Vành đai di sản các phố cổ ven biển Đông Nam Á trong liên kết phát triển du lịch biển đảo

Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, được coi là một trong những tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp nhất thế giới. Các đô thị cổ ven biển Đông Nam Á cũng là những thương cảng: Hội An, Vigan, George Town - Penang, Malacca, Semarang, xứng đáng là những viên ngọc trai bên bờ Biển Đông. Với vẻ đẹp hoài niệm và thanh bình, các đô thị cổ đã tạo nên một vành đai di sản ở Đông Nam Á, vòng tròn phố bao quanh hướng biển, không những có giá trị về hàng hải, du lịch, mà còn là một quỹ bảo tồn văn hóa vô giá, một triển lãm sống về những “ngôi làng thế giới”. Bài viết tiếp cận từ hướng nghiên cứu văn hóa đô thị với phương pháp so sánh xuyên văn hóa, nhằm chỉ ra các phương hướng phát triển du lịch, khảo cổ, thám hiểm thông qua việc nghiên cứu sự nối kết giá trị nền tảng đa văn hóa. Bài viết cũng đề xuất xây dựng một mô hình du lịch biển mới, là sự kết hợp giữa phố - biển - cổ, ba yếu tố đặc thù của vành đai các phố cổ di sản Đông Nam Á.

pdf 12 trang thom 04/01/2024 2040
Bạn đang xem tài liệu "Vành đai di sản các phố cổ ven biển Đông Nam Á trong liên kết phát triển du lịch biển đảo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vành đai di sản các phố cổ ven biển Đông Nam Á trong liên kết phát triển du lịch biển đảo

Vành đai di sản các phố cổ ven biển Đông Nam Á trong liên kết phát triển du lịch biển đảo
57 
CHUYÊN MỤC 
KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC 
VÀNH ĐAI DI SẢN CÁC PHỐ CỔ 
VEN BIỂN ĐÔNG NAM Á TRONG 
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN ĐẢO 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG* 
NGUYỄN ĐÌNH TÌNH** 
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối Thái Bình 
Dương với Ấn Độ Dương, được coi là một trong những tuyến đường vận tải 
quốc tế nhộn nhịp nhất thế giới. Các đô thị cổ ven biển Đông Nam Á cũng là 
những thương cảng: Hội An, Vigan, George Town - Penang, Malacca, 
Semarang, xứng đáng là những viên ngọc trai bên bờ Biển Đông. Với vẻ đẹp 
hoài niệm và thanh bình, các đô thị cổ đã tạo nên một vành đai di sản ở Đông 
Nam Á, vòng tròn phố bao quanh hướng biển, không những có giá trị về hàng 
hải, du lịch, mà còn là một quỹ bảo tồn văn hóa vô giá, một triển lãm sống về 
những “ngôi làng thế giới”. Bài viết tiếp cận từ hướng nghiên cứu văn hóa đô thị 
với phương pháp so sánh xuyên văn hóa, nhằm chỉ ra các phương hướng phát 
triển du lịch, khảo cổ, thám hiểm thông qua việc nghiên cứu sự nối kết giá trị 
nền tảng đa văn hóa. Bài viết cũng đề xuất xây dựng một mô hình du lịch biển 
mới, là sự kết hợp giữa phố - biển - cổ, ba yếu tố đặc thù của vành đai các phố 
cổ di sản Đông Nam Á. 
Từ khóa: phố cảng, hội tụ văn hóa, vành đai di sản, du lịch 
Nhận bài ngày: 22/01/2019; đưa vào biên tập: 28/01/2019; phản biện: 5/02/2019; 
duyệt đăng: 1/3/2019 
1. NHÌN TỪ ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ 
NHIÊN 
Hội An, là đô thị cổ nằm ở hạ lƣu sông 
Thu Bồn, một trong những con sông 
có lƣu vực lớn nhất Việt Nam. Với địa 
thế nơi cửa sông đổ ra Biển Đông, Hội 
An rất kín gió, ít bị tác động bởi các 
điều kiện tự nhiên khác nhƣ sóng, 
thủy triều, và vì vậy tàu thuyền có thể 
tránh bão nơi đây. Mặt khác, điều kiện 
thời tiết khu vực cảng Hội An rất ổn 
*
,
 **
 Trƣờng Đại học Công nghiệp Thực 
phẩm Thành phố Hồ Chí Minh. 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
58 
định bởi sự kết hợp khí hậu vùng 
nhiệt đới ven biển và khí hậu ôn đới 
vùng núi cao, nhiệt độ trung bình năm 
khoảng 25°C, lƣợng mƣa trung bình 
hàng năm đạt khoảng 2.000mm, chia 
thành hai mùa: mùa khô từ tháng 1 
đến tháng 4, từ tháng 5 đến tháng 12 
là mùa mƣa (Vũ Thế Bình, 2016: 587). 
Hội An cũng giống nhƣ các tỉnh duyên 
hải phía Nam Việt Nam những năm 
trƣớc đây ít chịu ảnh hƣởng của bão 
nhiệt đới từ Biển Đông. Nằm trên 
tuyến hàng hải quốc tế quan trọng của 
Biển Đông, từ Hội An tàu thuyền có 
thể đi đến nhiều khu vực khác nhau 
trên thế giới. Nhờ yếu tố vị trí địa lý và 
điều kiện tự nhiên thuận lợi, trong suốt 
thế kỷ XVII và XVIII, Hội An đã trở 
thành thƣơng cảng quốc tế sầm uất, 
nơi gặp gỡ của thuyền buôn các nƣớc 
Châu Á, Châu Âu. 
Vigan, tọa lạc ở bờ biển miền tây 
đảo Luzon, đảo giáp với Biển Đông về 
phía tây, phía đông của đảo là biển 
Philippines, phía bắc là eo biển Luzon. 
