hướng Bắc thuộc âm; tay trái thuộc âm, đặt về
hướng Nam thuộc dương; lưng thuộc âm, đặt về
hướng Đông thuộc dương) hội lại, khiến thần
yên vị để con người mong thần luôn có mặt khi
được cầu viện tới. Thế còn hướng Nam? Có nhiều
nghĩa, như: “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam”.
Đây là hướng hỏa, màu đỏ, gắn với nguồn sinh lực
vũ trụ vô biên; là hướng của thần/thánh, người tài,
ít nhiều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa: “Thánh
nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” Và, cao hơn
hết, hướng Nam gắn với trí tuệ, là hướng của kiếp
tu nhằm tìm tới giác ngộ, giải thoát mà nhập về cõi
Niết bàn. Đó cũng là hướng mà các thiền sư trước
đây đã tìm về với mảnh đất này, như: Cúc Khê thiền
sư, Cương Sơn thiền sư (không phải Võng Sơn),
Giác Nghĩa(?) Đó là những tên của các kiếp tu
mà gần như chỉ để nói về đạo hạnh của bậc trí giả
Phật giáo, muốn nhập vào thâm sơn để tìm về bản
thể, như biểu hiện về một tư tưởng “Hoà” với thiên
nhiên vũ trụ. Những tấm bia không theo một mẫu
mực, quy định nào. Chúng không cùng kích thước,
mà chỉ là những hòn đá tự nhiên, không to, không
nhỏ, như không gia công thêm bớt, ngoài việc
khắc chữ (Bia to nhất chỉ cao khoảng trên dưới 1m).
Tự dạng bia hồn nhiên, như không phải của thợ
chuyên nghiệp, một điểm đáng quan tâm khác là,
bia chỉ ghi pháp danh thiền sư, không ghi hành
trạng và cũng không ghi chữ “chi mộ”, bia không
nằm trong lòng tháp. Vậy đây là bia gì? Chúng ta
chưa khẳng định được, cũng chưa biết cụ thể chủ
nhân đó là ai, nhưng tư tưởng của các Ngài để lại
thì như đã vượt ra ngoài sự “dày vò” của cuộc đời
dục vọng mà phiêu diêu về cõi thường hằng, đi sâu
vào lẽ đạo xuất thế gian để “ta chẳng là ta, mà ta
cũng chẳng là ai”, rồi tự tan vào núi đồi, cây cỏ, vừa
như nhuốm màu Thiền và Vô vi của Lão để như
vượt ra ngoài chính Thiền và Lão. Trở lại với khu di
tích, với hướng Tây Nam (hiện có nhiều di tích của
người Việt ở Bắc Bộ đã theo hướng này), người xưa
vừa mong được thần yên vị vừa mong được hành
thiện trên nền tảng trí và đạo.
Cũng như ở đền Thõng, hiện nay, nghi môn của
đền được kết cấu theo kiểu tứ trụ, có tường nối giữa
trụ lớn và trụ bên, chỉ để một cửa giữa cho khách
hành hương ra vào. Trên các tường này đắp thanh
long (rồng xanh), bạch hổ (hổ trắng) và cây cỏ
tượng trưng cho bốn mùa. Một sân lát đá, ở giữa có
thần đạo, tạc ba chữ lớn Phúc, Lộc Thọ (nối dọc)
dẫn vào bậc thềm lên điện. Kiến trúc này có mặt
nền kiểu chữ Đình, kết cấu ba gian hai chái lớn.
