Văn hóa doanh nghiệp - Yếu tố nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành

Ngày nay, cụm từ “Văn hóa doanh nghiệp” đang được xã hội rất quan tâm, đặc biệt là các doanh

nghiệp. Các doanh nghiệp đang sử dụng văn hóa như công cụ và mục tiêu trong phát triển doanh

nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành du lịch. Một trong những thành phần có vai trò quan

trọng bậc nhất, chiếm vị trí trung tâm, đặc trưng cho kinh doanh du lịch đó là kinh doanh lữ hành. Có

hai doanh nghiệp lữ hành cùng kinh doanh chương trình du lịch tới cùng một điểm đến trong cùng

một thời gian thì thì dịch vụ của hai doanh nghiệp đó sẽ được cung cấp là gần như ngang nhau. Vì thế

lúc này thì thành phần giúp họ để hơn được đối thủ cạnh tranh chính là đội ngũ hướng dẫn viên, dịch

vụ chăm sóc khách hàng và hậu mãi. những yếu tố đó tạo nên chất lượng phục vụ của doanh nghiệp,

được hình thành trong quá trình xây dựng văn hóa doanh nghiệp.

pdf 6 trang kimcuc 4500
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa doanh nghiệp - Yếu tố nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hóa doanh nghiệp - Yếu tố nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành

Văn hóa doanh nghiệp - Yếu tố nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
57Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Khái niệm văn hóa doanh nghiệp
Thuật ngữ “văn hóa doanh nghiệp” (VHDN) đã ra đời tại các nước Âu - Mỹ vào nửa sau thế kỷ XX, khi người 
ta nhận ra rằng, thế giới đã và đang thay đổi 
nhanh đến chóng mặt, các hình thái hoạt 
động sống của con người trở nên phong phú, 
nhu cầu chia sẻ những mục tiêu khát vọng, 
các giá trị chung (nhân tố quan trọng cấu 
thành văn hóa) ngày càng gia tăng trong xã 
hội phát triển. Trong sự phát triển kinh tế xã 
hội, người ta bỗng thức nhận ra rằng: công 
việc kinh doanh xưa kia chỉ chạy theo động cơ 
“lợi nhuận” thì ngày nay nó có thể và cần phải 
có thêm định hướng văn hóa. Thuật ngữ “văn 
hóa kinh doanh” đã ra đời trong sự nhận thức 
mới mẻ này. Văn hóa kinh doanh được vận 
hành trong một doanh nghiệp (hay một công 
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP - YẾU TỐ NÂNG CAO 
SỨC CẠNH TRANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH LỮ HÀNH
NGUYỄN THỊ KIM THÌN
Tóm tắt
Ngày nay, cụm từ “Văn hóa doanh nghiệp” đang được xã hội rất quan tâm, đặc biệt là các doanh 
nghiệp. Các doanh nghiệp đang sử dụng văn hóa như công cụ và mục tiêu trong phát triển doanh 
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành du lịch. Một trong những thành phần có vai trò quan 
trọng bậc nhất, chiếm vị trí trung tâm, đặc trưng cho kinh doanh du lịch đó là kinh doanh lữ hành. Có 
hai doanh nghiệp lữ hành cùng kinh doanh chương trình du lịch tới cùng một điểm đến trong cùng 
một thời gian thì thì dịch vụ của hai doanh nghiệp đó sẽ được cung cấp là gần như ngang nhau. Vì thế 
lúc này thì thành phần giúp họ để hơn được đối thủ cạnh tranh chính là đội ngũ hướng dẫn viên, dịch 
vụ chăm sóc khách hàng và hậu mãi.... những yếu tố đó tạo nên chất lượng phục vụ của doanh nghiệp, 
được hình thành trong quá trình xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Từ khóa: Văn hóa doanh nghiệp, cạnh tranh, phát triển bền vững, kinh doanh lữ hành.
Abstract
Today, the term “corporate culture” is paid attention by the society, especially by businesses. 
Businesses are using culture as a tool and target in business development especially businesses in 
tourism industry. One of the most important components, accounting the center position, which is 
typical of travel business is traveling business. Two traveling businesses providing traveling programs 
to the same destination at the same time, the services of the two companies will be provided almost 
equally. So in this case, the ingredients help them to gain more competition is a team of guides, 
customer and after-sale service.... These factors create quality of the business’s services, which is formed 
in the process of building corporate culture..
Keyword: Corporate culture, competition, stable development, traveling business.
Số 4 - Tháng 6 - 201358
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ty) thì gọi là “văn hóa doanh nghiệp” (hay văn 
hóa công ty). Hiện nay, quan niệm về văn hóa 
doanh nghiệp rất đa dạng, tùy theo góc nhìn 
(cách tiếp cận) mà mỗi người lại có cách hiểu, 
cách giải thích khác nhau. Dù tiếp cận ở góc độ 
nào thì các định nghĩa đều thống nhất quan 
điểm rằng: Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ 
những giá trị (dưới dạng vật thể hay phi vật 
thể) và các chuẩn mực do doanh nghiệp tạo 
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó tác 
động đến tình cảm, lý trí và hành vi của các 
thành viên trong doanh nghiệp, nó trở thành 
bản sắc riêng có của doanh nghiệp, tạo nên sự 
phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Như vậy, chức năng chủ yếu của VHDN là 
tạo nên sự thống nhất của mọi thành viên 
