Về đạo đức trong hoạt động du lịch

Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm hướng tới sự cân

bằng trong mối quan hệ giữa con người và con người trong môi trường xã hội, giữa con

người và môi trường tự nhiên. Con người cần giữ mối quan hệ tốt, hiểu biết và tôn trọng

các mối quan hệ thông qua cá nhân và cộng đồng. Để đảm bảo cho các ứng xử đạo đức

trong hoạt động du lịch, các bộ quy tắc ứng xử mang tính quốc tế lần lượt ra đời như Bộ

quy tắc Đạo đức trong du lịch, Peter Mason & Martin Mowforth, 1995, Bộ quy tắc ứng xử

Môi trường cho du lịch, UNEP, 1995, Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong du

lịch, WTO, 1999. Ở Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề ra Bộ quy tắc ứng

xử Văn minh du lịch thông qua Quyết định số 718/QĐ-BVHTTDL, ngày 02-3-2017, hướng

du lịch đến phát triển bền vững và có trách nhiệm, đưa du lịch Việt Nam trở thành một

ngành kinh tế mũi nhọn.

pdf 10 trang kimcuc 18760
Bạn đang xem tài liệu "Về đạo đức trong hoạt động du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về đạo đức trong hoạt động du lịch

Về đạo đức trong hoạt động du lịch
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
104 
VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH 
ETHICS IN TOURISM 
PHAN HUY XU
 và VÕ VĂN THÀNH 
 PGS.TS. GVCC. Trường Đại học Văn Lang, xuphanhuy@gmail.com, Mã số: TCKH10-04-2018 
 ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, vonhanchi@gmail.com 
TÓM TẮT: Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm hướng tới sự cân 
bằng trong mối quan hệ giữa con người và con người trong môi trường xã hội, giữa con 
người và môi trường tự nhiên. Con người cần giữ mối quan hệ tốt, hiểu biết và tôn trọng 
các mối quan hệ thông qua cá nhân và cộng đồng. Để đảm bảo cho các ứng xử đạo đức 
trong hoạt động du lịch, các bộ quy tắc ứng xử mang tính quốc tế lần lượt ra đời như Bộ 
quy tắc Đạo đức trong du lịch, Peter Mason & Martin Mowforth, 1995, Bộ quy tắc ứng xử 
Môi trường cho du lịch, UNEP, 1995, Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong du 
lịch, WTO, 1999. Ở Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề ra Bộ quy tắc ứng 
xử Văn minh du lịch thông qua Quyết định số 718/QĐ-BVHTTDL, ngày 02-3-2017, hướng 
du lịch đến phát triển bền vững và có trách nhiệm, đưa du lịch Việt Nam trở thành một 
ngành kinh tế mũi nhọn. 
Từ khóa: Bộ quy tắc ứng xử, đạo đức trong du lịch, hoạt động du lịch. 
ABSTRACTS: The principles of developing sustainable and responsible tourism towards 
the balance of human-human and human - nature relations. Human beings need to 
maintain good relationships, understand and respect relationships among individuals and 
communities. In order to ensure ethical conduct in tourism activities, a number of 
international codes of conduct Codes of Ethics in Tourism (Mason & Mowforth, 1995), 
Environmental Codes of Conduct for Tourism (UNEP, 1995), Global Code of Ethics for 
Tourism (WTO, 1999) were introduced. In Vietnam, the Ministry of Culture, Sports and 
Tourism released The Code of Conduct for civilized behavior in tourism under Decision 
No. 718/QĐ-BVHTTDL, dated 2nd March 2017 to head Vietnam’s tourism towards 
sustainable and responsible development which will turn tourism into a spearhead 
economic sector. 
Key words: Code of conduct, ethics in tourism, tourism activity. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo số liệu hằng năm của Tổ chức Du 
lịch Thế giới (UNWTO), du lịch toàn cầu 
đang tăng trưởng đều đặn và ổn định. Năm 
2016, số lượng du khách đi du lịch bên 
ngoài lãnh thổ của họ hơn 1.235 triệu lượt 
người, tăng lên 3,9% (tức tăng khoảng 46 
triệu lượt du khách so với năm 2015) và là 
năm thứ 7 liên tiếp lượng khách liên tục 
tăng lên từ năm 2009 [10]. Tuy nhiên, du 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
105 
lịch thế giới đang đối mặt với những vấn đề 
lớn như xâm hại thiên nhiên, di sản văn 
hóa, xói mòn đạo đức trong mối quan hệ 