Nằm trong vùng biển kín, độ sâu mực 
nƣớc biển trung bình từ 200 - 2000m 
(Nguyễn Quý Thao, 2008: 30) và trên 
tuyến đƣờng thông thƣơng hàng hải 
quốc tế: từ Thái Bình Dƣơng sang Ấn 
Độ Dƣơng, từ các quốc gia Đông Á 
đến khu vực Đông Nam Á, Nam Á, 
Australia, nên Vigan rất thuận lợi để 
trở thành cảng biển lớn. Khí hậu ở 
đây là kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, 
chịu ảnh hƣởng của gió mùa Tây Nam 
từ tháng 5 đến tháng 10 và gió mùa 
Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4, 
nhiệt độ trung bình năm khoảng từ 
25
0
C - 27
0
C (Bùi Thị Hải Yến, 2013: 
179), những yếu tố này rất thuận lợi 
cho tàu thuyền hoạt động qua khu vực. 
Tuy nhiên, Vigan thỉnh thoảng phải 
đón những trận bão hình thành ngoài 
biển tiến thẳng vào đất liền. Từ những 
lợi thế sẵn có về tự nhiên nên từ thế 
kỷ XVIII, Vigan là phố cảng quan trọng 
đối với thuyền buôn các nƣớc Châu Á 
và các nƣớc Tây Ban Nha, Bồ Đào 
Nha, Pháp, Ý. 
George Town và Melacca là những 
thành phố nằm trên eo biển Malacca, 
Malaysia. Nối Ấn Độ Dƣơng với Thái 
Bình Dƣơng, eo biển Malacca là tuyến 
hải trình ngắn nhất giữa các nƣớc Tây 
Á, Tây Nam Á và Nam Á với các nƣớc 
thuộc vùng Châu Á - Thái Bình Dƣơng. 
Với địa thế nằm giữa bán đảo Mã 
Lai và đảo Sumatra, xung quanh là 
các đảo nhỏ nên George Town và 
Melacca là nơi khá kín gió. Độ sâu 
vùng biển trung bình từ 0 - 200m 
(Nguyễn Quý Thao, 2008: 30), cùng 
với đới khí hậu xích đạo khá điều hòa, 
nhiệt độ trung bình từ 25 - 280C, gió 
mùa Tây Nam thịnh hành từ tháng 4 
đến tháng 10 và gió mùa Đông Bắc từ 
tháng 10 đến tháng 2 năm sau (Bùi 
Thị Hải Yến, 2013: 150, đó là những 
lợi thế để George Town và Melacca 
trở thành thƣơng cảng lớn trong khu 
vực. 
Semarang, nằm trên bờ biển phía bắc 
của đảo Java, Indonesia. Vùng biển 
Semarang rất kín vì đƣợc bao bọc bởi 
các đảo lớn của Indonesia nhƣ: đảo 
Sumatra, đảo Calimantan, và các đảo 
khác. Độ sâu trung bình từ 0 - 200m 
(Nguyễn Quý Thao, 2008: 30), khí hậu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 
59 
xích đạo, nhiệt độ trung bình từ 25°C - 
27°C, lƣợng mƣa trung bình năm từ 
2.000 - 4.000mm, mƣa nhiều từ tháng 
4 đến tháng 10 (Bùi Thị Hải Yến, 2013: 
137) là những yếu tố tự nhiên rất 
thuận lợi để Semarang trở thành hải 
cảng lớn. Semarang là tuyến đƣờng 
biển quan trọng nối các nƣớc Đông Á, 
Đông Nam Á với lục địa Australia. 
Với đặc điểm chung đều là các thƣơng 
cảng có vị trí rất thuận lợi cho thông 
thƣơng đƣờng biển, có lối kiến trúc cổ 
độc đáo mang đậm đặc điểm văn hóa 
của các quốc gia, nằm trong vùng khí 
hậu nhiệt đới ẩm, điều hòa về chế độ 
gió, nhiệt, độ ẩm. vành đai di sản các 
phố cổ ven biển Đông Nam Á sẽ là 
điểm đến hấp dẫn của du khách. 
2. NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VÀ THỜI 
GIAN VĂN HÓA 
Vành đai các phố cổ: Vigan - 
Phillipines, Hội An - Việt Nam, George 
Town - Penang và Malacca (Melaka) - 
Malaysia, Semarang - Indonesia, nối 
kết với nhau bởi ba đặc điểm nổi bật: 
1) Các phố cổ trong vành đai đều là 
các cảng biển, thuận tiện cho tàu 
chiến, thuyền buôn cỡ lớn thả neo, 
trao đổi hàng hóa, tiếp tế thực phẩm. 
Yếu tố cảng biển cũng đóng vai trò 
quan trọng trong việc hình thành các 
cộng đồng dân cƣ. 2) Xuất hiện văn 
minh đô thị phƣơng Tây với đặc tính 
chinh phục, muốn vƣơn đến sự thống 
trị toàn khu vực, phô bày sự thị uy, lấn 
lƣớt các chuẩn mực giá trị của phong 
kiến bản địa theo tƣ tƣởng “khai sáng 
văn minh”. 3) Có sự đa dạng về văn 
hóa. Một trong những nguyên nhân 
mang tính lịch sử khi phƣơng Tây 
chinh phục đã chèn ép chính quyền 
phong kiến bản địa, bắt nhƣợng 
quyền địa giới để họ giao thƣơng với 
các nƣớc. Vì vậy, trên một mảnh đất 
nhỏ tồn tại đồng thời nhiều truyền 
thống tôn giáo, văn hóa Đông Tây 
chung sống, đời sống xã hội thuận 
hòa, ít xung đột, vì mục tiêu chung 
của cƣ dân nhắm đến đều là kinh 
doanh, thƣơng mại. 
