Về chức năng xã hội của Nhà nước cổ truyền trong lịch sử Việt Nam

hà nước ở Việt Nam ra đời từ rất

sớm và gắn liền với sự hình thành quốc

gia, được xây dựng trên cơ sở những quy

luật chung như ở các quốc gia khác trên

thế giới, nhưng đồng thời lại có những

nét riêng biệt, trong điều kiện nền văn

hóa chính trị Việt Nam. Sự ra đời và tồn

tại của Nhà nước cổ truyền Việt Nam

thể hiện ở quyền lực của giai cấp thống

trị nhưng đồng thời cũng thể hiện vai

trò của người dân theo nguyên lý “Mến

người có nhân là dân, mà chở thuyền và

lật thuyền cũng là dân” (1, tr.203).

Nhà nước đầu tiên hình thành trên

đất nước ta là Nhà nước Văn Lang. Nhà

nước này ra đời vào khoảng thời gian

giữa thiên niên kỷ thứ I trước CN trong

những điều kiện kinh tế - xã hội tương

đối phát triển. Các kết quả nghiên cứu

cho biết, từ hàng chục ngàn năm trước

đó, những người nguyên thủy sống trên

vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay

là một trong những cư dân đầu tiên

phát minh ra nghề trồng trọt và chăn

nuôi. Lúc đó, họ quy tụ lại dọc theo các

vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã,

sông Lam để sinh sống bằng nghề nông,

chủ yếu là trồng lúa nước, lấy thóc gạo

làm lương thực chính. Vào thời kỳ đó,

trên cơ sở nghề luyện kim đã tương đối

phát triển, cư dân ở các vùng đất màu

mỡ này đã biết sử dụng các công cụ

bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi cuốc,

liềm,. vào việc trồng trọt. Con người ở

đây cũng đã biết thuần dưỡng trâu bò

làm sức kéo trong sản xuất. Bên cạnh

lúa mùa và lúa chiêm, người ta còn

trồng lúa nếp, trồng các loại cây lấy

quả, lấy củ, trồng dâu nuôi tằm, trồng

bông lấy sợi. Các nghề thủ công như làm

đồ gốm, đúc đồng, kéo tơ dệt lụa, đan

lát, đánh cá, đóng thuyền. ra đời.(*)Sự

gia tăng các sản phẩm trồng trọt, chăn

nuôi và nghề thủ công đã tạo điều kiện

cho việc trao đổi hàng hóa phát triển.

Thoạt đầu mới chỉ là sự trao đổi sản

phẩm trong nội bộ một làng hoặc giữa

làng này với làng khác, sau đó là giữa

các làng xa nhau, giữa vùng này với

vùng khác theo đường bộ, đường sông.

 

pdf 11 trang kimcuc 5080
Bạn đang xem tài liệu "Về chức năng xã hội của Nhà nước cổ truyền trong lịch sử Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về chức năng xã hội của Nhà nước cổ truyền trong lịch sử Việt Nam