giữa người và người phát sinh trong quá 
trình hoạt động du lịch. Bộ quy tắc ứng xử 
toàn cầu về Đạo đức trong du lịch mà 
UNWTO đưa ra năm 1999 có vai trò tích 
cực trong việc giảm thiểu những tác động 
tiêu cực trong du lịch, xóa đói giảm nghèo, 
cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, 
đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội, 
đặc biệt là tại các nước đang phát triển và 
ngành du lịch đóng vai trò quan trọng trong 
việc tăng cường hữu nghị, hiểu biết, hòa 
bình thế giới. Ở Việt Nam, nhận thức được 
tình hình thực tế trong hoạt động du lịch, 
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa ra Bộ 
quy tắc ứng xử Văn minh du lịch (2017) để 
hướng du lịch đến phát triển bền vững và 
có trách nhiệm. Trong bài viết này, chúng 
tôi bàn đến vấn đề đạo đức trong hoạt động 
du lịch với một vài luận điểm như quan 
niệm về đạo đức trong du lịch thông qua Bộ 
quy tắc ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong 
du lịch cũng như Bộ quy tắc ứng xử Văn 
minh du lịch ở Việt Nam. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Quan niệm về đạo đức và đạo đức 
trong du lịch 
Văn hóa được con người sáng tạo ra 
với các giá trị chân, thiện, mỹ. Muốn vậy, 
những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa 
đó phải có tài và có đức mà đức là cái gốc, 
theo quan niệm phương Đông, đứng đầu 
trong tam bất hủ (lập đức, lập công và lập 
ngôn). Đức có được từ sự tích lũy cái thiện 
mà thành, nếu không tiếp tục làm điều thiện 
(tích đức) nữa thì sẽ mất đức! “Tích thiện 
chi gia, tất hữu dư khương, tích bất 
thiện chi gia, tất hữu dư ương” [Kinh dịch]. 
Tức là: Nhà làm điều thiện sẽ có dư điều 
phúc, nhà làm điều bất thiện cũng sẽ có 
thừa tai vạ. Ở phương Tây, Matthiew 
Arnold cho rằng: Việc thụ đắc văn hóa là 
phương tiện cho sự hoàn thiện đạo đức và 
cái tốt trong xã hội [11, tr.41]. 
Đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn 
mực được xã hội thừa nhận, quy định và 
điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với 
cá nhân, cũng như giữa cá nhân với cộng 
đồng nhằm duy trì tính nhân bản của xã hội 
loài người. Dưới góc độ lịch sử, đạo đức 
thể hiện trình độ phát triển loài người, nhận 
diện tính nhân bản trong bậc thang giá trị 
của con người. Đạo đức giúp cho con người 
phân biệt giữa “ham muốn” và “nhu cầu”, 
kiểm soát sự tham lam quá độ, dục vọng vô 
biên của con người. Nhờ đạo đức, con 
người biết hành động theo nghĩa vụ hoặc tự 
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù 
hợp với lợi ích của cộng đồng. Ngoài ra, 
đạo đức còn là một phạm trù lịch sử phản 
ánh các quan hệ xã hội, vừa mang tính kế 
thừa và điều chỉnh dựa trên tình trạng phát 
triển của xã hội loài người. Chất lượng 
cuộc sống không chỉ được đo bằng vật chất 
mà còn bao gồm đạo đức và tinh thần. Trên 
thực tế, có thể có người giàu có về vật chất 
nhưng lại nghèo nàn về tâm hồn, đạo đức. 
Đạo đức có những thước đo mang tính giá 
trị của riêng nó, những giá trị mà con người 
hướng đến làm cho cuộc sống của con 
người nhân bản hơn, văn minh ngày càng 
được nâng cao. Nói tóm lại, đạo đức làm 
quan hệ con người với con người mang tính 
nhân bản hơn. Đối với cá nhân và cộng 
đồng, đạo đức cũng phải được rèn luyện từ 
những quy tắc hành xử nhân bản từ bắt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
106 
buộc đến tự giác. Một số phạm trù cơ bản 
của đạo đức như: nghĩa vụ, lương tâm, cắn 
rứt lương tâm, ý thức trách nhiệm, tự giác, 
cơ chế xấu hổ, dư luận xã hội, trong đó, 
nghĩa vụ và lương tâm là hai phạm trù cần 
được giải thích và hiểu đúng. 
Nghĩa vụ, là trách nhiệm đối với cộng 
đồng, xã hội khi nhu cầu cá nhân mâu 
thuẫn với lợi ích xã hội thì cá nhân phải 
biết hy sinh cái riêng. 
Lương tâm, là tiếng nói bên trong đầy 
uy quyền chỉ dẫn, thôi thúc con người làm 
điều tốt, ngăn cản điều xấu. Lương tâm 
được hình thành từ thấp đến cao trong quá 
trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. 
Đạo đức trong du lịch về cơ bản dựa 