2.1. Yếu tố vị trí cảng biển trong 
việc hình thành các thành phần cƣ 
dân nơi các phố cổ 
Cả năm khu phố cổ đều là các cảng 
biển có vị trí chiến lƣợc then chốt ven 
Thái Bình Dƣơng, từ năm phố cảng 
này dễ dàng di chuyển khắp Đông 
Nam Á. Theo những ghi chép trong 
Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư thời 
đầu Công nguyên, đã có nhiều cuộc di 
chuyển bằng thuyền của nhà Tần, nhà 
Đông Hán xuống khám phá khu vực 
Đông Nam Á (Châu Hải Đƣờng, 2018: 
179). Ngƣời từ Ba Tƣ, La Mã cũng tìm 
đến, hiện còn nhiều di chỉ khảo cổ: Óc 
Eo, Java Từ đó có thể thấy, ngƣời 
Trung Hoa và Ba Tƣ đã kiến tạo một 
tuyến đƣờng thủy đƣợc gọi là “con 
đƣờng hƣơng liệu trên biển” với điểm 
khởi đầu từ Phúc Kiến kéo dài tới 
Bagdad - Ba Tƣ. Trên con đƣờng đó, 
hơn 30 trạm dừng chính đã đƣợc hình 
thành: Ayutthya, Pagan, Rangoon, 
Karachi, Sur ba trong năm phố cổ 
này thuộc số các trạm dừng đó: 
Penang, Malacca và Semarang (Zane 
Goebel, 2011: 7)
(1)
. Thành phần dân 
cƣ tề tựu ở các phố cảng này đông đủ 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
60 
nhất từ khoảng cuối thế kỷ XV - thế kỷ 
XVII, sau những sự kiện lớn nhƣ: khai 
phá và phát kiến địa lý của Trịnh Hòa, 
Colombus, nhà Minh diệt vong, khởi 
nghĩa Shimabara, 
Thành phần dân cƣ gồm năm cộng 
đồng chính ngoài cƣ dân bản địa: 
Cộng đồng Châu Âu: gồm các nhà 
buôn đến tham gia kinh doanh, 
thƣơng mại; quân đội viễn chinh đi 
chiếm đóng các xứ thuộc địa; các nhà 
truyền giáo tạm cƣ vì mục đích truyền 
đạo và các bác học với mục đích 
nghiên cứu khoa học. 
Cộng đồng ngƣời Hoa: phần lớn là 
ngƣời Minh Hƣơng. Những cựu thần 
nhà Minh bất phục nhà Thanh, giong 
buồm đi sinh sống xứ khác, mƣu sự 
phục Minh. 
Cộng đồng ngƣời Nhật: phần lớn là 
thƣơng gia đi làm ăn buôn bán và 
những ngƣời Nhật dính líu tới khởi 
nghĩa Shimabara chạy trốn chính 
quyền Mạc Phủ. 
Cộng đồng ngƣời Ba Tƣ, Ả Rập: phần 
lớn là ngƣời Islam giáo, một ít Bái 
Hỏa giáo tạm trú để kinh doanh, buôn 
bán, trao đổi hàng hóa, nhiều nhất là 
tơ lụa, thảm thêu, chà là khô, đá quý. 
Với Hội An thì ngƣời Ả Rập có đến 
giao thƣơng nhƣng ít ở lại. 
Cộng đồng ngƣời Ấn Độ: ở Hội An và 
Vigan ít ngƣời Ấn Độ, mà tập trung 
nhiều nhất là ở Melacca. Họ là những 
thƣơng gia thuộc nhiều tôn giáo cổ, 
nhƣ: Hindu, Kỳ Na, và các tôn giáo 
hình thành muộn hơn, nhƣ: Sikh, 
B’hair, Sài Baba xuôi thuyền đến 
bán hƣơng liệu, dƣợc phẩm Nhiều 
ngƣời trong số họ theo lối sống 
Ahimsa (bất tổn sinh) nên ăn chay và 
chọn công việc đi buôn để không làm 
tổn hại sinh mạng động vật. 
2.2. Dấu ấn phƣơng Tây với tƣ 
tƣởng “khai sáng văn minh” và sự 
đa sắc màu trong kiến trúc, ẩm 
thực, lễ hội 
Chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây đã 
bắt đầu xâm chiếm gần nhƣ toàn bộ 
Đông Nam Á làm thuộc địa bắt đầu từ 
thế kỷ XV: Hà Lan chiếm Indonesia, 
Anh chiếm Mã Lai, Pháp đô hộ Đông 
Dƣơng. Ngƣời phƣơng Tây biện luận 
rằng cuộc xâm chiếm của họ là công 
cuộc “khai sáng văn minh”, ngƣời bản 
xứ cần đƣợc hƣởng những thành tựu 
khoa học. Cần phải có nhiều công trình, 
cơ sở vật chất kiểu phƣơng Tây để 
đẩy mạnh công cuộc “khai sáng” này. 
Ngƣời phƣơng Tây, ngoài việc xây 
dựng cơ sở thờ tự tâm linh và lƣu trú, 
còn chú trọng đến xây dựng các pháo 
đài, lô cốt, công sự bảo vệ lãnh địa 
của mình theo kiến trúc đậm nét 
phƣơng Tây. Thế kỷ XVII - XIX là thời 
kỳ chạy đua vũ trang của hải quân 
Châu Âu, các cƣờng quốc nhƣ: Pháp, 
Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào 
Nha ra sức tìm kiếm thuộc địa trong 
sự liên kết và mâu thuẫn, cạnh tranh 
nhau. Bên cạnh đó, nạn hải tặc nổi lên 
khắp nơi. Đặc biệt, sau sự kiện nhà 
Thanh diệt nhà Minh năm 1644. 
Ngoài các pháo đài phòng thủ, ngƣời 
phƣơng Tây cũng lập nhiều bảo tàng, 
một mặt “khai trí” cho sĩ phu bản địa 
về văn minh phƣơng Tây, mặt khác 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 
61 
sƣu tầm các hiện vật khảo cổ, văn 
hóa bản địa để chuyển về mẫu quốc, 
hầu cho giới học giả Châu Âu đƣợc 
“mở mang tầm mắt”. 
Tuy nhiên, tính bản địa vẫn nổi bật 
trong các công trình phƣơng Tây. Điều 
này đƣợc Anthony Reid (2013: 13) 
xác nhận cho trƣờng hợp Malacca: 
“ nơi nó vẫn là một trung tâm biểu 
tƣợng văn minh của Malay, và là một 
mô hình của Malay, bất chấp những 
thay đổi liên quan tới luật lệ Bồ Đào 
Nha”(2). 