Về chức năng xã hội của Nhà nước cổ truyền trong lịch sử Việt Nam
Về CHứC NĂNG Xã HộI CủA 
NHà NƯớC Cổ TRUYềN TRONG LịCH Sử VIệT NAM 
Trần Đức C−ờng (*)
iệt Nam đã trải qua lịch sử hàng 
ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất 
n−ớc độc lập, tự chủ. Trong sự nghiệp vẻ 
vang ấy, Nhà n−ớc đóng vai trò vô cùng 
quan trọng: vừa thực hiện chức năng giai 
cấp vừa thực hiện chức năng xã hội vì lợi 
ích chung của cộng đồng quốc gia, cộng 
đồng dân tộc trong cuộc đấu tranh sinh 
tồn chống giặc ngoại xâm và chống thiên 
tai có thể giáng xuống bất cứ lúc nào. 
Nhà n−ớc ở Việt Nam ra đời từ rất 
sớm và gắn liền với sự hình thành quốc 
gia, đ−ợc xây dựng trên cơ sở những quy 
luật chung nh− ở các quốc gia khác trên 
thế giới, nh−ng đồng thời lại có những 
nét riêng biệt, trong điều kiện nền văn 
hóa chính trị Việt Nam. Sự ra đời và tồn 
tại của Nhà n−ớc cổ truyền Việt Nam 
thể hiện ở quyền lực của giai cấp thống 
trị nh−ng đồng thời cũng thể hiện vai 
trò của ng−ời dân theo nguyên lý “Mến 
ng−ời có nhân là dân, mà chở thuyền và 
lật thuyền cũng là dân” (1, tr.203). 
Nhà n−ớc đầu tiên hình thành trên 
đất n−ớc ta là Nhà n−ớc Văn Lang. Nhà 
n−ớc này ra đời vào khoảng thời gian 
giữa thiên niên kỷ thứ I tr−ớc CN trong 
những điều kiện kinh tế - xã hội t−ơng 
đối phát triển. Các kết quả nghiên cứu 
cho biết, từ hàng chục ngàn năm tr−ớc 
đó, những ng−ời nguyên thủy sống trên 
vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay 
là một trong những c− dân đầu tiên 
phát minh ra nghề trồng trọt và chăn 
nuôi. Lúc đó, họ quy tụ lại dọc theo các 
vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, 
sông Lam để sinh sống bằng nghề nông, 
chủ yếu là trồng lúa n−ớc, lấy thóc gạo 
làm l−ơng thực chính. Vào thời kỳ đó, 
trên cơ sở nghề luyện kim đã t−ơng đối 
phát triển, c− dân ở các vùng đất màu 
mỡ này đã biết sử dụng các công cụ 
bằng đồng nh− l−ỡi cày, l−ỡi cuốc, 
liềm,... vào việc trồng trọt. Con ng−ời ở 
đây cũng đã biết thuần d−ỡng trâu bò 
làm sức kéo trong sản xuất. Bên cạnh 
lúa mùa và lúa chiêm, ng−ời ta còn 
trồng lúa nếp, trồng các loại cây lấy 
quả, lấy củ, trồng dâu nuôi tằm, trồng 
bông lấy sợi. Các nghề thủ công nh− làm 
đồ gốm, đúc đồng, kéo tơ dệt lụa, đan 
lát, đánh cá, đóng thuyền... ra đời.(*)Sự 
gia tăng các sản phẩm trồng trọt, chăn 
nuôi và nghề thủ công đã tạo điều kiện 
cho việc trao đổi hàng hóa phát triển. 
Thoạt đầu mới chỉ là sự trao đổi sản 
phẩm trong nội bộ một làng hoặc giữa 
làng này với làng khác, sau đó là giữa 
các làng xa nhau, giữa vùng này với 
vùng khác theo đ−ờng bộ, đ−ờng sông. 
(*) PGS.TS., Viện Sử học. 
V 
4 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2010 
Kinh tế phát triển, từ lao động sản 
xuất đã bắt đầu có những sản phẩm 
“thừa” dẫn tới sự phân hóa xã hội ngay 
trong các công xã nông thôn. Tr−ớc hết là 
tầng lớp quý tộc, vốn là những quý tộc bộ 
lạc, do biết lợi dụng địa vị và chức năng 
của mình để chiếm các sản phẩm “thừa”, 
sản phẩm “thặng d−” làm của riêng. Kế 
đó là các thành viên công xã, là tầng lớp 
đông đảo nhất, đ−ợc phân phối ruộng đất 
và tham gia vào việc sản xuất chung trên 
ruộng đất của công xã. Ngoài ra, còn có 
các “thần bộc”, “xảo xứng”, là tôi tớ trong 
các gia đình quý tộc. 
Với các điều kiện kinh tế - xã hội 
nh− vậy, đặc biệt sự hình thành hai 
tầng lớp cơ bản là tầng lớp thống trị và 
tầng lớp bị trị đã dẫn đến sự ra đời của 
Nhà n−ớc đầu tiên trên đất n−ớc ta. 
Theo sách Việt sử l−ợc, bộ sử viết từ thế 
kỷ XIV thì từ khoảng thế kỷ VII tr−ớc 
CN là thời kỳ Nhà n−ớc Văn Lang ra đời 
trong điều kiện tình hình phân hóa giai 
cấp ch−a thật sâu sắc. Tuy vậy, Nhà 
n−ớc đã đảm đ−ơng chức năng thống trị 
và chống giặc ngoại xâm cùng với chức 
năng xây dựng các công trình thủy lợi. 
Tiếp đó, phát triển hơn một b−ớc, từ 
năm 221 đến năm 179 tr−ớc CN là thời 
kỳ Nhà n−ớc Âu Lạc. 
Về thời kỳ Nhà n−ớc Văn Lang và 
Nhà n−ớc Âu Lạc, có vấn đề về mối 
quan hệ giữa tổ chức nhà n−ớc trung 
−ơng với các công xã nông thôn, đơn vị 
nhỏ nhất lúc đó. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, các công xã đều đ−ợc tự trị, nh−ng 
phải phục tùng tuyệt đối Nhà n−ớc. 
Phải làm các nghĩa vụ cống nạp cũng 
nh− cung cấp nhân lực cho Nhà n−ớc 
khi phải chống giặc ngoại xâm hay khi 
có các việc xây dựng nặng nhọc hoặc 
chống thiên tai, bão, lụt,... 
Sự ra đời của Nhà n−ớc Văn Lang và 
Âu Lạc đã tạo nên một nền tảng bền 
vững cho quá trình bảo tồn và phát triển 