trên những quy tắc ứng xử trong du lịch mà 
các thành phần tham gia vào hoạt động du 
lịch đồng thuận và thực thi. Các thành phần 
(hoặc các bên) tham gia vào hoạt động du 
lịch là du khách, nhà cung ứng dịch vụ du 
lịch, cộng đồng địa phương, các cơ quan 
quản lý nhà nước và tài nguyên du lịch đều 
được UNWTO (1999) đề cập trong Bộ quy 
tắc ứng xử đạo đức Toàn cầu trong du lịch 
(chúng tôi sẽ phân tích thêm ở mục sau). 
Tác giả Trần Thị Minh Hòa (2013), 
phân tích 6 mối liên hệ cơ bản giữa các bên 
liên quan vào hoạt động du lịch, cụ thể là: 
(1) Khách du lịch và nhà cung ứng dịch vụ 
du lịch; (2) Khách du lịch với cộng đồng 
dân cư; (3) Khách du lịch với cơ quan quản 
lý Nhà nước; (4) Nhà cung ứng dịch vụ du 
lịch với cộng đồng dân cư; (5) Nhà cung 
ứng dịch vụ du lịch với cơ quan quản lý 
Nhà nước; và (6) Cơ quan quản lý Nhà 
nước và cộng đồng dân cư [6, tr.21-24]. 
Phan Huy Xu & Võ Văn Thành (2016), nêu 
và phân tích 10 mối lên hệ giữa các thành 
tố cấu thành nên văn hóa du lịch. Các mối 
quan hệ ấy bao gồm: (1) Quản lý Nhà nước 
với tài nguyên du lịch; (2) Quản lý Nhà 
nước với cộng đồng dân cư; (3) Quản lý 
Nhà nước với du khách; (4) Quản lý Nhà 
nước với nhà cung ứng dịch vụ du lịch; (5) 
Du khách với tài nguyên du lịch; (6) Du 
khách với cộng đồng dân cư; (7) Du khách 
với nhà cung ứng dịch vụ du lịch; (8) Cộng 
đồng dân cư với tài nguyên du lịch; (9) 
Cộng đồng dân cư với nhà cung ứng dịch 
vụ du lịch; (10) Nhà cung ứng dịch vụ du 
lịch với tài nguyên du lịch [4, tr.71-101]. 
Thực chất của 6 mối quan hệ cơ bản trong 
du lịch (Trần Thị Minh Hòa, 2013) hay 10 
mối quan hệ ứng xử có tính tương tác 
(Phan Huy Xu & Võ Văn Thành, 2016) là 
ứng xử đạo đức đa chiều kích giữa các 
thành phần tham gia vào hoạt động du lịch. 
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các bên 
tham gia vào hoạt động du lịch cũng chính 
là ứng xử hài hòa về đạo đức trong hoạt 
động du lịch. 
2.2. Quá trình xây dựng và thông qua Bộ 
quy tắc ứng xử toàn cầu về Đạo đức 
trong du lịch trên thế giới 
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, kinh 
tế thế giới phục hồi, ngành du lịch ngày 
càng tăng trưởng mạnh và trở thành một 
nhu cầu không thể thiếu của con người. 
Những dòng khách du lịch nội địa hoặc du 
lịch ra nước ngoài, trải nghiệm vẻ đẹp thiên 
nhiên, những nét hay, mới lạ về văn hóa 
của các dân tộc, trở nên phổ biến. Vấn đề 
đạo đức trong du lịch (Ethics in tourism 
industry) đã được các học giả quan tâm và 
đặt ra để giải quyết những va chạm giữa du 
khách với nhà cung ứng dịch vụ du lịch, 
giữa du khách với cộng đồng địa phương 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
107 
và thậm chí giữa du khách với chính quyền 
sở tại cũng như các mối liên hệ đa chiều 
kích trong hoạt động du lịch. 
Từ năm 1992, có hội nghị Thượng 
đỉnh tại RIO và AIEST đặt ra cách tiếp cận 
bền vững hơn với vấn đề đạo đức, đặc biệt 
từ khi du lịch được định hướng phát triển 
bền vững [2, tr.27]. Mặc dù có những cố 
gắng của các tổ chức thế giới, giới học giả 
du lịch học nhiều nơi trên thế giới, tuy 
nhiên, những thảo luận, đề xuất bộ luật 
đạo đức cho ngành du lịch gặp trở ngại và 
không ít lần thất bại. Một cố gắng của 
Peter Mason và Martin Mowforth (1995) 
về Bộ quy tắc Đạo đức trong du lịch và 
cùng thời gian này Chương trình Phát triển 
Liên Hợp quốc (UNEP, 1995) đề xuất Bộ 
quy tắc Ứng xử Môi trường cho du lịch đã 
gợi lại vấn đề đạo đức trong du lịch tại 
Hội nghị Thượng đỉnh Rio (1992). Tổ 
chức Du lịch Thế giới (WTO, nay là 
UNWTO) họp các thành viên thuộc các 
vùng lãnh thổ khác nhau tại Phiên họp Đại 
hội đồng tại Santiago, Chile ngày 01-10-
1999 đã thông qua Bộ quy tắc ứng xử toàn 
cầu về Đạo đức trong du lịch [7]. Bộ quy 
tắc đưa ra 10 Điều, gồm 48 Khoản khuyến 
cáo ứng xử của các bên tham gia vào hoạt 
động du lịch, khẳng định quyền du lịch và 
tự do đi lại của du khách, xác định nguyện 
vọng với mong muốn thúc đẩy trật tự du 
lịch thế giới hướng tới công bằng, trách 