Nhìn mặt trước, kiến trúc khá cân đối, với hai tầng
“chồng diêm” tám góc mái cong duyên dáng. Ở
phần “chồng diêm” gian giữa treo một bức hoành
phi lớn, đề “Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên” bằng
Quốc ngữ. Do mới được làm lại trong thời gian gần
đây, khi mà nền “triết học kiến trúc” truyền thống
đã tất yếu bị tàn phai thì một điện thờ chính kiểu
“chuôi vồ” đã được nối liền với toà tiền bái hai tầng
tám mái này, khiến cho mái nhà của Thánh thấp
hơn mái nhà nghỉ của những kẻ hành hương. Điện
thờ Quốc Mẫu Tây Thiên không có hậu cung đóng
kín, không có cửa thờ. Trên chính điện chỉ một pho
tượng Bà ngồi ở trung tâm, với “trướng phủ màn
che” tạo sự thâm nghiêm. Tượng Bà mang dáng vẻ
uy nghi, sang trọng, ngồi trên bệ, hai chân buông
thẳng, hai tay tì trên gối, với tay phải cầm quạt gấp,
mang nét quyền quý thuở xưa. Một đặc điểm đáng
chú ý là, pho tượng này không có cách ngồi chân
khoanh chân chống như các pho tượng Mẫu thông
thường ở điện thờ của tín ngưỡng Tứ phủ - Tam toà.
Phải chăng, do được đồng nhất với “Sơn Trụ Đại
vương” nên cách ngồi của Bà đã buông cả hai chân
như tượng Ngọc Hoàng và tượng nam giới được
phong tước Vương (?) Tại toà tiền bái, hiện nay chỉ
đặt ban thờ của hai thị giả là “Cô và Cậu của rừng
núi (đều khoác áo xanh lá cây). Trong đền còn nhiều
hoành phi như: “Sơn nhạc chung linh” (Núi rừng
hun đúc nên thánh/thần); “Quốc Mẫu linh từ” (Đền
thiêng thờ Quốc Mẫu), “Mẫu nghi thiên cổ” (Khuôn
phép do Mẫu tạo lập ra còn mãi mãi)
Buổi khởi nguyên, nơi đây chỉ có “Tây Thiên
Quốc Mẫu” và “Tây Thiên cổ tự”, tạo nên cảnh thanh
tao của thiền môn và chốn thần tiên. Tới thời gian
gần đây, người dân dựng thêm điện Mẫu Tứ phủ -
Tam toà, động Sơn Trang, điện thờ Mẫu Địa và điện
Cô Chín, khiến khu vực này trở nên “ồn ào” hơn.
Song, may mắn là trên điện thờ chưa hội nhập mẫu
 !"# $%&'(()
31
32
Lăng (Thị) Tiêu vào hệ Tứ phủ, để đền Bà vẫn giữ
được hồn cốt từ thời khởi nguyên.
Về chùa Tây Thiên: Ngôi chùa cổ đã được thay
bằng một chùa mới, nằm lệch sang trái của vị trí cũ.
Hiện nay, dấu xưa chỉ còn lại một ngôi tam quan cổ,
khá đẹp, nay còn bức hoành phi ghi tên chùa là
“Tây Thiên thiền tự”. Kết cấu tam quan theo dạng
tam sơn, với sự kết hợp cả yếu tố Phật và Nho. 
Cụ thể là: Ngôi tam quan này gần như theo
dáng hiện có của tam quan chùa Kim Liên (Nghi
Tàm, Hà Nội), song nhỏ và đơn giản hơn, chủ yếu
theo hình thức bào trơn đóng bén, với phong cách
nghệ thuật vào khoảng thế kỷ XIX. Cửa giữa được
kết cấu hai tầng tám mái, với khung cửa vòm cuốn.
Hai cửa bên được áp sát vào cửa giữa, ứng với hai
bán mái trước, sau và mái đầu hồi, lòng cửa hình
chữ nhật. Chính hai cửa bên hình chữ nhật tượng
cho “không quan” (nhận thức về bản thể chung
của muôn loài, muôn vật) và “giả quan” (nhận thức
về quy luật có sinh tất có diệt - không thường tồn
của thế giới vạn hữu) đã làm nổi bật lên tính chất
sâu thẳm của “trung quan” (mang tính trí tuệ), với
hình tò vò, cửa dẫn tâm chúng sinh vào đạo. Cũng
chính ở cửa giữa này, qua cấu trúc hai tầng tám
mái và bức vẽ màu hình “tứ linh” ở mặt ngoài cửa,
đã cho chúng ta một cảm thức về sự dung hội giữa
hai yếu tố Phật và Nho của trí thức đương thời.