của quốc gia dân tộc Việt Nam. Điều đó 
lý giải nguyên nhân vì sao mà sau đó, 
trong suốt quá trình hàng ngàn năm bị 
phong kiến ph−ơng Bắc xâm l−ợc và thôn 
tính, đất n−ớc bị sáp nhập vào lãnh thổ 
Trung Quốc và phải chịu sự c−ỡng chế, 
đồng hóa về văn hóa nh−ng nhân dân ta 
vẫn liên tiếp nổi dậy, đấu tranh chống 
xâm l−ợc, bảo tồn nền văn hóa của riêng 
mình với ý thức quốc gia, dân tộc mạnh 
mẽ và ý chí xây dựng nhà n−ớc độc lập 
vô cùng mãnh liệt. 
Rơi vào ách đô hộ của các triều đại 
thống trị ph−ơng Bắc, tr−ớc hết là n−ớc 
Nam Việt của Triệu Đà năm 179 tr−ớc 
CN, tiếp theo đó là của các triều đại 
phong kiến kế theo nhau ở Trung Quốc, 
n−ớc Âu Lạc bị chia thành quận, huyện. 
Bộ máy Nhà n−ớc Âu Lạc bị xóa bỏ, 
thay vào đó là chính quyền đô hộ do 
Thứ sử, hoặc quan đô hộ đứng đầu. ở 
các quận, huyện, có các viên quan Thái 
thú và Huyện lệnh đứng đầu. Giúp việc 
cho các viên quan cai trị có các cơ quan 
thu thuế, thu phú cống, bắt s−u dịch,... 
Bọn xâm l−ợc cũng thành lập quân đội 
để bảo vệ chính quyền đô hộ, đàn áp sự 
nổi dậy của nhân dân ta,... 
Xu h−ớng chung là bộ máy chính 
quyền đô hộ ngày càng đ−ợc củng cố, 
tăng c−ờng và tổ chức chặt chẽ hơn. 
Chính quyền đô hộ cho du nhập một số 
thành tựu của văn hóa Trung Hoa nh− 
Nho giáo, chữ Hán,... để làm công cụ 
thống trị và đồng hóa nhân dân ta. 
Song, với sức sống mạnh mẽ và tinh 
thần yêu n−ớc nồng nàn, khát vọng độc 
lập, tự chủ mãnh liệt của mình, nhân 
dân ta, hết thế hệ này đến thế hệ khác 
đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên c−ờng, 
anh dũng, đầy hy sinh, gian khổ trong 
hơn 10 thế kỷ liền chống lại kẻ thù và 
lập nên chính quyền nhà n−ớc của riêng 
Về chức năng xã hội... 5 
mình. Đó tr−ớc tiên là cuộc khởi nghĩa 
của Hai Bà Tr−ng, sau khi thắng lợi, 
Tr−ng Trắc đ−ợc suy tôn lên làm vua, 
đóng đô ở Mê Linh (năm 40-43). Dù thời 
gian tồn tại ngắn ngủi, chính quyền 
Tr−ng V−ơng ch−a có điều kiện xây 
dựng một cách có hệ thống mà chủ yếu 
dựa vào các Lạc t−ớng để cai quản nhân 
dân, nh−ng việc làm có ý nghĩa của 
chính quyền độc lập, tự chủ của Tr−ng 
Nữ v−ơng là quyết định giảm thuế hai 
năm liền cho nhân dân hai quận Giao 
Chỉ và Cửu Chân. 
Những thắng lợi ban đầu của cuộc 
khởi nghĩa Lý Bí đã dẫn tới việc tháng 
2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tự x−ng 
là Nam Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên 
Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (tồn tại 
từ năm 544 đến năm 602) nhằm khẳng 
định niềm tự tôn dân tộc, mong muốn 
đất n−ớc đ−ợc mãi mãi vững bền, mãi 
mãi thanh xuân. Lý Nam Đế đặt kinh 
đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), cho 
dựng điện Vạn Thọ là nơi vua quan họp 
bàn việc n−ớc, lập triều đình gồm hai 
ban văn – võ; cho đúc tiền “Thiên Đức 
thông bảo” l−u hành trong n−ớc. 
Sau khi Lý Bí mất (ngày 13/4/548), 
Triệu Quang Phục nối tiếp sự nghiệp 
của vua Lý Nam Đế. Ông lên làm vua, 
lấy niên hiệu là Triệu Việt V−ơng cho 
đến năm 571 khi Lý Phật Tử đoạt đ−ợc 
toàn bộ quyền hành và tự x−ng là Nam 
Đế (Hậu Lý Nam Đế). Nh−ng không bao 
lâu sau, năm 602, nhà Tùy đ−a quân 
sang xâm l−ợc n−ớc ta, cuộc kháng 
chiến chống xâm l−ợc Tùy do Lý Phật 
Tử tổ chức thất bại. Nhà n−ớc Vạn Xuân 
sụp đổ. Đất n−ớc rơi vào ách thống trị 
của nhà Tùy. 
Thời gian nhà Tùy – Đ−ờng đô hộ 
n−ớc ta, nhân dân ta tiếp tục đứng lên 
chống lại ách thống trị ngoại bang, 
giành quyền độc lập, tự chủ cho đất 
n−ớc. Tiêu biểu nh− cuộc khởi nghĩa của 
Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (năm 687), 
Mai Thúc Loan (năm 722), Phùng H−ng 
(766-779), D−ơng Thanh (819-820),... 
Điểm nổi bật là, ở một số cuộc khởi 
nghĩa quy mô lớn, khi có điều kiện các 
thủ lĩnh hoặc tự mình hoặc đ−ợc nhân 
dân suy tôn làm vua. Điều đó nói lên ý 
chí độc lập, tự chủ mạnh mẽ của nhân 
dân ta lúc đó. 
Sự kiện quan trọng trong quá trình 
giành độc lập của nhân dân ta là việc 
Khúc Thừa Dụ “dấy nghiệp”, giành 
quyền tự chủ năm 905. Lãnh đạo nhân 
dân ta nổi dậy chiếm đóng phủ thành 
Tống Bình, tự x−ng là Tiết độ sứ - một 
chức vụ do nhà Đ−ờng đặt ra để cai trị 
nhân dân ta – Khúc Thừa Dụ đã b−ớc 
đầu khéo léo lợi dụng bộ máy chính 
quyền đô hộ cũ nhằm thực hiện ý đồ 
chuyển sang giành quyền độc lập, tự 
chủ một cách thực chất và vững chắc. 
Sau khi Khúc Thừa Dụ mất, Khúc 
Hạo tiếp tục phát huy ý chí tự lập tự 
c−ờng, chăm lo xây dựng nền tảng độc 
lập, tự chủ của dân tộc. Ông đã tiến 
hành cải cách bộ máy hành chính, tích 
cực xây dựng một chính quyền độc lập 