2.3. Sự đa diện sắc màu trong kiến 
trúc, ẩm thực, lễ hội 
Bên cạnh các công trình mang dấu ấn 
“khai sáng văn minh” của phƣơng Tây, 
mỗi phố cổ trong vành đai phố cổ đều 
sở hữu một bộ sƣu tập các di sản văn 
hóa về kiến trúc, mỹ thuật đa dạng và 
quý giá của các cộng đồng cƣ trú. 
Trong Xứ Đàng Trong năm 1621, giáo 
sĩ Christoforo Borri (2016: 35) đã viết 
về Hội An: “Một thành phố lớn đến độ 
ngƣời ta có thể nói đƣợc là có hai 
thành phố, một phố ngƣời Tàu, một 
phố của ngƣời Nhật, mỗi phố có quan 
cai trị riêng, sống theo tập tục riêng”. 
Năm 1695, thƣơng nhân Anh là 
Bowyear đến Hội An cũng thuật lại 
rằng: “Faifo gồm một con phố trên bờ 
sông và hai dãy nhà, có khoảng 100 
nóc nhà của ngƣời Hoa, cũng có 4, 5 
gia đình ngƣời Nhật Bản” (Phan 
Khoang, 2017: 553). 
Trƣớc hết, hệ thống các di sản quý 
giá của cộng đồng ngƣời Hoa và 
Đông Bắc Á (Nhật Bản, Triều Tiên) 
gồm các cơ sở tâm linh thờ Phật, các 
vị thần: chùa Kek Lok Si, chùa Cầu, 
chùa Quan Âm, miếu Bà Thiên Hậu, 
miếu thờ Trịnh Hòa, đền Tứ Đại Thiên 
Vƣơng, đền Huyền Vũ, miếu thờ 
Khổng Tử và Tứ Thánh đƣợc xây cất 
đồ sộ, nhƣng hài hòa, duyên dáng. 
Ngƣời Hoa và ngƣời vùng Đông Bắc 
Á còn chú trọng xây dựng nhiều hội 
quán để họp mặt, sinh hoạt văn hóa, 
đƣợc lƣu giữ gần nhƣ nguyên vẹn 
đến nay, thêm vào đó là hàng chục 
nhà cổ có giá trị cao về mỹ thuật, kiến 
trúc, điêu khắc và các hiện vật: gốm 
sứ, tranh khảm, đồ trang sức, Hệ 
thống các di sản văn hóa của ngƣời 
Ấn Độ, Ả Rập và Trung Đông tuy ít 
nhƣng cũng đủ lƣu dấu ấn đặc sắc 
trong bức tranh rực rỡ của sự đa diện 
văn hóa. Ngƣời Ấn Độ để lại hệ thống 
các đền đài thuộc nhiều tôn giáo khác 
nhau nhƣ Hindu, đạo Sikh, đạo Jain, 
Sài Baba, Ngƣời Ả Rập đóng góp 
hơn hai mƣơi ngôi giáo đƣờng Islam 
trác tuyệt, các hiện vật điêu khắc tinh 
xảo: dao găm, tráp đựng trầm hƣơng, 
rƣơng quần áo 
Dấu ấn phƣơng Tây trong kiến trúc, 
mỹ thuật ở các phố cổ này cũng 
chiếm số lƣợng lớn, tạo nên một sự 
xen kẽ hài hòa giữa tinh hoa mỹ thuật 
Đông Tây, làm cho các phố cổ có diện 
mạo cuốn hút, biến thành những “ngôi 
làng thế giới”. Các di tích phƣơng 
Tây ở các phố cổ còn lại hiện nay, 
nhiều nhất vẫn là các nhà thờ và 
khách sạn. 
Mỗi phố cổ còn là nơi tụ họp nhiều lễ 
hội đặc sắc và món ăn độc đáo đến từ 
nhiều nƣớc. 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
62 
Xét về lễ hội, các lễ hội đa dạng theo 
dân tộc: Pháp, Anh, Hà Lan, Hoa, 
Nhật theo tôn giáo - tín ngƣỡng: 
Islam giáo, Công giáo, Tin Lành, Phật 
giáo, Hindu giáo, Shaman theo địa 
hình, khí hậu, sản vật. Điểm qua vài lễ 
hội lớn ở George Town nhƣ: lễ thánh 
George 23/4, lễ mừng truyền thống 
phố cổ 31/8, hội thi Nhiếp ảnh cổ điển 
21/6; lễ Giao thừa ngƣời Hoa tại chùa 
Kek Lok Si, đêm hoa đăng Vesak 
mừng đức Phật đản sinh; lễ mừng 
thần Shiva, nữ thần Mariamman, lễ kỷ 
niệm ngài Sài Baba; lễ hội sầu riêng 
tháng 7, lễ cầu mƣa gió thuận hòa 
tháng 5 Ở Vigan, dân cƣ đa số theo 
Công giáo và Tin Lành có lễ hội 
Antihan mừng Chúa giáng sinh kiểu 
thổ dân, lễ hội xúc xích que 
Longgannisa Melacca có lễ hội Hindu 
giáo mừng thần Genesha, lễ vía ông 
Trịnh Hòa, ông Quan Công của ngƣời 
Hoa, lễ thánh Francisco Xavier của 
Công giáo. Ở Hội An có lễ Noel, lễ 
Cầu ngƣ, lễ vía Bà Thiên Hậu, lễ vía 
Lục Tánh Vƣơng Gia 
Bên cạnh lễ hội, ẩm thực có vai trò 
lớn trong đời sống văn hóa một cộng 
đồng. Món ăn điển hình nhất ở các 
phố cổ này là mì. Năm phố cổ gắn với 
sự ra đời của năm món mì độc đáo 
nấu theo kiểu Đông (Hoa, Nhật) “lai” 
phƣơng Tây với những nguyên liệu và 
cách trình bày “rải lên mặt” quen thuộc, 
nhƣ: rắc kem, sốt mè đen, bột chiên 
xù, tóp mỡ lên bề mặt món ăn khi 
chuẩn bị mang ra phục vụ. Mì phá lấu 
(lòng bò) nấu xá xíu Wonton ở George 
Town, mì cà ri Laksa ở Malacca, mì 
trứng trộn Hap Kie ở Semarang, mì 
kem sốt mè đen Longganisa ở Vigan, 
mì Cao Lầu ở Hội An đều có nhiều 
điểm chung về pha trộn Đông Tây. 