nhiệm đối với các thành phần tham gia vào 
hoạt động du lịch và hướng đến du lịch 
bền vững. Bộ quy tắc này được xem là 
thành tựu rất nổi bật của du lịch thế giới 
trong một thời gian dài. 
Mới đây, tại Phiên họp cấp cao lần 
thứ 22 của Đại hội đồng UNWTO đặt lại 
vấn đề đạo đức trong du lịch, ngài Pascal 
Lamy, Chủ tịch Ủy ban Thế giới về Đạo 
đức trong du lịch (WCTE-The World 
Committee on Tourism Ethics) đã phát 
biểu: “Trong một thế giới kết nối, nơi 
khối lượng kinh doanh du lịch bằng hoặc 
thậm chí vượt quá lượng xuất khẩu dầu 
thô, thực phẩm hoặc xe ô tô, thì điều 
quan trọng là phải đưa ra một khuôn khổ 
pháp lý để đảm bảo tăng trưởng được 
giải quyết một cách có trách nhiệm và có 
thể duy trì được du lịch theo thời gian” 
[8]. Phiên họp này đã phê chuẩn Nghị 
định khung của UNWTO về Đạo đức Du 
lịch và được xem là “Một bước đi quan 
trọng để đảm bảo phát triển du lịch được 
thực hiện với sự tôn trọng đầy đủ về phát 
triển bền vững, các vấn đề xã hội, phát 
triển cộng đồng địa phương, nâng cao 
hiểu biết giữa các nền văn hóa và giải 
quyết các vấn đề về lao động” [9]. Ngài 
Tổng thư ký UNWTO, Taleb Rifai cho 
rằng: “Đây là một khoảnh khắc lịch sử 
đối với UNWTO,... Một dấu hiệu mạnh 
mẽ rằng các nước cam kết tạo ra một 
động lực du lịch cho một tương lai tốt đẹp 
hơn cho tất cả mọi người” [8]. 
Tóm tắt 10 điều trong Bộ quy tắc ứng 
xử toàn cầu về Đạo đức trong du lịch 
(1999) như sau: Đóng góp cho sự hiểu biết 
và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc và 
xã hội loài người (Điều 1); Như là một 
phương tiện cho sự hoàn thiện cá nhân và 
cộng đồng (Điều 2); Một nhân tố của sự 
phát triển bền vững (Điều 3); Sử dụng di 
sản văn hóa của nhân loại và sự đóng góp 
đối với di sản (Điều 4); Một hoạt động có 
lợi cho các quốc gia và cộng đồng của 
nước sở tại (Điều 5); Nghĩa vụ của các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
108 
thành phần tham gia trong hoạt động du 
lịch (Điều 6); Quyền lợi cho du lịch (Điều 
7); Quyền tự do đi lại của du khách (Điều 
8); Quyền lợi của người làm việc và chủ 
doanh nghiệp trong ngành du lịch (Điều 9); 
Thực thi bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về 
Đạo đức trong du lịch (Điều 10). Có thể 
nói rằng, Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về 
Đạo đức trong du lịch là triết lý của ngành 
du lịch thế giới mà các quốc gia thành viên 
UNWTO đồng thuận, vận dụng. 
Phân tích một số điều trong Bộ quy tắc 
ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong du lịch 
[4, tr.279-290]. 
Điều 1: Du lịch đóng góp vào sự hiểu 
biết và tôn trọng giữa con người và con 
người trong xã hội, gồm 6 Khoản có thể 
tóm tắt những ý chính như sau: Hiểu biết 
và xúc tiến các giá trị đạo đức thông 
thường đến nhân loại, giá trị truyền thống, 
văn hóa, xã hội của con người kể cả các 
dân tộc ít người; Tôn trọng pháp luật, việc 
làm và phong tục các vùng và quốc gia; 
Tôn trọng và mến du khách; Chính quyền 
địa phương bảo vệ du khách và quan tâm 
đến sự an toàn cho họ và người làm du 
lịch. Kết án những ai phá hủy tiện nghi du 
lịch và các di sản văn hóa hoặc tự nhiên; 
Du khách không được vi phạm pháp luật 
nước sở tại, hành động phạm tội nơi quốc 
gia, vùng họ đến du lịch; Du khách có 
trách nhiệm làm quen với chính họ. Trong 
thế giới phẳng ngày nay, con người có xu 
hướng tránh xung đột, đối đầu mà tìm cách 
học hỏi, chấp nhận những khác biệt của 
nhau để tồn tại và phát triển. Đó cũng là nội 
dung quan trọng của nhiều tổ chức thế giới, 
ví dụ Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu lần thứ 5 
(ASEM 5) tại Hà Nội (2004) tuyên bố rằng: 
“Đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân 
loại, là nguồn sáng tạo, cổ vũ và là động 
lực quan trọng của phát triển kinh tế và tiến 
bộ của xã hội loài người. Đa dạng văn hóa 
là cơ hội to lớn để xây dựng một thế giới 
hòa bình và ổn định hơn bởi đa dạng văn 
hóa không loại bỏ mà đem lại sự hòa hợp, 
khoan dung, đối thoại và hợp tác” (Trích). 
Điều 2: Du lịch là phương tiện để hoàn 