trong doanh nghiệp. Ngoài ra, VHDN đảm bảo 
sự hài hoà giữa lợi ích tập thể với lợi ích cá 
nhân và giúp cho mỗi cá nhân thực hiện vai 
trò của mình theo đúng định hướng chung 
của doanh nghiệp. Nhìn chung, VHDN động 
viên nghị lực và ý chí của các thành viên trong 
doanh nghiệp và hướng tinh thần đó vào việc 
phấn đấu cho mục đích của doanh nghiệp. 
Trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay 
gắt của nền kinh tế thị trường và xu hướng 
toàn cầu hóa, các doanh nghiệp muốn tồn tại 
và phát triển, phải liên tục tìm tòi những cái 
mới, sáng tạo và thay đổi thực tế. Làm thế nào 
để doanh nghiệp trở thành nơi tập hợp, phát 
huy nguồn lực con người nhằm phát triển bền 
vững. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây 
dựng và duy trì một nền nếp văn hóa đặc thù. 
Có thể khẳng định văn hóa doanh nghiệp là tài 
sản vô hình của mỗi doanh nghiệp, đóng vai 
trò nâng cao sức cạnh tranh và làm cho doanh 
nghiệp phát triển bền vững. 
2. Các thành tố của văn hóa doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp được thành lập để thực 
hiện mục đích do nhà kinh doanh đặt ra. Phương 
thức thực hiện mục đích kinh doanh trong doanh 
nghiệp đã tạo ra cho doanh nghiệp một sắc thái 
văn hóa riêng, một vị thế riêng. Xét từ góc độ ấy, 
chúng ta xác định văn hóa như một hệ thống cấu 
trúc đặc thù, đặc trưng cho doanh nghiệp. Cấu 
trúc của VHDN bao gồm 5 thành tố chính:
Một là, triết lý kinh doanh hay còn gọi là 
đạo lý kinh doanh, đó là những tư tưởng, quan 
điểm của doanh nghiệp về kinh doanh, được 
khái quát thành tôn chỉ, nguyên tắc, mục đích, 
phương châm hành động của doanh nghiệp, 
thường được phát biểu trong những nội dung 
hết sức cô đọng. Nội dung của nó thường 
hàm chứa các bộ phận cơ bản là mục đích 
kinh doanh, phương châm hành động của 
doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh là cốt lõi của 
phong cách kinh doanh, là hạt nhân, trụ cột 
của VHDN. Trong nền kinh tế thị trường, triết 
lý kinh doanh chỉ có giá trị thực sự khi nó được 
áp dụng vào doanh nghiệp và tạo nên hiệu 
quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp. Nó là lực hướng tâm chung cho 
mọi thành viên trong doanh nghiệp để vươn 
tới sự thành công. Triết lý kinh doanh giúp cho 
doanh nghiệp tạo ra phương thức phát triển 
bền vững và tạo nên một nét văn hóa đặc sắc 
của doanh nghiệp. 
Hai là, bộ quy tắc ứng xử của doanh nghiệp. 
Doanh nghiệp tồn tại nhờ một môi trường kinh 
doanh nhất định (môi trường trong doanh 
nghiệp và môi trường bên ngoài), do đó vấn 
đề đặt ra còn là cần duy trì, phát triển tốt các 
mối quan hệ trong và ngoài doanh nghiệp để 
phục vụ cho công việc kinh doanh. Do đó, bộ 
qui tắc ứng xử của doanh nghiệp có một tầm 
quan trọng đặc biệt. Quy tắc ứng xử của doanh 
nghiệp là những quy định, những nguyên tắc, 
những chuẩn mực ứng xử của doanh nghiệp, 
để các thành viên trong doanh nghiệp làm 
theo, hướng tới mục tiêu phát triển chung của 
doanh nghiệp. Những quy định, nguyên tắc 
ấy vừa là trách nhiệm, vừa là ý thức, động lực 
nhằm thúc đẩy các thành viên trong doanh 
nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển chung. 
Các mối quan hệ bên trong và bên ngoài 
59Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
doanh nghiệp được xây dựng, duy trì và phát 
triển bền vững sẽ tạo ra mối liên kết chặt chẽ 
trong toàn doanh nghiệp và đây là nguồn nội 
lực to lớn của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh 
đó, môi trường làm việc ngày càng trở nên 
đa dạng, đòi hỏi bộ quy tắc ứng xử phải được 
thiết lập bền vững. Xây dựng các quy tắc ứng 
xử cho tất cả các đối tượng, trong tất cả các 
mối quan hệ: quan hệ trong bộ phận lãnh đạo, 
quan hệ giữa các đồng nghiệp, quan hệ giữa 
cấp trên và cấp dưới, quan hệ với khách hàng, 
với bạn hàng, với đối thủ cạnh tranh, với cộng 