Điểm chung của năm món mì này đều 
dùng mì cọng vuông to, trắng hay 
vàng nhạt (ít pha màu), kiểu Hoa, 
Nhật (松 山晃, 1996: 124). Các món mì 
này đều có phần nguyên liệu phụ 
chiên giòn “rải lên mặt”, cách chế biến 
Châu Âu gọi là “topping”: mì Wonton 
rải bánh phồng tôm chiên, tóp mỡ, mì 
cà ri Laksa rắc bánh cay chiên, mì 
Cao Lầu Hội An rải da heo chiên, 
bánh tráng bẻ vụn, 
3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ MÔ HÌNH LIÊN 
KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN 
ĐẢO 
Với kho tàng các di tích lịch sử văn 
hóa Đông Tây hội tụ quý giá, có thể 
liên kết năm phố cổ trên thành vành 
đai các phố cổ hấp dẫn du lịch nhất 
Đông Nam Á, thích hợp cho việc phát 
triển du lịch với các loại hình: 
homestay, du lịch công vụ - MICE(3), 
tâm linh 
3.1. Loại tour du lịch nghỉ dƣỡng 
“phố - biển” 
Các phố cổ đã xây dựng nhiều tour 
sinh thái và nghỉ dƣỡng biển với các 
hoạt động nhƣ: lặn biển, câu cá, tắm 
khoáng, thăm đảo, lƣớt ca-nô, dù 
lƣợn Tuy nhiên, cách tổ chức hoạt 
động du lịch nhƣ vậy vô tình làm tách 
biệt ba đặc tính hấp dẫn của yếu tố 
cảng biển nơi các phố cổ này là: phố 
(hải cảng, đa văn hóa) - cảng (địa thế 
biển tự nhiên đặc biệt) - cổ (lịch sử 
hàng hải trung cận đại). Khai thác biển 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 
63 
nơi các phố cổ này theo hƣớng sinh 
thái tự nhiên, chỉ chú trọng hoạt động 
“biển”, tách biệt “phố”, gây ra sự riêng 
lẻ, đơn điệu, dễ sa vào nguy cơ ô 
nhiễm môi trƣờng biển. Vì vậy, khi 
khai thác du lịch nghỉ dƣỡng biển, cần 
phải kết hợp chặt chẽ “biển” với “phố”. 
Cần thiết kế không gian, chƣơng trình 
điểm đến để tạo cho du khách bầu 
không khí bình an, ảo diệu, bƣớc 
chân vào những trang cổ sử, lắng 
đọng tâm hồn, nhƣ gặp gỡ tiền nhân. 
Không nên giữ góc nhìn theo loại hình 
phân đôi cổ điển: sinh thái và văn hóa 
hoặc phân ba: sinh thái, văn hóa và 
MICE. Thay vào đó, nên chú trọng tạo 
ra những sản phẩm du lịch đặc trƣng 
đảm bảo kết hợp hài hòa ba yếu tố: 
phố - cảng - cổ, trong đó, thiên về yếu 
tố cảng biển. 
3.2. Loại tour du lịch tìm hiểu 
chuyên đề kiến trúc thuộc địa và 
quy hoạch đô thị 
Ngƣời phƣơng Tây đã quy hoạch các 
phố cổ theo các kiểu mẫu đô thị châu 
Âu với hai mô hình chính là “quy tâm” 
và “song hành”. Kiểu “quy tâm” - áp 
dụng với các vùng đất tƣơng đối bằng 
 Bảng 1: Phác họa các tour tham quan định hƣớng “phố - biển” 
Các 
yếu tố 
Nội dung 
Phác họa tour 1* 
(tiết kiệm) 
Phác họa tour 2** 
Cảng - 
biển 
Các hoạt động hồi sức 
tận dụng biển: tắm biển, 
thủy liệu pháp, tắm nắng 
Tắm biển 
Canô, dù lƣợn 
Tắm biển 
Sauna 
Thủy liệu pháp 
Du lịch đảo Đi thuyền đáy bằng, 
đáy kính 
Du thuyền hạng sang, thƣởng 
thức cocktail 
Ẩm thực: hải sản Thƣởng thức hải sản: 
tôm, mực 
Thƣởng thức các bảo vật biển: 
bào ngƣ, hải sâm 
Phố Đa dạng văn hóa Đông 
Tây 
Sự thân thiện, chân thật, 
lịch thiệp của ngƣời dân 
Dùng bữa ngoài trời 
Giao lƣu, kết bạn 
cùng ngƣời dân. 
Thƣởng thức nghệ 
thuật bản địa 
Dùng tiệc tại những nơi gắn với 
các danh nhân quý tộc: dinh 
Toàn quyền, nhà cổ các thƣơng 
gia,  
Cổ Nếp sống cƣ dân thế kỷ 
XVII 
Trải nghiệm 
homestay (kiểu Tây 
hoặc Đông) 
Thăm thủy cung 
Trải nghiệm cuôc sống trong các 
lâu đài cổ (kiểu Đông hoặc Tây). 
Thƣởng thức các tác phẩm văn 
học biển, bảo tàng biển 
Phƣơng tiện di chuyển 
cổ 
Xe ngựa, xe bò, ngựa Xe hơi cổ 
Không gian tâm linh cổ Nơi cƣ trú gần nhà 
thờ (Tây) hoặc chùa, 
miếu (Đông) 
Nơi cƣ trú gần nhà thờ (Tây) 
hoặc chùa, miếu (Đông) 
 * Khách đoàn, trẻ 
 ** Khách lớn tuổi, gia đình. 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
64 
phẳng, ít sông rạch, nhƣ George 
Town-Penang, Vigan, Semarang. Trái 
lại là kiểu song hành ma trận cho địa 
thế nhiều sông dài nhƣ Hội An, 
Melacca. 