thiện cá nhân và công đồng, gồm có 5 
Khoản với những ý nghĩa cốt lõi như: Du 
lịch nâng cao việc tự giáo dục, tha thứ lẫn 
nhau, học hỏi lẫn nhau; Du lịch tôn trọng 
tính cộng đồng, bình đẳng giới, cải thiện 
quyền con người nhất là các nhóm người 
dễ bị tổn thương: trẻ em, người già, người 
tàn tật, người thiểu số và người bản địa; 
Du lịch tình dục đi ngược lại mục tiêu cơ 
bản của du lịch và pháp luật quốc tế và 
quốc gia cần lên án, có biện pháp chế tài 
và trừng trị; Cần khuyến khích du lịch có 
mục đích tôn giáo, giáo dục và văn hóa và 
trao đổi ngôn ngữ; Đưa vào chương trình 
giảng dạy những giá trị của du lịch về mặt 
lợi ích kinh tế, xã hội và văn hóa và cũng 
như là những rủi ro của nó. 
Điều 3: Du lịch, một nhân tố của phát 
triển bền vững, gồm 5 Khoản với những ý 
nghĩa cốt lõi như: Tất cả các thành phần 
tham gia vào du lịch nên bảo vệ môi 
trường tự nhiên, phát triển kinh tế liên tục 
và bền vững cho hiện tại và tương lai; 
Phát triển du lịch cần giữ gìn nguồn lợi 
quý, hiếm, nước và năng lượng, tránh sản 
sinh chất thải; Giảm áp lực các hoạt động 
du lịch đối với môi trường và làm lợi cho 
kinh tế địa phương; Cần bảo vệ di sản tự 
nhiên, hệ sinh thái và đa dạng sinh học, 
bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
109 
Giới hạn các hoạt động ở vùng nhạy cảm: 
sa mạc, núi cao, ven biển, rừng nhiệt đới, 
đất ngập nước,; Du lịch tự nhiên và sinh 
thái như một thực thể có ích, làm giàu và 
bền vững cho du lịch. tôn trọng di sản tự 
nhiên, cộng đồng địa phương và giữ lấy 
sức tải của khu vực. 
Điều 4: Du lịch, hoạt động khai thác 
những di sản văn hóa của nhân loại và 
đóng góp để hoàn thiện và phát triển 
chúng, gồm 4 Khoản với ý nghĩa cốt lõi 
như sau: Những đối tượng khai thác của 
du lịch đều thuộc về những di sản chung 
của nhân loại và cộng đồng sống trong 
các khu vực có các di sản này có quyền lợi 
và nghĩa vụ đối gắn liền với chúng; Các 
chính sách và hoạt động du lịch cần tôn 
trọng các giá trị về thẩm mỹ, khảo cổ và 
văn hóa của các di sản, phải được bảo vệ 
và truyền bá lại cho thế hệ tương lai, phải 
bảo tồn và nâng cấp các di sản; Nguồn thu 
từ hoạt động tham quan di sản nên trích ra 
ít nhất một phần để bảo tồn, bảo vệ và 
phát triển di sản; Du lịch lập kế hoạch 
giúp sản phẩm truyền thống, sản phẩm thủ 
công mỹ nghệ, các phong tục dân gian 
được bảo tồn và phát huy tránh tình trạng 
làm mai một chúng. 
Điều 5: Du lịch, hoạt động có lợi 
nhuận cho quốc gia và cộng đồng sở tại, 
gồm có 4 Khoản với những ý nghĩa cơ bản 
như: Cộng đồng địa phương nên tham gia 
với cá hoạt động du lịch và chia sẻ quyền 
bình đẳng trong lợi ích kinh tế, xã hội và 
văn hóa khác; Các chính sách du lịch cần 
ứng dụng theo nhiều cách để giúp đỡ, làm 
tăng mức sống của cộng đồng sở tại; Chú ý 
đặc biệt khu vực dễ bị tổn hại và ít có cơ 
hội phát triển; Cần có những công bố về 
quy hoạch du lịch với cư dân địa phương 
cùng với những tác động tích cực và tiêu 
cực của nó và tiến hành đối thoại với cộng 
đồng địa phương. 
Điều 6: Nghĩa vụ của những thành 
phần tham gia vào phát triển du lịch, gồm 
6 Khoản với những nội dung cơ bản như: 
Các nhà làm du lịch có nghĩa vụ cung cấp 
cho du khách mục tiêu và các thông tin 
chân thật về các điểm đến của họ, đảo bảo 
các điều khoản trong hợp đồng về điều kiện 
tự nhiên, giá cả và chất lượng dịch vụ mà 
họ đã cam kết; Các nhà làm du lịch cần 
hợp tác với chính quyền địa phương về an 
ninh, an toàn, ngăn ngừa tai nạn, bảo vệ 
sức khỏe và an toàn thực phẩm. Nếu thiệt 
hại, phải có nghĩa vụ đền bù thỏa đáng 
theo giao kèo; Các nhà làm dịch vụ nên 
đóng góp vào việc đáp ứng văn hóa và tinh 
thần cho du khách; Giúp đỡ du khách hồi 
hương trong những sự cố hoặc tình huống 
đặc biệt; Chính phủ có công dân đi du lịch 
cần thông báo, khuyến cáo những tình 
huống nguy hiểm đến những nơi mà họ 
đến; Cần cung cấp những thông tin chân 
thật, công bằng về các sự kiện và tình trạng 
hoạt động du lịch và cần lên án du lịch với 