từ Trung −ơng đến cấp xã, vừa làm công 
việc cai trị vừa thực hiện chức năng xã 
hội. Ông chia n−ớc thành các đơn vị 
hành chính là lộ, phủ, châu, giáp, xã. 
Ph−ơng châm cải cách của ông mang sắc 
thái “thân dân” rõ rệt khiến bộ máy nhà 
n−ớc gần gũi chứ không quá cách bức 
với nhân dân, là biểu hiện của một quan 
niệm văn hóa chính trị tiến bộ: “Chính 
trị cốt chuộng khoan dung, giản dị, 
nhân dân đều đ−ợc yên vui” (2, tr.218), 
viết gọn lại là: khoan, giản, an, lạc. Ông 
đã ra lệnh thực hiện bình quân thuế 
ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ khai hộ 
khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho 
giáp tr−ởng trông coi. 
6 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2010 
Công cuộc xây dựng nền tự chủ của 
Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo từ năm 905 
đã thực sự mở ra thời kỳ phát triển độc 
lập của Nhà n−ớc ta mà các triều đại kế 
tiếp sẽ hoàn thành. Vì vậy, việc lấy chiến 
thắng Bạch Đằng năm 938 làm mốc mở 
đầu nền độc lập của n−ớc ta mang nhiều 
ý nghĩa t−ợng tr−ng. Thực tế cho thấy 
chiến thắng quân sự vĩ đại ấy là hệ quả 
của các yếu tố văn hóa – chính trị của 
dân tộc ta đ−ợc phát triển từ tr−ớc đó, 
gần nhất là từ việc “Họ Khúc dấy 
nghiệp” mà chúng ta đề cập ở trên. 
Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán 
ra khỏi bờ cõi, năm 939 Ngô Quyền 
x−ng v−ơng, đóng đô ở Cổ Loa để tỏ ý 
nối tiếp quốc thống x−a của An D−ơng 
V−ơng. Ông bắt tay vào việc xây dựng 
một chính quyền Trung −ơng độc lập, 
đặt ra các chức quan văn – võ, quy định 
các lễ nghi trong triều và màu sắc trang 
phục của quan lại các cấp. 
Từ sau khi Ngô Quyền lên ngôi vua 
cho đến năm 1400, có 5 triều đại kế tiếp 
nhau nắm quyền thống trị đất n−ớc Đại 
Việt: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. D−ới 
các triều đại này, nhà n−ớc đ−ợc xây 
dựng ngày càng vững mạnh. Đó là 
những nhà n−ớc độc lập của một quốc 
gia có chủ quyền và luôn luôn sẵn sàng 
bảo vệ chủ quyền đã giành đ−ợc. Các 
chiến công lừng lẫy chống quân Nam 
Hán năm 938, chống Tống năm 981 và 
ba lần chống Mông – Nguyên vào các 
năm 1258, 1285 và 1288 đã nói lên điều 
ấy. Bộ máy nhà n−ớc thời Ngô, Đinh, 
Tiền Lê dẫu còn đơn giản, các hoạt động 
của nhà n−ớc ch−a đ−ợc thể chế hóa, 
việc lựa chọn quan lại ch−a có chế độ rõ 
ràng nh−ng đã là nền tảng, là cơ sở cho 
sự phát triển hoàn chỉnh của bộ máy 
nhà n−ớc ở các thời kỳ tiếp theo. 
Từ thời Lý – Trần, Nhà n−ớc cổ 
truyền Việt Nam đ−ợc xây dựng hoàn 
chỉnh và ngày càng có quy củ. Lúc này, 
Hoàng đế n−ớc Đại Việt đóng đô ở 
Thăng Long, nơi đ−ợc Lý Thái Tổ coi là 
“ở vào nơi trung tâm trời đất, có thế 
rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc 
Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau 
tr−ớc, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao 
mà sáng sủa, dân c− không khổ vì ngập 
lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, 
xem khắp n−ớc Việt, chỉ nơi này là 
thắng địa” (3). Lúc này, nhà vua nắm 
trong tay mọi quyền hành chính trị, 
quân sự, kinh tế, ngoại giao... và luôn có 
một hệ thống đại thần giúp việc, gắn với 
các làng xã, với ng−ời dân. Đứng đầu 
các quan đại thần có Thái úy (thời Lý) 
hay T−ớng quốc (thời Trần). Bên d−ới 
các đại thần có ty Hành khiển gồm các 
chức quan làm việc ở các sảnh nh− 
Trung th− sảnh, Môn hạ sảnh,... Các 
chức quan này chịu trách nhiệm chỉ đạo 
việc thực hiện các đạo sắc, dụ của nhà 
vua. Từ thời Lý, đã có cơ quan chuyên lo 
xử án, giám sát hình ngục. Đó là cơ 
quan bộ Hình và Thẩm hình viện. Đôi 
khi, nhà vua cũng trực tiếp xét xử 
những vụ kiện cáo trong dân. Ví nh− 
tháng 7/1065, vua Lý ra điện Thiên 
Thánh để xét kiện. Mỗi khi có dịp lễ hội, 
cầu đảo thời tiết thay đổi, hoặc khi mới 
lên ngôi, nhà vua ra lệnh chẩn tế, giảm 
niên hạn hay tha bớt tù 
Để tạo sự gần gũi giữa triều đình 
với ng−ời dân, vào thời Lý Anh Tông, 
triều đình có đặt hòm bằng đồng để thu 
nhận th− ban. Thời Trần, sứ giả nhà 
Nguyên đến n−ớc ta vào đầu năm 1293 
có viết trong cuốn An Nam tức sự nh− 
sau: “Trong n−ớc có một cái lầu, trong 
đặt quả chuông lớn, dân chúng có ai kêu 
ca, tố cáo việc gì thì đến đánh vào 
chuông” (4, tr.189). 
Thời Lý – Trần, cả n−ớc chia thành 
các lộ (thời Lý có 24 lộ, thời Trần có 12 
Về chức năng xã hội... 7 
lộ), do các An phủ sứ đứng đầu. D−ới lộ 
có phủ, huyện, châu do các tri huyện, tri 
châu cai quản. Đơn vị hành chính thấp 
nhất là xã, đứng đầu là các đại, tiểu t− 