Trong đó, hai cánh cửa chính như tượng cho lưỡng
nghi (thái âm - thái dương), khép mở theo quan
hệ đối đãi mà thành tứ tượng (thái dương, thiếu
âm, thái âm, thiếu dương), biểu hiện bởi cửa bên
trái vẽ rồng ở trên và rùa ở dưới, cửa bên phải vẽ
phượng ở trên và long mã ở dưới. Cả bốn linh vật
chầu vào chữ Thọ ở chính tâm, như biểu tượng về
“Ngũ phúc lâm môn”. Và, như thế, tam quan này
cần được bảo tồn nguyên vẹn. Ngôi chùa mới
dựng hiện nay, tuy chỉ cách nền cũ khoảng trên
dưới 20m, nhưng đã như khước từ hoàn toàn dấu
tích cổ truyền, với một tam quan khác xây bằng
vật liệu mới, cao lênh khênh, với hai tầng, mà ở
đây, cả kiến trúc và nghệ thuật khá xa lạ, do lấy
mẫu hình không trọn vẹn từ chạm khắc ở vùng
Nam Á (có trung tâm là Ấn Độ). Toà chùa chính có
hình thức truyền thống, song cơ bản, cũng bằng
vật liệu mới, không đặt trọng tâm vào nghệ thuật,
chỉ lấy thờ cúng làm trọng. Về hệ thống tượng:
Cách bài trí đã tương đồng với ngôi chùa dưới
đồng bằng. Các tượng này được đặt làm từ các
hiệp thợ có tay nghề tương đối vững, nên nhiều
pho có thể coi là đạt chuẩn cả về hình thể và ý
nghĩa, với giá trị nghệ thuật vừa phải. Trong các
chùa Việt xưa, với quan niệm, Tổ phải theo Phật,
nên nhà thờ Tổ cần đặt sau và không cao hơn Phật
điện (trên cùng trục trung tâm). Nhưng ở đây, do
thế đất không cho phép, vì thế, việc dựng nhà Tổ
đã không theo được nguyên tắc chung này. Tuy
nhiên, ngôi chùa mới này vẫn được coi như một
dấu ấn kế thừa Tây Thiên thiền tự của tiền nhân,
dù cho hiện tại, nó vì kiếp tu hơn vì chúng sinh. Từ
chùa, con đường quanh co lượn theo sườn núi đưa
khách hành hương tới thăm đền Thần Núi Tam
Đảo. Sự tích kể rằng, thần đã âm phù cho cuộc cầu
đảo dưới thời Trần Nhân Tông (1279 - 1293), nên
được vua phong là “Thanh Sơn Đại vương”. Đến
thời Lê sơ, đời vua Nhân Tông, niên hiệu Thái Hoà
thứ 8 (1450), vua sai đại thần Lê Khắc Phục lên tế
thần, ông có để lại tấm bia ma nhai (khắc vào vách
núi) ghi lại sự kiện này (cách đền khoảng gần
700m theo lối mòn). Từ đó, thần gắn với tâm hồn
người đời để có một đền thờ riêng thiêng liêng,
như bức hoành phi trong đền đã tôn vinh là: Thiên
Quang thần. Hiện nay, đền thần vẫn khá nhỏ, được
kết cấu theo kiểu một gian hai chái, nền cao, gần
như vuông, hai tầng tám mái, không chuôi vồ. Đền
đứng trong một không gian thông thoáng, nhìn
bao quát cả núi rừng, cùng hướng với đền Quốc
Mẫu Đây cũng là một điểm dừng chân lý tưởng
của khách hành hương, nơi người ta có thể đứng
trong không gian nhân tạo mà tâm hồn vẫn có thể
hoà nhập được với không gian thiên tạo, để tâm
hồn lãng đãng theo những đám mây hững hờ,
như tạo cho muôn vàn đỉnh núi hoá thân thành
các bồng đảo - nơi ngự của thần tiên. Từ đây, tâm
đạo được nẩy nở để kẻ hành hương đi ngược dòng
“Thanh nguyên” mà nhập vào cõi thường hằng,
với đích là chùa Địa Ngục và chùa Đồng.