mục đích tình dục. 
Những Điều, Khoản của Bộ quy tắc 
ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong du lịch 
phản ánh tính đạo đức trong du lịch của các 
bên có liên quan, từ du khách, cộng đồng 
địa phương, chính quyền sở tại, nhà đầu tư, 
chính phủ có công dân đi du lịch cho đến 
các phương tiện thông tin đại chúng. Mọi 
khuyến cáo đều hướng đến ứng xử đạo đức 
mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia 
vào hoạt động du lịch. Bộ quy tắc trên 
không khuyến khích du lịch vì mục đích 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
110 
tình dục và xem đó là hình thức du lịch đi 
ngược lại mục tiêu của UNWTO và các tổ 
chức khác trên thế giới. 
Có thể thấy rằng, tinh thần của Bộ quy 
tắc ứng xử toàn cầu về Đạo đức trong du 
lịch là một nỗ lực lớn của UNWTO và các 
quốc gia thành viên nhằm hướng đến 
những ứng xử văn minh, đạo đức, chuẩn 
mực có tính phổ quát toàn cầu mà các 
thành phần tham gia vào hoat động du lịch 
được khuyến cáo thực thi. Sau Bộ quy tắc 
này của UNWTO, nhiều quốc gia trên thế 
giới cũng đề ra các nguyên tắc ứng xử 
trong du lịch chẳng hạn như Code of 
Conduct-tourism Australia, Code of ethics 
for travellers, Code of Ethics for Travellers 
and Tour operators, Formulating Shariah 
compliant Ethical code for Tourists in 
Malaysia, 
2.3. Bộ quy tắc ứng xử trong du lịch ở 
Việt Nam 
Thực trạng du lịch Việt Nam hiện nay 
nghèo nàn về sản phẩm du lịch, chất lượng 
phục vụ chưa tốt, sự cạnh tranh không lành 
mạnh trong kinh doanh, tệ nạn chèo kéo 
khách, quy hoạch kém hiệu quả và phát 
triển thiếu đồng bộ, sự ô nhiễm môi trường 
đáng báo động tại các điểm du lịch, sự 
xuống cấp nhanh của nhiều tài nguyên du 
lịch (tự nhiên và nhân văn), tình hình an 
toàn và an ninh cho du khách chưa được 
đảm bảo, công tác quản lý nhà nước về du 
lịch còn nhiều lỏng lẻo, Chúng tôi cho 
rằng, nhiều vấn nạn về du lịch trên có liên 
quan đến đạo đức trong du lịch. Do đó, một 
trọng tâm của hoạt động du lịch là tôn trọng 
sự bình đẳng trong quan hệ giữa người và 
người, cải tạo và xây dựng một xã hội (thế 
giới) tốt đẹp, hữu nghị, Đạo đức trong du 
lịch phản ánh trình độ phát triển du lịch của 
một quốc gia, cộng đồng địa phương. 
Tại Việt Nam, một số địa phương đã 
triển khai bộ quy tắc ứng xử trong hoạt 
động du lịch như Bộ quy tắc ứng xử trong 
hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố 
Đà Nẵng (03-7-2015) [5]; Thành phố Hồ 
Chí Minh với Bộ quy tắc ứng xử cho khách 
du lịch (05-01-2017). Bộ Văn hóa, Thể 
Thao và Du lịch đã ban hành Bộ Quy tắc 
ứng xử Văn minh du lịch (Code of Conduct 
for Tourism civilization, 2017) (02-3-2017, 
Quyết định số 718 - 2017). Đây là những 
bộ quy tắc ứng xử mà các thành phần tham 
gia vào hoạt động du lịch mong đợi, góp 
phần “chuẩn hóa” hoạt động du lịch ở Việt 
Nam. Có thể nói, Bộ quy tắc ứng xử văn 
minh du lịch của Bộ ban hành kịp thời và 
quan tâm đúng mức góp phần tích cực nâng 
tầm phát triển của du lịch Việt Nam, hòa 
chung vào những tiêu chuẩn dịch vụ du lịch 
trong thời kỳ hội nhập quốc tế, thể hiện quy 
tắc ứng xử từ điều 3 đến 11. Những điều, 
khoản cơ bản của bộ quy tắc này: 
Điều 3: Những điều cần là đối với du 
khách, với thông điệp: văn minh, tự trọng, 
trách nhiệm; Điều 4: Những điều cần làm 
đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh du 
lịch, với thông điệp: chuyên nghiệp, thương 
hiệu, chất lượng; Điều 5: Những điều cần 
làm đối với doanh nghiệp lữ hành với 
thông điệp: Chuyên nghiệp, uy tín, chất 
lượng; Điều 6: Những điều cần làm đối với 
hướng dẫn viên du lịch, với thông điệp: 
Chuyên nghiệp, thân thiện, yêu nghề; Điều 
7: Những điều cần làm đối với cơ sở lưu trú 
du lịch với thông điệp: Sạch sẽ, thân thiện, 
đồng bộ, chuyên nghiệp; Điều 8: Những 
điều cần làm đối với đơn vị vận chuyển 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
111 
khách du lịch với thông điệp: An toàn, 
chuyên nghiệp, thân thiện; Điều 9: Những 
điều cần làm đối với nhà hàng, cơ sở cung 