xã cùng một số quan phụ trách các lĩnh 
vực an ninh, thuế khóa. 
Nhà n−ớc Lý – Trần đặc biệt quan 
tâm đến sản xuất, tr−ớc hết là sản xuất 
nông nghiệp và đời sống nhân dân. 
Triều đình cho thành lập Ty khuyến 
nông trong đó có 2 chức quan: Hà đê sứ 
và Đồn điền sứ. Pháp luật thời Lý – 
Trần đều rất chú trọng bảo vệ sản xuất 
nông nghiệp, nh− có những điều khoản 
về việc bảo vệ trâu bò và các công trình 
thủy lợi, chăm lo việc sản xuất của nhân 
dân. Luật cũng coi việc xây dựng và sửa 
chữa đê điều là công việc của toàn dân, 
kể cả triều đình. Vào tháng 6, tháng 7 
hàng năm, các quan Hà đê sứ phải 
trông coi cẩn thận: “Nếu biếng nhác 
không làm tròn nhiệm vụ đến nỗi dân 
c− trôi dạt, lúa má bị ngập sẽ tùy tội 
nặng nhẹ mà khiếu phạt” (5). 
Với những điều nêu trên, chức năng 
xã hội của tổ chức nhà n−ớc đ−ợc thể 
hiện rõ rệt. 
Nh− vậy, bắt đầu từ thời Lý, ngoài 
chức năng quân sự, chức năng tài chính 
và chức năng quản lý công cộng, nhà 
n−ớc còn tích cực thực hiện các chức 
năng kinh tế và chức năng văn hóa- xã 
hội. Chức năng kinh tế thể hiện trong 
việc quan tâm đến phát triển nông 
nghiệp, việc vua cày ruộng tịch điền, 
làm luật về bảo vệ trâu bò, mùa màng, 
việc sử dụng và giải quyết khi có tranh 
chấp đất đai, còn chức năng văn hóa 
– xã hội thể hiện qua việc xây dựng 
chùa chiền và các công trình văn hóa 
lớn nh− tháp, đền đài, việc cứu tế cho 
nhân dân bị thiên tai tàn phá... Trong 
thời kỳ này, công cuộc khẩn hoang và 
xây dựng các công trình thủy lợi đ−ợc 
tiến hành với quy mô lớn. Cùng với việc 
mở rộng vùng c− trú ra khắp đồng bằng 
châu thổ sông Hồng, nhà n−ớc đã rất 
chú ý đến công tác đắp đê, đào kênh, 
khơi máng. Năm 1077, nhà Lý cho đắp 
đê sông Nh− Nguyệt dài 67.380 bộ. 
Năm 1103, Vua xuống chiếu cho dân 
trong và ngoài kinh thành đến đắp đê 
ngăn n−ớc (theo 6, tr.112). Nhà n−ớc 
cũng cho đắp đê Cơ Xá chạy dọc Yên 
Phụ đến L−ơng Yên. 
Đến đời Trần, để thực thi chức năng 
xã hội quan trọng là xây dựng và quản 
lý đê điều, thủy lợi và mở mang công 
cuộc khẩn hoang, phát triển nông 
nghiệp, triều đình đặt chức Hà đê sứ và 
Đồn điền sứ. Hệ thống chuyên trách này 
đến đời Lê phát triển tới tận xã. ở mỗi 
xã có ng−ời chuyên trách về thủy lợi v ... ộng đất, củng cố hệ 
t− t−ởng thống trị đ−ơng thời mà hạt 
nhân là Nho giáo còn có nguyên tắc 
mang tính xã hội và mang tính nhân 
đạo. Nguyên tắc này đ−ợc thể hiện ở 
chính sách xử lý nhân đạo với một số 
ng−ời phạm tội nhất định, nh− phụ nữ, 
ng−ời già, ng−ời tàn tật, trẻ em,... Đó là 
các điều 1, điều 16, 17, 18, 19. Theo điều 
16 thì: “Những ng−ời từ 70 tuổi trở lên, 15 
tuổi trở xuống cùng những ng−ời bị phế 
tật, phạm tội từ l−u trở xuống đều cho 
chuộc bằng tiền... Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi 
trở xuống dù có bị tội chết cũng không 
hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt 
tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộm có tang vật 
thì kẻ nào chứa chấp tang vật ấy phải bồi 
th−ờng. Nếu ai xét ra tình trạng đáng 
th−ơng, hay tài năng đáng tiếc thì đặc 
cách cho đ−ợc khỏi phải thích mặt”. Điều 
17 quy định: “Khi phạm tội ch−a già cả 
tàn tật, đến khi già cả tàn tật mới phát 
giác, thì xử tội theo luật già cả tàn tật. 
Khi ở nơi bị đồ mà già cả tàn tật, thì cũng 
thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội, đến khi lớn 
mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn 
nhỏ” (9, tr.40,41). 
Những điều luật theo nguyên tắc 
mang tính đạo đức, cũng nh− một số 
điều bảo hộ cho những quyền t− hữu 
hợp pháp, quyền “con cái đ−ợc phép ra ở 
riêng trong khi cha mẹ còn sống” thể 
hiện nét riêng biệt của n−ớc Việt Nam 
truyền thống khác với nền văn minh 
Đông á gần gũi nh− Trung Quốc, Nhật 
Bản, Triều Tiên cùng chịu ảnh h−ởng 
của Nho giáo. Truyền thống văn hóa 
chính trị ấy, chính là “phong tục cổ Việt 
Nam”, nó mang tính truyền thống mà 
ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Samuel 
Baron đã mô tả là: Các vua Việt Nam 
“rất tôn sùng các luật lệ cũng nh− phong 
tục cổ và đã ứng xử hành động theo 
đúng tinh thần đó” (theo 10, tr.94-95). 
Khi nghiên cứu về những nét đặc 
tr−ng của bộ Luật hình triều Lê, nhiều 
tác giả n−ớc ngoài đã đánh giá rất cao 
về trình độ văn minh mà dân tộc Việt 
Nam đã đạt đ−ợc vào khoảng thời gian 
này trong mối t−ơng quan với các quốc 
gia khác lúc đó. Oliver Oldman, Chủ 
nhiệm khoa á Đông Tr−ờng Đại học 
Harvard cho rằng: “Chúng ta cũng thấy 
trong nhiều thế kỷ đã qua, sự cố gắng 