đồng Mỗi doanh nghiệp có văn hóa ứng 
xử riêng, mang đặc điểm riêng, phù hợp với 
văn hóa ứng xử của cộng đồng. Sự phát triển 
của doanh nghiệp phải gắn liền với việc xây 
dựng, củng cố các mối quan hệ trong và ngoài 
doanh nghiệp chỉ khi đó doanh nghiệp, mới 
phát triển bền vững. 
Ba là, hệ thống tổ chức, công nghệ kinh 
doanh của doanh nghiệp, bao gồm những yếu tố 
cơ bản là công cụ, con người, công nghệ, tổ chức.
Tổ chức là bố trí, sắp xếp công việc một 
cách hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất. 
Một doanh nghiệp cần có một cơ cấu tổ chức 
hợp lý, các quy trình công việc rõ ràng, ở đó 
mỗi bộ phận và cá nhân biết được nhiệm vụ và 
trách nhiệm của mình đến đâu, cần phải phối 
hợp với các bộ phận và cá nhân nào trong công 
việc... Đó là nền tảng cơ bản để có được một nề 
nếp làm việc khoa học, rõ ràng. Trong doanh 
nghiệp thường diễn ra song hành nhiều quy 
trình công việc khác nhau, cần phải nghiên 
cứu, áp dụng các phương pháp làm việc khoa 
học và xây dựng các quy trình công việc hợp 
lý. Các quy trình được thực hiện lâu dài, dần 
sẽ trở thành nề nếp, chuẩn mực trong công 
việc. Nếu bố trí sắp xếp cán bộ trong cơ quan, 
doanh nghiệp đúng vị trí thì mọi người sẽ phát 
huy được tối đa năng lực, trí tuệ của mình, góp 
phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp ngày 
càng phát triển. 
Công nghệ là tập hợp các quy trình, 
phương pháp, kỹ thuật, bí quyết, phương tiện 
(công cụ), dữ liệu thông tin, con người để biến 
đổi các nguồn nguyên liệu thành những sản 
phẩm mong muốn, phục vụ nhu cầu xã hội. 
Con người bao gồm những kiến thức chuyên 
môn cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, thói 
quen nghề nghiệp. Như vậy, việc bố trí sắp xếp 
vị trí cán bộ cũng như sắp xếp dây chuyền sản 
xuất công nghệ trong doanh nghiệp là một 
yếu tố quan trọng đóng góp cho sự thành 
công của doanh nghiệp.
Công cụ là những phương tiện máy móc, 
trang thiết bị, nhà xưởng.
 Như vậy, con người và hệ thống máy móc, 
trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh là 
những vấn đề hết sức quan trọng trong một 
doanh nghiệp. Nhưng quan trọng hơn nữa là 
cách thức tổ chức, sắp xếp hợp lý để phát huy 
hiệu quả tối đa.
Bốn là, hệ thống biểu hiện của doanh 
nghiệp. Hệ thống biểu hiện là bộ mặt của 
VHDN, là những biểu hiện bên ngoài của 
VHDN, là tất cả những hiện tượng và sự vật 
mà một người có thể nghe thấy, nhìn thấy và 
cảm nhận được khi tiếp xúc với VHDN, bao 
gồm: kiến trúc đặc trưng; nghi thức, lễ hội; giai 
thoại, tấm gương tiêu biểu; logo; khẩu hiệu; 
ấn phẩm; trang phục. Đó không phải là những 
cái ngẫu nhiên có sẵn mà phải trải qua một 
quá trình tìm tòi, lựa chọn, xây dựng lâu dài để 
những yếu tố đó phù hợp với điều kiện và đặc 
điểm của doanh nghiệp đồng thời mang bản 
sắc riêng, đặc trưng cho doanh nghiệp ấy.
Năm là, nhân cách của người lãnh đạo 
doanh nghiệp. Nếu ví doanh nghiệp như một 
con tàu thì doanh nhân đóng vai trò như một 
thuyền trưởng. Nói cách khác, doanh nhân là 
đầu não của doanh nghiệp và là người góp 
phần chính tạo nên VHDN. Vai trò của doanh 
nhân đặc biệt quan trọng trong việc tuyển 
dụng, tổ chức và truyền cảm hứng. Doanh 
Số 4 - Tháng 6 - 201360
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhân cần truyền cảm hứng vào những nhóm 
người cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu phát 
triển doanh nghiệp. 
Có thể doanh nhân không liên tục có mặt, 
tham gia trực tiếp vào hoạt động của công 
ty, nhưng khi cần thiết, đặc biệt là những lúc 
khó khăn, họ luôn là chỗ dựa vững chắc cho 
cả công ty. Do đó, không thể phủ nhận được 
tác động tỷ lệ thuận giữa nhân cách doanh 
nhân và VHDN. VHDN phản ánh rõ văn hóa 
của người lãnh đạo doanh nghiệp. Họ không 
chỉ là người quyết định cơ cấu tổ chức và công 