cấp dịch vụ ăn uống với thông điệp: Vệ 
sinh, an toàn, văn minh, chuyên nghiệp; 
Điều 10: Những điều cần làm đối với điểm 
mua sắm phục vụ khách du lịch với thông 
điệp: Uy tín, chất lượng, thân thiện; Điều 
10: Những điều cần làm đối với điểm tham 
quan, điểm du lịch với các thông điệp: Sạch 
sẽ, hấp dẫn, bản sắc, thân thiện; Điều 11: 
Những điều cần làm đối với cộng đồng dân 
cư, với thông điệp: Hiếu khách, thân thiện, 
văn minh. 
Nghiên cứu Bộ quy tắc ứng xử văn 
minh du lịch, chúng tôi thấy các điều, mục, 
khoản ứng xử trên thực chất đề cập đến vấn 
đề đạo đức trong du lịch. Chẳng hạn, Điều 
3 (Những điều cần làm đối với khách du 
lịch), Mục 1 (Nội dung quy tắc ứng xử) có 
đến 20 Khoản, quy định những ứng xử của 
du khách khi du lịch ở Việt Nam. Trong 
thời gian qua, những ứng xử chưa văn minh 
khi du khách đến Việt Nam như không tuân 
thủ pháp luật, về sử dụng trang phục chưa 
lịch sự, thiếu tôn trọng văn hóa, tín ngưỡng, 
phong tục tập quán địa phương, chen lấn, 
xô đẩy, vứt rác bừa bãi, vẽ bậy lên di tích, 
di sản tự nhiên và văn hóa, chọc phá vật 
nuôi, bẻ hoa, bẻ cây cảnh,... rất phổ biến, 
thậm chí dẫn đến xung đột giữa du khách 
với cộng đồng địa phương ở điểm tham 
quan, khu du lịch,... Xin đơn cử thêm Điều 
5 (Những điều cần làm đối với doanh 
nghiệp lữ hành), Mục 1 có đến 16 Khoản, 
quy định ứng xử của doanh nghiệp đối với 
du khách, cơ quan quản lý Nhà nước, cộng 
đồng địa phương, tài nguyên du lịch, với 
đối tác. Chúng ta thấy các phương tiện 
truyền thông đăng tin một số doanh nghiệp 
lữ hành chưa có giấy phép kinh doanh lữ 
hành quốc tế nhưng ngang nhiên tổ chức 
đưa khách Việt Nam ra nước ngoài, thậm 
chí có một số hãng lữ hành đưa khách qua 
Thái Lan rồi bỏ mặc như Công ty Travel 
Life (701 khách), công ty EPAC ở Cần 
Thơ. Đây là hành vi thiếu đạo đức trong 
kinh doanh, không cam kết dịch vụ du lịch 
với du khách và có dấu hiệu lừa đảo. 
Gần đây, bà Lynne Ryan người Úc và 
một số bạn du lịch đến Việt Nam, mua tour 
của Đại lý du lịch Mùa xuân (Spring Travel 
Agency). Đại lý du lịch này quảng cáo trải 
nghiệm tour Hạ Long với dịch vụ cao cấp 
nhưng trên thực tế lại giao cho tàu Hoàng 
Phương 16 với chất lượng thấp thực hiện 
tour cho nhóm khách trên. Nhóm du khách 
Úc rất thất vọng với chuyến đi và bày tỏ sự 
bất bình trên mạng xã hội, họ xem đó là 
“một lời nói dối trắng trợn”. Nhà cung ứng 
dịch vụ du lịch địa phương, cụ thể là Spring 
Travel Agency không cam kết chất lượng 
chuyến đi cho khách, ảnh hưởng đến uy tín 
và hình ảnh du lịch Việt Nam, khiến Tổng 
cục Du lịch Việt Nam phải lên tiếng xin lỗi. 
Trên thực tế, hoạt động du lịch ở Việt Nam 
hiện nay có không ít các nhà cung cấp dịch 
vụ du lịch chưa quan tâm đến đạo đức kinh 
doanh khiến du khách thất vọng mà Spring 
Travel Agency là một trường hợp. 
Theo Hiệp hội Du lịch Châu Á Thái 
Bình Dương – PATA, lượng khách du lịch 
quốc tế trở lại Việt Nam chỉ 6%. Yếu tố 
quan trọng là tôn trọng du khách, không nói 
dối, nâng cao chất lượng,... Ở Thái Lan du 
khách quốc tế trở lại là 87% (VTV1, 18h10 
ngày 13/6/2018). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
112 
Ngoài ra, cộng đồng địa phương với 
văn hóa du lịch chưa cao, các điểm kinh 
doanh du lịch như nhà hàng, khách sạn, 
điểm tham quan du lịch, hướng dẫn viên 
du lịch,... ứng xử thiếu tôn trọng du khách, 
thậm chí là thiếu đạo đức nghề nghiệp, đạo 
đức kinh doanh mà các phương tiện truyền 
thông đưa tin như taxi, xích lô trấn lột du 
khách, tình trạng nói thách trong kinh 
doanh, doanh nghiệp lữ hành bỏ khách, 
không cam kết dịch vụ như đã thỏa thuận. 
Những hệ quả xấu trong ứng xử trên khiến 
khách nước ngoài thất vọng và ít quay trở 
lại Việt Nam dù nước ta có tài nguyên du 
lịch tự nhiên và văn hóa rất đa dạng, 
phong phú. 
3. KẾT LUẬN 
Tổ chức Du lịch Thế giới ngay từ năm 
1999 đã đưa ra Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu 
về Đạo đức trong du lịch, trong đó chỉ ra 
các nguyên tắc cơ bản để hướng dẫn phát 
triển du lịch và được xem như một khung 