của n−ớc Việt Nam thời Lê, một sự nỗ 
lực th−ờng xuyên đối với việc xây dựng 
một nhà n−ớc dân tộc mạnh và bảo hộ 
cho những quyền t− hữu hợp pháp tiến 
bộ với nhiều sự t−ơng đ−ơng về chức 
10 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2010 
năng so với những quan niệm pháp luật 
ph−ơng Tây cận đại” (9, tr.19). 
Trong việc xây dựng nhà n−ớc, thời 
Lê cũng có những biểu hiện đặc biệt, 
mang những yếu tố truyền thống trong 
việc thực hiện chức năng xã hội của 
chính quyền cai trị. Mặc dù không đề 
cao nguyên tắc “thân dân” nh− các triều 
đại tr−ớc, và đặt nhiệm vụ xây dựng 
một nhà n−ớc trung −ơng tập quyền 
mạnh thể hiện trong câu nói của các sử 
gia bàn về Lê Thái Tổ “định luật lệ, chế 
lễ nhạc,... đặt quan chức, lập phủ 
huyện” (11, tr.77), thì các vị vua của 
v−ơng triều Lê sơ cũng rất thấm nhuần 
nguyên tắc củng cố quyền lực của chế 
độ, tr−ớc hết phải chăm lo đến cái gốc 
của n−ớc là dân chúng. Đó chính là 
truyền thống dân bản, an dân của các 
nhà n−ớc cổ truyền Việt Nam với chức 
năng xã hội đi cùng với chức năng cai 
trị. Vua Lê Thánh Tông cho rằng, chức 
năng của nhà n−ớc là phải “trọng lễ 
nghĩa, khuyến nông tang: lễ nghĩa để 
sửa tốt lòng dân, nông tang để đủ cơm 
áo, hai việc cần kíp ấy của chính sự, là 
chức trách của các thú mục” (11, tr.292). 
Còn vua Lê Nhân Tông thì từng quan 
niệm “th−ơng ng−ời làm ruộng, yêu nuôi 
nhân dân” (11, tr.133). 
Lê Thánh Tông cũng khẳng định 
trách nhiệm của ng−ời đứng đầu nhà 
n−ớc, các “đạo lớn đế v−ơng” là “th−ơng 
yêu dân chúng kính trời xanh” (12), là 
luôn “làm chủ muôn dân, muốn cho đều 
đ−ợc giàu đủ, mạnh khỏe để đến thịnh 
trị” (11, tr.200). Những biện pháp thể 
hiện chính sách nhân bản của Nhà n−ớc 
thời Lê thể hiện cụ thể qua việc chăm 
lo, ổn định đời sống nhân dân, chủ yếu 
về mặt kinh tế, “khuyến khích nông 
tang”, ban hành phép quân điền chia 
ruộng công cho làng xã, đào kênh sông 
dẫn n−ớc, tổ chức cầu đảo khi hạn hán, 
sâu bệnh, đại xá, miễn thuế khi mất 
mùa,... Hoặc trong việc xử án, Nhà n−ớc 
quy định “phải có quan Đại lý tự cho 
ng−ời tù kêu oan, để tiện việc bẻ bác” 
(11, tr.217). Đây là những điểm tiến bộ 
của pháp luật và nguyên tắc thi hành 
pháp luật của Nhà n−ớc thời Lê. 
Thời Lê, Nhà n−ớc thực hiện nhiều 
biện pháp nhằm phát triển kinh tế, 
tr−ớc hết là kinh tế nông nghiệp nh− mở 
mang việc khai hoang, chăm lo đắp đê, 
bảo vệ mùa màng, tích cực xây dựng các 
công trình thủy lợi, thực hiện chính 
sách “ngụ binh − nông” triệt để hơn. Sự 
quan tâm của Nhà n−ớc thời Lê đối với 
việc phục hồi và phát triển kinh tế một 
mặt xuất phát từ yêu cầu của đất n−ớc 
sau chiến tranh, mặt khác nói lên sự 
quan tâm của chính quyền độc lập đối 
với dân chúng. Sau khi đuổi hết quân 
Minh, giải phóng đất n−ớc, nhà Lê cho 
25 vạn quân giải ngũ về làm ruộng, khôi 
phục sản xuất trên ruộng đất bấy lâu bị 
bỏ hoang vì chiến tranh, đồng thời kêu 
gọi nhân dân phiêu tán trở về quê cũ, 
cùng nhau xây dựng lại xóm làng, quê 
h−ơng. Triều đình giao cho các quan 
phủ, huyện có nhiệm vụ đốc thúc và 
khuyến khích nhân dân khai phá hết 
ruộng đất bỏ hóa, giúp đỡ nhân dân 
trồng trọt và bảo vệ mùa màng. Vua Lê 
Thánh Tông đã từng dụ các quan Thừa 
ty, Hiến ty, Phủ, Huyện nh− sau: “Về 
việc dân sự tầm th−ờng nh− là đại hạn 
mà không đảo, n−ớc lụt mà không khơi, 
việc lợi mà không làm, việc hại mà 
không trừ, có cai dị mà không cầu đảo 
thì phải xử tội l−u”. 
Nhà n−ớc cũng đ−a ra chủ tr−ơng 
khuyến khích và tổ chức cho nhân dân 
khai hoang, mở rộng diện tích canh tác. 
Để giúp cho công cuộc khai hoang, vua 
Lê Thánh Tông cho đắp một hệ thống đê 
biển mang tên đê Hồng Đức. 
Về chức năng xã hội... 11 
Nhà Lê rất chăm lo đến thủy lợi, đê 
điều. ở các phủ thừa tuyên đều có các 
chức Hà đê chuyên chăm lo phối hợp với 
các quan phủ, huyện trông nom và sửa, 
đắp đê điều. 
Pháp luật của nhà Lê có những điều 
khoản thể hiện sự quan tâm rất cụ thể 
đến nông nghiệp và bản thân ng−ời 
nông dân. Nh−, Nhà n−ớc quy định mọi 
công trình xây dựng cần điều động dân 
phu đều phải tránh những khi thời vụ 
cày cấy, gặt mùa: “Hễ công việc gì có hại 
cho nghề nông thì không đ−ợc khinh 
động sức dân”. Để giảm bớt tình trạng 
những kẻ giàu có và quyền thế th−ờng 
chấp chiếm bất hợp pháp ruộng đất của 
những ng−ời nghèo và biến họ thành 
những nông nô hoặc gia nô, Nhà n−ớc 
thời Lê ra đạo luật vào năm 1463 cấm 
các gia đình quyền thế không đ−ợc gây 
chuyện tranh cãi về ruộng đất của nông 
dân nghèo và c−ỡng bức họ phải bán 