Trong đô thị phƣơng Tây, nhà thờ 
luôn ở vị trí trung tâm. Các phố cổ này 
có nhiều nhà thờ: nhà thờ thánh 
George ở George Town, nhà thờ 
thánh Augustine, nhà thờ thánh Paul 
ở Vigan, nhà thờ Gereja Maria Ratu, 
nhà thờ Tin lành Blenduk ở Semarang, 
nhà thờ Hội An, Có trƣờng hợp nhƣ 
ở Malacca, các cộng đồng quốc gia 
phƣơng Tây xây riêng từng nhà thờ 
theo lối kiến trúc đặc biệt của dân tộc 
mình: Hà Lan xây nhà thờ Chúa Cứu 
Thế (Red Church) kiểu Ba-rốc, Bồ 
Đào Nha xây nhà thờ thánh Paul - nơi 
có bức tƣợng Thánh cụt tay nổi tiếng, 
kiểu Phục Hƣng, (E. Pabois & B. 
Toulier, 2007: 18-27). 
Trong quá trình chiếm đóng các xứ 
thuộc địa, do yếu tố khí hậu, thời tiết 
và cũng mong muốn hòa nhập với địa 
phƣơng, ngƣời phƣơng Tây đã sáng 
chế dòng “kiến trúc thuộc địa” với hơn 
mƣời chi phái: Pháp - Hoa, Đông 
Dƣơng, hậu thực dân, tân thuộc địa, 
Queen Annie phƣơng Đông, nhiệt đới, 
Tudor thuộc địa, Rotterdam phục 
hƣng, (H. Wesseling, 2007: 33-36). 
Hàng loạt khách sạn xinh đẹp, rộng rãi, 
thoáng đãng, đa dạng kiểu dáng theo 
hệ thống kiến trúc thuộc địa, đƣợc xây 
dựng từ 80 đến 200 năm trƣớc, để 
đón tiếp những thƣơng nhân đồng 
hƣơng sang buôn bán, vẫn đƣợc duy 
trì đến ngày nay, điển hình nhƣ tại 
Semarang: khách sạn cổ Marabunta 
theo lối kiến trúc nhiệt đới, nhà trọ cổ 
Rumah Tua theo kiến trúc Queen Annie 
duyên dáng, khách sạn Lawang Sewu, 
khách sạn Djajanti theo kiến trúc tân 
thuộc địa, 
Ngoài nhà thờ và khách sạn, ngƣời 
phƣơng Tây còn để lại hệ thống kiến 
trúc pháo đài độc đáo: pháo đài Fort 
Cornwallis ở George Town, pháo đài 
A Famosa ở Malacca, pháo đài tháp 
chuông Banty ở Vigan, pháo đài Kota 
Lama ở Semarang, bãi pháo Tòa 
Công sứ ở Hội An. Ngày nay, những 
pháo đài đồ sộ này trở thành điểm 
tham quan hấp dẫn cho du khách và 
là dấu tích kể lại một thời kỳ mặt biển 
nhiều biến động. 
Ngƣời Hoa và Nhật đóng góp rất 
nhiều công trình kiến trúc độc đáo vào 
kho tàng kiến trúc các phố cổ. Thờ 
Phật có: Chùa Quan Âm - Kuan Yin, 
chùa Kek Lok Si (George Town), chùa 
Hƣơng Lâm - Xiang Lin (Malacca), 
chùa Đại Giác - Tai Kak (Semarang), 
Quan Âm Phật Tự (Hội An); theo Đạo 
giáo hoặc Nho giáo thờ thần tiên và 
các anh hùng lịch sử: chùa Cầu - Lai 
Viễn Kiều (Hội An) thờ Bắc Đế Trấn 
Vũ, Hội quán Sam Po Kong (Tam Bảo 
Công) - thờ Trịnh Hòa và bộ ba Lƣu 
Quan Trƣơng, miếu Thọ Phúc 
Đƣờng - thờ các hoàng đế nhà Minh 
(Semarang), miếu Thiên Hậu Thánh 
Mẫu thờ Bà Thiên Hậu (Malacca), đền 
Bắc Đế Nhật Bản (Gorge Town) 
Đặc biệt, hệ thống các hội quán đồ sộ 
và đẹp mắt: Hội quán Long Sơn 
Đƣờng - Khoo Kongsi (George Town), 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 
65 
Hội quán Thanh Vân Đình - Cheng 
Hoon Teng (Malacca), Hội quán Phúc 
Kiến - Kim Sơn Tự, Hội quán Quảng 
Đông, Hội quán Triều Châu (Hội An). 
Ngƣời Ấn Độ xây dựng nhiều cơ sở 
thờ tự nhƣ: đền Hindu thờ nữ thần 
mùa màng Mariamman, đền thờ ngài 
Sài Baba ở George Town, một ngôi 
đền thờ Hindu cổ khác thờ thần 
Vinayagar (tên tôn kính của thần trí 
tuệ đầu voi Ganesha), xây năm 1781 
ở Malacca, đền thờ Hindu Melastic 
(Thần tối cao Acintya của Bali) ở 
Semarang, đền thờ đạo Sikh ở 
Vigan, Ngƣời Ả Rập cũng xây dựng 
hệ thống các nguyện đƣờng Islam 
giáo tuyệt đẹp phục vụ cho nhu cầu 
tâm linh tại nơi lƣu trú nhƣ ở George 
Town là giáo đƣờng Keling, ở 
Melacca là giáo đƣờng Masjid Selat, 
ở Semarang là đại giáo đƣờng lớn 
nhất Đông Nam Á Islam Java. 