tham chiếu cho các bên có liên quan trong 
hoạt động du lịch với mục tiêu giảm thiểu 
các tác động tiêu cực của du lịch đối với 
môi trường, con người và di sản (thiên 
nhiên và văn hóa) trong khi vẫn tối đa hóa 
lợi ích của du lịch trong việc thúc đẩy phát 
triển du lịch bền vững, xóa đói giảm nghèo 
cũng như tăng cường mối quan hệ hữu nghị 
và hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc và 
tôn giáo. Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về 
Đạo đức trong du lịch hướng tới mục tiêu 
tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm 
và phúc lợi cho cộng đồng, hướng tới phát 
triển du lịch có trách nhiệm. 
Bộ quy tắc ứng xử toàn cầu về Đạo 
đức trong du lịch của UNWTO được xem 
như những triết lý phát triển du lịch mà 
chúng ta cần đặc biệt quan tâm, rất cần cho 
ngành du lịch ở bất cứ quốc gia nào. Thêm 
vào đó, Bộ quy tắc ứng xử Văn minh du 
lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
quy định những ứng xử cụ thể của các 
nhóm đối tượng tham gia vào hoạt động du 
lịch sẽ là nền tảng cơ bản phát huy các giá 
trị đạo đức trong thực tiễn hoạt động du 
lịch tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng 
lại ở tính định hướng hành vi, tác dụng của 
Bộ quy tắc ứng xử văn minh du lịch sẽ 
không thực sự đi vào cuộc sống mà cần 
phải tuyên truyền mạnh hơn nữa. Hai bộ 
quy tắc ứng xử trên đây vẫn chưa được lan 
tỏa và thấm nhuần trong bộ phận những 
người tham gia hoạt động du lịch ở nước ta. 
Cần phổ biến sâu rộng nội dung hai bộ quy 
tắc ứng xử này và kết hợp với việc kiểm 
tra, kiểm soát thường xuyên những hành vi 
ứng xử của các bên tham gia hoạt động du 
lịch. Đồng thời cần có biện pháp chế tài 
nghiêm các vi phạm đạo đức trong du lịch. 
Có như vậy, du lịch Việt Nam mới phát 
triển nhanh, bền vững và có trách nhiệm. 
Tổng cục du lịch cùng với các cơ quan 
chức năng nhanh chóng triển khai Bộ quy 
tắc ứng xử văn minh du lịch trong hoạt 
động du lịch và cần sự hỗ trợ rất nhiều từ 
các cơ quan chức năng có liên quan, doanh 
nghiệp du lịch, cộng đồng địa phương và 
du khách. Du lịch Việt Nam ngày càng thể 
hiện thế mạnh không những về mặt kinh tế 
vốn được định hướng là ngành kinh tế mũi 
nhọn (đóng góp GDP ngày càng cao) mà 
còn hiệu quả về mặt quảng bá thiên nhiên, 
đất nước, con người và văn hóa Việt Nam 
ra thế giới. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
113 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2017), Bộ Quy tắc Ứng xử văn minh du lịch. 
[2] David A. Fennel & David C. Malloy (2007), Codes of Ethics in Tourism: Practise, 
Theory, Synthesis, Channel view publications, UK. 
[3] Người đưa tin UNESCO (2016), Những vấn đề xuyên thế kỷ - Phỏng vấn các nhà hoạt 
động hoa học, giáo dục, văn hóa nghệ thuật hàng đầu thế giới, Nxb Thế giới. 
[4] Phan Huy Xu & Võ Văn Thành (2016), Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb Tổng 
hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
[5] Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP. Đà Nẵng (2015), Bộ quy tắc ứng xử trong hoạt 
động du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
[6] Trần Thị Minh Hòa (2013), Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm triển 
khai hoạt động du lịch tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, tập 29, số 3. 
[7] UNWTO (1999), Global Code of Ethics for Tourism, pdf. file. 
[8] UNWTO (2017a), 22
nd
 UNWTO General Assembly in China: a week of important 
achievements,  search on 25
th
 May 2018. 
[9] UNWTO (2017b), Historical decision: approval of the UNWTO Framework 
Convention on Tourism Ethics, 
decision-approval-unwto-framework-convention-tourism-ethics, search on 25
th
 May 2018. 
[10] UNWTO Barometer (2017), Volume 15, January 2017. 
[11] Lý Tùng Hiếu 2018: Giao lưu tiếp biến văn hóa và sự biến đổi văn hóa Việt Nam, bản 
thảo (tác giả cung cấp). 
Ngày nhận bài: 04-6-2018. Ngày biên tập xong: 13-6-2018. Duyệt đăng: 23-7-2018 

File đính kèm:

  • pdfve_dao_duc_trong_hoat_dong_du_lich.pdf