ruộng (trích theo 10, tr.39). Để bảo vệ 
sức kéo trong nông nghiệp, năm 1489, 
vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm giết 
trâu bò ban đêm. Tội ăn trộm trâu bò 
trừng phạt rất nặng. 
Cùng với việc phát triển nông 
nghiệp, Nhà n−ớc thời Lê cũng có nhiều 
biện pháp nhằm phát triển công th−ơng 
nghiệp: mở nhiều trung tâm thủ công 
nghiệp, nhiều chợ búa để trao đổi hàng 
hóa, thống nhất tiền tệ và đơn vị đo 
l−ờng. 
Thời kỳ này, Nhà n−ớc rất chú ý 
phát triển văn hóa, nghệ thuật, sử học, 
giáo dục. Trên cơ sở tiếp tục phát huy 
những thành tựu giáo dục của các triều 
đại tr−ớc, nhà Lê quyết định biến chế độ 
khoa cử thành ph−ơng thức chính tuyển 
lựa quan lại và nh− vậy, cũng nh− ở 
triều đại tr−ớc, không chỉ có con nhà 
dòng dõi, quý tộc mà cả con nhà bình 
dân cũng có điều kiện học hành và thi 
cử, đỗ đạt để làm quan. Nhà sử học 
Phan Huy Chú cho biết: “Quan trong ở 
Đài, Viện, quan ngoài ở địa ph−ơng hồi 
ấy, đều dùng ng−ời đỗ Tiến sĩ”, “Đến 
nh− ng−ời ứng vụ các vệ, thuộc lại các 
nha đều lấy ng−ời trúng tr−ờng ra làm 
quan” và “Lê Thánh Tông, năm Thiệu 
Bình thứ 4 (1437), thi viết và thi tính, 
lấy đỗ 290 ng−ời bổ làm thuộc lại các 
nha môn trong ngoài (Phép thi: tr−ờng 
thứ nhất viết cổ văn, tr−ờng thứ nhì viết 
chữ Chân và chữ Thảo, tr−ờng thứ ba 
thi làm tính)” (13, T.I, tr.566). 
Do chú ý phát triển văn hóa, giáo 
dục, tuyên d−ơng những ng−ời tài cao, 
học rộng, Nhà n−ớc thời Lê đặt ra lễ 
x−ớng danh, lễ vinh quy và khắc tên tuổi 
những ng−ời đỗ Tiến sĩ trên bia đá dựng 
ở Văn Miếu. Những biện pháp trên đã 
thu hút đ−ợc sự tham gia của đông đảo 
các tầng lớp trong xã hội vào việc phát 
triển giáo dục. Theo sử cũ, khoa thi Hội 
năm 1463 có 1.400 thí sinh, năm 1514 có 
tới 5.700 thí sinh. Chỉ tính riêng 38 năm 
d−ới thời Lê Thánh Tông, Nhà n−ớc đã 
mở 12 khoa thi Hội, lấy đỗ 501 Tiến sĩ, 
trong đó có 9 Trạng nguyên. 
Nhà sử học Phan Huy Chú từng 
nhận xét: “Khoa cử các đời, thịnh nhất 
là đời Hồng Đức (1470-1497). Cách lấy đỗ 
rộng rãi, cách chọn ng−ời công bằng, đời 
sau càng không thể theo kịp... Trong n−ớc 
không để sót nhân tài, triều đình không 
dùng lầm ng−ời kém” (13, T.III, tr.12). 
Văn hóa khoa cử các đời, thịnh nhất là 
đời Hồng Đức (1470-1497). Giáo dục phát 
triển đã tạo điều kiện cho đất n−ớc xuất 
hiện nhiều tên tuổi làm vẻ vang cho nền 
văn hóa dân tộc nh− Nguyễn Trãi, Lý Tử 
Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Trực, 
Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, 
L−ơng Thế Vinh... 
12 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2010 
Nh−ng nhà Lê cũng chỉ h−ng thịnh 
đ−ợc đến thế kỷ thứ XVI thì suy vi. 
N−ớc ta rơi vào tình trạng cát cứ và 
chiến tranh liên miên. Tình trạng đó đã 
dẫn đến việc triều đại Tây Sơn đ−ợc 
thành lập sau khi phong trào nông dân 
Tây Sơn bùng nổ và giành thắng lợi, 
ng−ời anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ 
lãnh đạo nhân dân ta đánh đổ các thế 
lực phong kiến cát cứ và nhất là đánh 
bại các cuộc xâm l−ợc của quân Xiêm và 
quân Thanh, mở đầu cho việc thống 
nhất đất n−ớc sẽ đ−ợc hoàn thành vào 
thời kỳ sau đó. 
Song, triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại 
trong thời gian ngắn (từ năm 1789 đến 
năm 1802) rồi bị thế lực Nguyễn đánh 
bại. Tuy vậy, Nhà n−ớc Tây Sơn cũng có 
những đóng góp nhất định về pháp luật 
trong việc xây dựng đất n−ớc. Điều đó thể 
hiện trong các văn bản nh− Chiếu lên 
ngôi của Hoàng đế Quang Trung (1789), 
Chiếu cầu hiền, Chiếu khuyến nông nhằm 
“phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng 
đất bỏ hoang”, Chiếu lập học “khuyến 
khích các xã mở tr−ờng học”. 
Nhà Nguyễn thay nhà Tây Sơn đã 
tích cực xây dựng Nhà n−ớc quân chủ 
chuyên chế một cách quy mô và chặt chẽ 
để bảo vệ quyền lợi của tập đoàn thống 
trị và dòng họ mình. Mọi hoạt động lớn 
nhỏ của quốc gia, trong đối nội và đối 
ngoại đều tập trung vào tay nhà vua. 
Khuynh h−ớng tập trung quyền lực nh− 
vậy đ−ợc thể hiện từ thời Gia Long, ông 
vua đầu tiên của triều Nguyễn, và đặc 
biệt phát triển d−ới thời Minh Mạng. Về 
luật pháp, Nhà n−ớc thời Nguyễn cho 
ban hành bộ Hoàng triều luật lệ (Luật 
Gia Long) gồm 398 điều chia làm 7 
ch−ơng. Bộ luật này không còn mang 
những yếu tố dân tộc, yếu tố nhân bản 
nh− Luật hình triều Lê mà mang nặng 
yếu tố chuyên chế phản ánh ý nguyện 
tăng c−ờng sự thống trị bằng bạo lực 
nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp 
thống trị. Các điều khoản của Hoàng 