nghệ của doanh nghiệp, mà còn là người sáng 
tạo ra các biểu tượng, ý thức, ngôn ngữ, niềm 
tin, nghi lễ và huyền thoại của doanh nghiệp. 
Qua quá trình hình thành và phát triển của 
doanh nghiệp, nhân cách người lãnh đạo sẽ 
là một thành tố quan trọng của VHDN. Những 
gì mà lãnh đạo quan tâm, khuyến khích thực 
hiện, cách thức mà người lãnh đạo đánh giá, 
khen thưởng hoặc khiển trách nhân viên đều 
ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi của toàn bộ 
nhân viên dưới quyền. Doanh nhân là người 
tạo ra môi trường cho các cá nhân khác phát 
huy tính sáng tạo, là người mang không gian 
tự do, bầu không khí ấm cúng đến cho doanh 
nghiệp. Họ đóng vai trò quyết định trong quá 
trình hình thành VHDN thông qua việc kết hợp 
hài hòa các lợi ích để doanh nghiệp trở thành 
ngôi nhà chung.
3. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp để nâng 
cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững 
các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
Để phát triển du lịch, người ta phải xác định 
rõ vai trò, vị trí của mỗi thành phần cấu thành 
ngành du lịch và mối quan hệ giữa các thành 
phần này. Một trong những thành phần có vai 
trò quan trọng bậc nhất, chiếm vị trí trung tâm 
đặc trưng cho ngành kinh doanh du lịch đó là 
bộ phận kinh doanh lữ hành. Các công ty kinh 
doanh lữ hành chính là cầu nối giữa cung và 
cầu trong du lịch, là loại hình doanh nghiệp 
không thể thiếu và góp phần quan trọng trong 
sự phát triển của ngành du lịch. Kinh doanh lữ 
hành một mặt rất nhạy cảm trong mỗi biến 
động của thị trường, mặt khác nó mang tính 
toàn quốc, khu vực và toàn cầu hoá cao. Vì vậy, 
các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành dù lớn 
hay nhỏ, mạnh hay yếu đều phải đối mặt với 
tính biến động cao và phạm vi rộng của môi 
trường kinh doanh. Mối quan tâm hàng đầu 
của các công ty kinh doanh lữ hành là làm thế 
nào tạo ra sự khác biệt để thu hút khách hàng 
đến với công ty của mình. Vì vậy, trong các 
công ty kinh doanh du lịch thì xây dựng VHDN 
có vai trò đặc biệt quan trọng.
3.1. Văn hóa doanh nghiệp góp phần 
nâng cao sức cạnh tranh
Nâng cao sức cạnh tranh chủ yếu về chất 
lượng sản phẩm. Sản phẩm của các doanh 
nghiệp kinh doanh lữ hành chủ yếu là chương 
trình du lịch. Chất lượng của sản phẩm lữ hành 
được tạo ra bởi rất nhiều yếu tố:
Thứ nhất, là chất lượng phục vụ của doanh 
nghiệp kinh doanh lữ hành.
Thứ hai, là chất lượng dịch vụ hàng hóa của 
các nhà cung cấp cho các doanh nghiệp kinh 
doanh lữ hành.
Thứ ba, là sự thỏa mãn nhu cầu của người 
tiêu dùng sản phẩm lữ hành (sự thỏa mãn nhu 
cầu này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố 
tâm lý cá nhân và đặc điểm tâm lý xã hội trong 
tiêu dùng của khách du lịch).
Trong các yếu tố trên thì chất lượng của 
nhà cung cấp dịch vụ và sự thỏa mãn của 
người tiêu dùng là chung cho tất cả các doanh 
nghiệp lữ hành, còn chất lượng phục vụ của 
doanh nghiệp lữ hành mới là yếu tố cạnh tranh 
để khách du lịch chọn mua chương trình du 
lịch của công ty lữ hành nào. Chất lượng phục 
vụ tốt sẽ tạo nên thương hiệu mạnh cho các 
doanh nghiệp lữ hành. Thương hiệu được 
duy trì bởi năng lượng bên trong chính là văn 
61Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hóa. Không nên chỉ coi thương hiệu là cái tên 
gọi hoặc dấu hiệu nào đó gắn cho sản phẩm 
hay dịch vụ. Thương hiệu thể hiện ý nghĩa, 
những lợi ích, sự mong muốn của khách hàng 
về giá trị; thể hiện tính văn hóa, sự quyến rũ, 
đạo đức, phong cách, nét biểu hiện đặc trưng 
của doanh nghiệp, sự tin tưởng, khát vọng; 
thể hiện tính truyền thống khi sử dụng sản 
phẩm hay dịch vụ đó. Lý do để khách du lịch 
mua hàng hóa hay dịch vụ của một công ty là 
vì trong thương hiệu của công ty đã bao hàm 
giá trị, sự chấp nhận và cả sự trung thành của 