Về chùa Địa Ngục: Từ đền Cô, theo con đường
mòn ít người qua, đường cũng gập ghềnh trắc trở,
khoảng 7km đến chùa Địa Ngục và chùa Đồng. Tất
cả chỉ còn là phế tích. Nhưng, tư liệu của các nhà
khảo cổ học đã níu kéo lại cho chúng ta một chút
“vinh quang” về văn hoá, lịch sử của thời quá khứ,
để ít nhất chúng ta có thể tạm hiểu về ngôi chùa
này từ trước khi nó trở thành phế tích.
Chùa quay hướng Nam (hướng Bát Nhã - trí tuệ)
lệch Tây 340, tựa lưng vào núi, hai bên đều có khe
suối nhỏ. Di vật tìm được trên nền chùa khá phong
phú, có niên đại từ thế kỉ XIII - XVIII. Trước mặt là
thần đạo dài khoảng 30m dẫn vào chùa, với dấu
tích còn lại là sáu cấp nền, được kè đá chắc chắn
	


(cấp 1, thấp nhất, dài 14m, rộng 5m; cấp nền 2 cao
hơn nền 1 khoảng 1m, dài 20m, rộng 10m; cấp nền
3 cao hơn nền 2 khoảng 0,8m - 1m, dài 2,9m, rộng
3,5m; cấp nền 4 cao hơn nền 3 khoảng 0,5m, dài
17m, rộng 3,3m; cấp nền 5 cao hơn nền 4 khoảng
0,2m, nằm lọt trong nền 4, rộng 5,3m, dài/sâu 3,3m;
cấp nền 6 cao hơn cấp nền 5 khoảng 0,25m - 0,3m,
rộng 11m, dài 20m (Các hiện vật khảo cổ chủ yếu
tìm được ở nền này).
Tuy nhiên, ở mặt ý nghĩa, có một vài ý kiến ngờ
vực, rằng: Vì sao chùa Địa Ngục là ngôi chùa liên
quan tới thế giới bên dưới mà lại nằm ở trên núi
Thạch Bàn, gần chùa Đồng - nơi trời đất giao hoà,
thuộc miền tiên cảnh? Khảo cổ học mới chỉ cho
ta biết về hậu thân của ngôi chùa này, với niên đại
sớm nhất vào khoảng thế kỷ XIII, muộn hơn dấu
tích Phật giáo thời Asoka tới xấp xỉ 1500 năm.
Những cứ liệu lịch sử cũng chỉ tạm cho chúng ta xác
nhận về cái tên gọi là Địa Ngục (Niraya - Lê Nê giả,
Naraka, Na Lạc Ca). Dân tộc học cũng không sáng tỏ
hơn, bởi tộc người cư trú chính hiện nay là người
“Sán Rìu”, họ tới định cư ở đây mới chỉ vài trăm năm.
Tuy nhiên, theo giả thiết khoa học, cho phép chúng
ta tạm hiểu là, vào khoảng thế kỷ III trước Công
nguyên, một bộ phận người Việt còn sống ở núi và
chân dãy núi Tam Đảo, nơi chôn người chết của họ
là ở trong núi rừng - mường Ma, mường của tổ tiên,
của nguồn cội Như thế, phải chăng, Địa Ngục
(đối lập với cõi sống) là ngôn từ và khái niệm ngoại
sinh đã được du/hội nhập để làm phong phú hơn
cho văn hoá Việt và dần được người Việt chấp nhận,
nên nó tồn tại.