triều luật lệ tỏ ra rất hà khắc. Ví nh− 
ch−ơng Hình luật gồm 166 điều, trong 
đó nêu rõ tội chống lại nhà n−ớc bị 
trừng phạt rất nặng, ng−ời phạm tội 
phải xử lăng trì, những ng−ời thân của 
tội phạm gồm ông, cha, con, cháu, anh, 
em từ 16 tuổi trở lên đều bị xử chém, 
ng−ời thân khác bị bắt làm nô tỳ cho các 
nhà quan. 
Nh− vậy, một trong những nội dung 
của văn hóa – chính trị truyền thống 
trong việc xây dựng Nhà n−ớc cổ truyền 
Việt Nam với chức năng xã hội mà chúng 
tôi trình bày ở trên là một nhà n−ớc có 
xu h−ớng gần dân, thân dân mang tính 
dân sinh. Đó là một Nhà n−ớc coi việc 
chăm sóc an sinh xã hội là trách nhiệm 
của riêng mình, coi trách nhiệm của 
ng−ời cầm quyền, của bộ máy cai trị là 
“phải lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, xã 
hội phong hóa tốt đẹp. Dân đói rét, trộm 
cắp, lụt lội ng−ời cầm quyền phải chịu 
trách nhiệm” (14, tr.97). D−ới triều 
Nguyễn, nội dung trên đã bị tính chất 
chuyên chế, hà khắc lấn át. 
Một nội dung của văn hóa chính trị 
truyền thống Việt Nam với chiều cạnh 
xã hội trong quá trình phát triển đất 
n−ớc mà chúng tôi muốn trình bày bên 
cạnh bộ máy nhà n−ớc còn có sự tồn tại 
phổ biến mang tính chất tự trị của công 
xã nông thôn. Trong những công xã đó, 
ng−ời nông dân đã sớm kết hợp ý thức 
bảo vệ xóm làng, quê h−ơng với ý thức 
quốc gia dân tộc rõ nét, gắn liền làng với 
n−ớc. Họ vẫn duy trì bền vững những 
quan hệ cộng đồng chặt chẽ, duy trì tình 
làng, nghĩa xóm, những phong tục tập 
quán, những tín ng−ỡng dân gian do 
cha ông để lại. Đối với các làng xã cổ 
truyền Việt Nam, các tôn giáo và học 
Về chức năng xã hội... 13 
thuyết chính trị - xã hội từ bên ngoài 
nh− Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo muốn 
nhập vào đều phải có sự hòa hợp với 
những tín ng−ỡng dân gian đó. Tất cả, 
dù d−ới dạng thần quyền hay thế 
quyền, đều nhằm phục vụ các nhu cầu 
đời sống vật chất và tinh thần của ng−ời 
dân, cũng nh− phục vụ công cuộc xây 
dựng và bảo vệ đất n−ớc, phục vụ chính 
cuộc sống của ng−ời dân. 
Có thể nói, trong nhiều thế kỷ thuộc 
thời kỳ lịch sử cổ trung đại, nhân dân và 
các tầng lớp thống trị ở n−ớc ta đã có 
nhiều cố gắng trong việc xây dựng một 
nhà n−ớc độc lập, với lòng mong muốn 
đ−a đất n−ớc phát triển, xã hội ngày càng 
ổn định... Từ trong công cuộc xây dựng 
Nhà n−ớc cổ truyền ấy đã biểu hiện một 
nền văn hóa chính trị Việt Nam mà nội 
dung chủ yếu là rất coi trọng độc lập, tự 
chủ, coi trọng mối quan hệ gắn bó giữa lợi 
ích của v−ơng triều với lợi ích chung của 
xã hội thể hiện qua việc coi trọng yếu tố 
ng−ời dân theo nghĩa “khoan th− sức dân 
làm kế sâu rễ bền gốc” và “chúng chí 
thành thành” (ý chí của dân chúng là bức 
thành giữ n−ớc) của Trần Quốc Tuấn, 
hoặc t− t−ởng nhân nghĩa nh− Nguyễn 
Trãi từng viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên 
dân” (1, tr.77). 
Những nội dung vì độc lập của dân 
tộc, vì sự tự chủ của quốc gia và tính chất 
“thân dân” của các v−ơng triều tiến bộ 
trong lịch sử Việt Nam qua việc thực hiện 
các chức năng xã hội của chính quyền là 
di sản quý báu mà các thế hệ tr−ớc đây để 
lại cho chúng ta trong công cuộc xây dựng 
và bảo vệ đất n−ớc hôm nay. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Trãi toàn tập. H.: Khoa học 
xã hội, 1976. 
2. Khâm định Việt sử thông giám 
c−ơng mục (T.I). H.: Giáo dục, 1998. 
3. Chiếu dời đô trong Đại Việt sử ký 
toàn th−, quyển Chi nhị, bản dịch 
năm 1998 của Viện Sử học. 
4. Tr−ơng Hữu Quýnh (chủ biên). Đại 
c−ơng lịch sử Việt Nam (tập I). H.: 
Giáo dục, 1997. 
5. Cao Hùng Tr−ng. An Nam chí 
nguyên. Tạp chí Văn Sử Địa, số 20. 
6. Việt sử l−ợc. H.: Sử học, 1960. 
7. Đại Việt sử ký toàn th− (T.I). H.: 
Khoa học xã hội, 1972. 
8. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến 
ch−ơng loại chí (T.I). H.: Sử học, 
1961. 
9. Quốc triều hình luật (Luật hình 
triều Lê). Bản dịch của Viện Sử học. 
H.: Pháp lý, 1991. 
10. Yu Insun. Luật và xã hội Việt Nam 
thế kỷ XVII – XVIII. H.: Khoa học xã 
hội, 1994. 
11. Đại Việt sử ký toàn th− (T.III). H.: 
Khoa học xã hội, 1972. 
12. Thơ văn Lê Thánh Tông (chủ biên: 
Mai Xuân Hải). H.: Khoa học xã hội, 
1986. 
13. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến 
ch−ơng loại chí (T. I, III). H.: Khoa 
học xã hội, 1992. 
14. Nguyễn Hồng Phong. Văn hóa chính 
trị Việt Nam, truyền thống và hiện 
đại. H.: Văn hóa – Thông tin, 1998.

File đính kèm:

  • pdfve_chuc_nang_xa_hoi_cua_nha_nuoc_co_truyen_trong_lich_su_vie.pdf