3.3. Loại hình tour nghiên cứu lịch 
sử, văn học, hội thảo khoa học, 
hợp tác trao đổi sinh viên khoa học 
xã hội, nhân văn 
Các phố cổ có hệ thống những ngôi 
nhà cổ và bảo tàng cổ với hàng ngàn 
hiện vật quý giá trong những không 
gian trƣng bày gần nhƣ nguyên vẹn 
qua thời gian để phục vụ cho việc xây 
dựng các tour nghiên cứu lịch sử, văn 
học, nhân học, hội thảo khoa học. 
Hệ thống nhà cổ có: nhà cổ thƣơng 
gia Trƣơng Bật Sĩ (Cheong Fatt tze, 
nhà lam), sáu căn nhà sàn gỗ bến tàu 
ngƣời Hoa Phúc Kiến bến tàu số 6 
Chew Jetty (George Town), nhà cổ 
Baba Nyonya của thƣơng gia Tăng 
Bảng 2: Loại hình tham quan chuyên đề kiến trúc và quy hoạch đô thị điển hình vành 
đai các phố cổ, khởi hành từ Việt Nam 
Loại hình du lịch 
(Nhân sự kết hợp) 
Chuyên 
biệt 
Các nhu cầu, 
sở nguyện du khách 
Số ngày - Lộ trình 
Hành hƣơng - tâm 
linh 
Phật giáo - Xin - trả ân huệ 
- Bày tỏ lòng tin mộ 
- Tái hiện tƣởng niệm 
- Tìm hòa giải, bình 
an 
4 ngày Việt Nam - Malaysia 
(George Town, Malacca) - 
Indonesia (Semerang) - Việt 
Nam 
(Tín đồ, chức sắc 
địa phƣơng, Sở 
Du lịch địa 
phƣơng) 
Nho giáo 
Lão giáo 
Công giáo 6 ngày Việt Nam - Malaysia 
(George Town, Malacca) - 
Indonesia (Semerang) - 
Philippines (Vigan) - Việt 
Nam 
Đô thị Kiến trúc - Tham khảo kiểu mẫu 
xây dựng 
- Quy hoạch, bản đồ 
- Nghiên cứu kinh 
doanh, mở thị trƣờng 
7 ngày Việt Nam Malaysia 
(George Town, Malacca) - 
Indonesia (Semerang) - 
Philippines (Vigan) - Việt 
Nam 
(Các học giả, kỹ 
sƣ, kiến trúc sƣ, 
thƣơng nhân địa 
phƣơng, Sở Du 
lịch địa phƣơng) 
Phố biển 
Thuộc địa 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
66 
Thanh Tú, hậu duệ công chúa Hán Lệ 
Bảo, mở cửa từ 1896, hiện là bảo 
tàng gốm sứ tƣ gia (Malacca), nhà cổ 
phong cách Hoa Quema, nhà cổ 
phong cách Hoa Syquia (Vigan), nhà 
cổ Tấn Ký, Phùng Hƣng, phong cách 
Nhật Hoa (Hội An) 
Hệ thống bảo tàng có: Bảo tàng Lịch 
sử Penang, Bảo tàng Hàng hải 
phƣơng Tây, Bảo tàng Trịnh Hòa - 
Cheng Ho, Bảo tàng Cố đô Malaka, 
các bảo tàng này đều thuộc Malaysia, 
trong đó, Bảo tàng Hàng hải phƣơng 
Tây thu hút du khách hơn cả vì tính 
đại chúng, dễ xem, dễ hiểu, không 
kén khách. Hàng trăm mô hình tàu 
buôn, tàu chiến tinh xảo, quần áo, 
trang phục, vũ khí, tái hiện sống 
động thời kỳ sóng gió, tranh chấp mặt 
biển của các hạm đội hùng mạnh 
Châu Âu. Ngoài ra, hệ thống các bảo 
tàng khác cũng phản ánh nhiều khía 
cạnh của đời sống văn hóa cƣ dân 
Đông Nam Á thế kỷ XV - XVIII nhƣ: 
Bảo tàng Crisologo ở Vigan, Bảo tàng 
Y dƣợc cổ truyền Juma, Bảo tàng Lịch 
sử Vũ khí Mandala Bhakti ở 
Semarang, Bảo tàng Khảo cổ Sa 
Huỳnh, Bảo tàng Văn hóa dân gian 
Hội An, Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch 
Hội An giúp ích rất nhiều trong việc 
tái hiện cuộc sống gắn với biển của 
con ngƣời Đông Nam Á theo từng 
chặng đƣờng thời gian suốt gần 4000 
năm lịch sử. 
Bên cạnh đó, còn có thể khai thác 
nhiều tài nguyên du lịch khác nhƣ: các 
địa điểm khảo cổ: trên cạn, bãi tàu 
đắm, cửa biển, các thƣ viện riêng của 
từng phố cổ, các văn bia đá cổ, các 
 Bảng 3. Bảng phối các địa điểm du lịch nổi tiếng theo ba yếu tố đặc thù 
Yếu tố 
Các lĩnh vực 
học thuật về 
Đông Nam Á 
Các di tích lịch sử, văn hóa phục vụ 
George Town 
- Penang 
Malacca Vigan Hội An Semarang 
Cảng 
biển 
Quân sự 
Hàng hải 
Thực dân 
Pháo đài Fort 
Cornwallis 
Pháo đài A 
Famosa 
Pháo đài 
Banty 
Bãi Pháo 
tòa Công 
sứ 
Pháo đài 
Kota Lama 
Cổ Nhân chủng học 
Lịch sử thám 
hiểm 
Dân tộc 
Khảo cổ 
Bảo tàng Lịch 
sử Penang 
Bảo tàng 
Hàng hải 
phƣơng Tây 
Bảo tàng 
Trịnh Hòa - 
Cheng Ho 
Bảo tàng 
Crisologo 
Bảo tàng 
Sa Huỳnh 
Bảo tàng 
Gốm sứ 
Bảo tàng Y 
dƣợc cổ 
truyền 
Bảo tàng Vũ 
khí Mandala 
Bhakti 
Phố Địa văn hóa 
Xã hội 
Nhà cổ Lam 
Nhà cổ bến 
Chew Jetty 
Nhà cổ 
Baba 
Nyonya 
Nhà cổ 
Quema 
Nhà cổ 
Syquia 
Nhà cổ Tấn 
Ký 
Nhà cổ 
Phùng 
Hƣng 
Nhà cổ 
Marabunta 
Hình thức: Hội thảo, điền dã, trao đổi tƣ liệu, đào tạo tại chỗ, trại sáng tác, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (246) 2019 
67 
khu chợ cổ... Kết hợp song song là 
tận dụng, cải tạo một số công trình 
văn hóa cổ thành những phòng hội 
nghị, salon thảo luận, không gian 
biểu diễn nghệ thuật dân gian, nhƣ: 
không gian nhà cổ Phùng Hƣng, 
không gian nhà cổ Trƣơng Bật Sĩ, 
nhà cổ Baba Nyonya, không gian Bảo 
tàng Chăm, không gian Bảo tàng 
Hàng Hải, không gian Hội quán 
Thanh Vân Đình, không gian miếu 
Phúc Thọ Đƣờng... 