Về chùa Đồng: Từ chùa Địa Ngục đi tiếp
khoảng 1km và lên cao hơn đó 100m là tới chùa
Đồng. Chùa nằm trên đỉnh núi nhỏ, thuộc ngọn
Thạch Bàn, bên Đông là rừng trúc. Nơi đây cũng
tìm được nhiều mảnh ngói, mảnh sành và kết cấu
mặt nền gần như của chùa Địa Ngục, mà theo
Nguyễn Chí Ninh (“Mấy vấn đề về Phật giáo ở Tây
Thiên Tam Đảo, Vĩnh Phúc”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học, tái bản lần thứ nhất, Viện Nghiên cứu Tôn giáo
và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc xuất
bản tháng 5/2009, trang 57): Nền chùa được bao
bởi lớp kè đá, ở chiều Đông - Tây, dật 14 cấp, nay
còn cao khoảng 0,7m và dài khoảng 24m; chiều
Bắc - Nam dài 23m, gồm hai lớp đá xốp, rất phẳng
giữa vỉa nền. Chùa nhìn về hướng Nam, lệch Đông
100. Hai bên có khe suối nhỏ
Nhìn chung, trước bao la, chùa Đồng (không
phải chùa bằng đồng) lọt và hoà vào giữa đại ngàn,
để như chở theo tư tưởng, trí tuệ của người xưa,
một ý thức tìm về bản thể của trời đất và bản chất
thẳng ngay của người quân tử (đậm màu Thiền -
Lão). Đó phải chăng cũng là biểu tượng mà con
người đã hội vào cây trúc (lòng rỗng để biểu hiện về
tâm không - bản thể, thân thẳng gắn với ý nghĩa
“chính nhân quân tử”).
Tạm kết
Thông qua kết quả của nhiều nhà nghiên cứu
và một số già làng, với một vẻ đẹp tự nhiên không
thừa, không thiếu, từ bao thế kỷ, đời nối đời thổi
hồn cho đá, cho cây, đã tạo nên một Tây Thiên dung
hội nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời và chở theo nó
một vẻ đẹp tâm linh đầy chất thánh thiện. Người ta
như thấy ở Tây Thiên một sự đối đãi thiêng liêng,
chuẩn mực, để nảy sinh, phát triển và tồn tại. Với
trên cao là nơi trời đất giao hoà, một miền trí tuệ
thanh tao, thoát tục, nơi hội được siêu lực vũ trụ vào
ba đỉnh núi (Thiên Thị: Chợ Trời, nơi quần tiên hội
tụ; Thạch Bàn: Bàn đá thiêng, gắn với nơi của thánh
thần, vĩ nhân; Phù Nghì/Nghĩa: Phù núi nghĩa,
phù trọng nghĩa lý cao siêu của đạo pháp cao như
núi). Tam Đảo với ba đỉnh cao nhất luôn có mây vờn
(như gắn với tầng trên), chân trong lòng đất, khiến
núi như mang tư cách trục thông linh, để chuyển
tinh khí từ trời cha vào lòng đất mẹ cho muôn loài
sinh sôi - Dòng tinh khí này từ đạo (ở tầng cao/đỉnh)
chảy xuống đời, qua các dòng suối thiêng, hội lại
thành dòng Giải Oan và Trường Sinh, kèm theo là
các tầng bậc thánh thần từ thấp tới cao, dẫn chúng
sinh có đạo quả tiến dần tới giác ngộ mà nhập về
cõi thường hằng, được biểu hiện qua các ngôi đền,
chùa liên quan. 
Suy cho cùng, Tây Thiên không chỉ là một vùng
sinh thái - thắng cảnh thiên nhiên trời phú, mà nơi
đây còn gắn với những bước đi đầu tiên của người
Việt trên con đường tiến xuống khai thác vùng
châu thổ. Tây Thiên còn là một điểm sáng mang
tính khởi đầu của sự dung hội giữa Phật giáo có
yếu tố nguyên sơ đầy chất trí tuệ với tín ngưỡng
dân gian thông qua vị anh hùng văn hoá (từ thời
tiền, sơ sử) là thánh/Quốc Mẫu Lăng (Thị) Tiêu,
cùng sự đắp bồi của lịch sử và một số dòng tín
ngưỡng khác thuộc quá trình phát triển của xã
hội mà dệt thành một trong những bản trường
ca “giao hưởng” đa sắc màu khá điển hình của di
sản văn hoá Việt Nam./.


(Ngày nhận bài: 05/12/2015; Ngày phản biện đánh giá:
27/12/2015; Ngày duyệt đăng bài: 01/01/2016).
 !"# $%&'(()
33

File đính kèm:

  • pdfve_lich_su_van_hoa_vung_danh_thang_tay_thien.pdf