Hoạt động trao đổi học thuật, hội thảo, 
tọa đàm chuyên đề cũng góp phần 
phát triển du lịch M.I.C.E (công vụ - 
sự kiện) đặc thù của từng phố cổ. 
Các trƣờng đào tạo du lịch ở bốn 
quốc gia: Việt Nam, Indonesia, 
Malaysia, Philippines có cơ hội tuyển 
chọn các sinh viên giỏi và đam mê du 
lịch biển - đảo, du lịch khảo cổ, du lịch 
văn hóa để cùng trao đổi theo chƣơng 
trình hợp tác huấn luyện hƣớng dẫn 
viên du lịch chuyên biệt về năm phố 
cổ, hình thành đội ngũ nhân viên liên 
quốc gia, nền tảng để quy hoạch nhân 
sự cho các tour đan xen hoán đổi giữa 
các điểm tham quan thuộc vành đai 
các phố cổ này. 
KẾT LUẬN 
Vành đai di sản các phố cổ ven Biển 
Đông gồm: Hội An, George Town - 
Penang, Melacca, Semarang, Vigan, 
đông đủ các thành phần cƣ dân nhất 
cách nay khoảng 400 năm, nhƣng 
trƣớc đó, từ những năm đầu Công 
nguyên, đã là những hải cảng then 
chốt của Đông Nam Á - ngã tƣ thế 
giới; vì điều kiện địa lý: sóng lặng, kín 
gió bão, nƣớc sâu thuận tiện cho hải 
trình dài ngày từ Đông sang Tây, từ 
Bắc xuống Nam. 
Ngày nay, các di tích văn hóa nơi các 
phố cổ ấy là kho tƣ liệu quý giá, phản 
ánh sinh động cuộc sống quá khứ cho 
các học giả văn hóa, khảo cổ tìm hiểu, 
nghiên cứu. Tổ chức UNESCO đã 
công nhận 4 trên 5 phố cổ này là di 
sản văn hóa thế giới, riêng Semarang 
có khả năng đƣợc công nhận trong 
vài năm tới(4). 
Đối với du lịch, các phố cổ này kết nối 
hình thành một vành đai, tích hợp các 
yếu tố: cảng - phố - cổ, thích hợp phát 
triển song hành du lịch biển và du lịch 
văn hóa, kiến tạo các tour du lịch hấp 
dẫn khách yêu sự lãng mạn, thanh 
bình, hoài niệm.  
CHÚ THÍCH 
(1)
 “I just focus on how deviance becomes identify category associated with persons of 
Chinese ancestry over the course of these ward meeting”. 
(2)
 “ where it remained a symbolic center of Malay civilization and a model of Malay political 
authority despite changes associated with Portuguese rule”. 
(3)
 M.I.C.E hay MICE là viết tắt của: Meeting (hội họp), Incentive (khen thƣởng), Conference 
(hội thảo) và Event (sự kiện). Theo quan điểm mới thì Conference và Event ghép thành 
Convention (sự kiện - hội nghị) và thay E = Exhibition (triển lãm). MICE đƣợc dịch tiếng Việt 
theo quy ƣớc là du lịch công vụ. 
(4)
 https://whc.unesco.org/en/tentativelists/6011/, truy cập ngày 2/10/2018. 
ĐINH THIỆN PHƢƠNG - NGUYỄN ĐÌNH TÌNH – VÀNH ĐAI DI SẢN 
68 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên). 2013. Địa lý kinh tế - xã hội Châu Á. Hà Nội: Nxb. Giáo 
dục. 
2. Châu Hải Đƣờng. 2018. An Nam truyện - ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung 
Quốc xưa. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 
3. Cristophoro Borri (Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch). 2016. Xứ Đàng Trong 
năm 1621. TPHCM: Nxb. Tổng hợp. 
4. Nguyễn Quý Thao (chủ biên). 2008. Tập bản đồ thế giới và các châu lục. TPHCM: 
Nxb. Giáo dục. 
5. Pabois, E. & Toulier, B. (2007). Architecture coloniale et patrimoine: Expériences 
européennes. France - Paris: Somogy D’Art. 
6. Phan Khoang. 2017. Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777. TPHCM: Nxb. Sách Khai 
Tâm - Khoa học Xã hội. 
7. Reid, Anthony. 2013. The Portuguese and the Straits of Melaka, 1575 - 1619: Power, 
Trade and Diplomacy by Paulo Jorge de Sousa Pinto. Malaysia: Royal Asiatic Society. 
8. Vũ Thế Bình. 2016. Non nước Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Hà Nội. 
9. Wesseling, H. 2007. Europa’s Koloniale eeuw. Netherland - Amsterdam: Bert Bakker. 
10. Zane, Goebel. 2011. Language, Migration, and Identity: Neighborhood Talk in 
Indonesia. United Kingdom: Cambridge University Press. 
11. 松山晃. 1996. 東南アジアの伝統食文化―その形成と系譜. 日本-大阪:ドメス出版. 

File đính kèm:

  • pdfvanh_dai_di_san_cac_pho_co_ven_bien_dong_nam_a_trong_lien_ke.pdf