khách hàng đối với hàng hóa hay dịch vụ đó. 
Trong thương hiệu hàm chứa những giá trị 
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, không 
ngừng được phát triển gắn với chất lượng sản 
phẩm. Điều quan trọng nhất là phải xây dựng 
thương hiệu từ bên trong, do đó phải xây 
dựng VHDN. Thương hiệu biểu hiện cho uy tín, 
chất lượng của doanh nghiệp. VHDN là yếu tố 
không thể thiếu trong quá trình hình thành 
thương hiệu của doanh nghiệp lữ hành. VHDN 
sẽ tạo ra lòng tin cho du khách khi quyết định 
mua sản phẩm của doanh nghiệp lữ hành, mặc 
dù sản phẩm đó là trừu tượng, không nhìn 
thấy được khi chưa tiêu dùng. VHDN mang 
đến cho du khách những giá trị phù hợp với 
những gì mà họ mong muốn thông qua việc 
tiêu dùng các chương trình du lịch. Nhắc đến 
thương hiệu trong kinh doanh du lịch là nhắc 
đến hình ảnh của chính doanh nghiệp đó đã 
tạo dựng được trong lòng du khách và đặt 
được niềm tin của du khách vào chất lượng 
sản phẩm. Khách du lịch tiêu dùng sản phẩm 
lữ hành và nếu thỏa mãn về sản phẩm thì sẽ 
tiếp tục mua lần sau hoặc giới thiệu cho các du 
khách khác, tức là tạo ra lòng trung thành của 
khách với sản phẩm và thương hiệu của doanh 
nghiệp lữ hành. Dựa trên cơ sở này, chúng ta 
có thể đánh giá hình ảnh thương hiệu và bản 
sắc thương hiệu của doanh nghiệp. Các doanh 
nghiệp lữ hành phải có uy tín và danh tiếng 
mới thu hút được nhiều khách du lịch tiềm 
năng và giữ được khách du lịch truyền thống. 
Thực tiễn trong hoạt động kinh doanh hiện 
nay, các tập đoàn lữ hành có thương hiệu nổi 
tiếng đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường khách 
du lịch của khu vực và trên thế giới. Xây dựng 
tốt VHDN sẽ tạo ra những thương hiệu mạnh, 
khi thương hiệu đã hình thành và được khẳng 
định thì nó trở thành tài sản vô cùng quý giá 
để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh đạt 
hiệu quả cao.
3.2. Văn hóa doanh nghiệp tạo nên sự 
phát triển bền vững
Kinh doanh lữ hành là sự liên kết những 
sản phẩm mang tính đơn lẻ của các nhà cung 
cấp độc lập thành những sản phẩm mang tính 
trọn vẹn, bán với giá gộp cho khách, đồng thời 
làm gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm cho 
người tiêu dùng thông qua sức lao động của 
các chuyên gia marketing du lịch, điều hành 
chương trình du lịch và các hướng dẫn viên. 
Như vậy, để tạo nên các chương trình du lịch, 
không thể sản xuất bằng máy móc mà là sự 
liên kết chặt chẽ của những người cùng làm 
trong doanh nghiệp từ khâu thiết kế đến khâu 
thực hiện. Sự liên kết chặt chẽ đó đã tạo nên 
các chương trình du lịch hấp dẫn, tạo nên sự 
phát triển bền vững cho doanh nghiệp. 
Phát triển bền vững luôn là mục đích cần 
hướng tới của các doanh nghiệp vì mục đích 
kinh doanh của họ là hướng tới đáp ứng 
các nhu cầu của con người. Bản sắc của một 
doanh nghiệp thể hiện qua phong cách gây ấn 
tượng mạnh cho người ngoài và niềm tự hào 
của các thành viên. Những giá trị chung của 
doanh nghiệp làm cho họ gắn bó với doanh 
nghiệp. Những yếu tố tạo nên VHDN như tập 
tục, thói quen, nghi lễ, cách họp hành, đào tạo, 
giáo dục, tuyên truyền, huyền thoại về những 
người sáng lập ra doanh nghiệp... sẽ có ảnh 
hưởng sâu sắc đến các thành viên, làm cho họ 
gắn bó suốt đời với doanh nghiệp. Đây cũng là 
những yếu tố góp phần làm cho doanh nghiệp 
phát triển bền vững.
Số 4 - Tháng 6 - 201362
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Nếu VHDN được xây dựng tốt thì các thành 
viên sẽ nhận thức rõ được vai trò của họ trong 
tổ chức, họ sẽ làm việc vì những mục tiêu 
chung. Họ thấy gắn bó lâu dài và trung thành 
với doanh nghiệp. Họ có hứng thú làm việc 
trong một môi trường doanh nghiệp mà họ 
cảm nhận thấy thân thuộc. Bầu không khí này 
sẽ tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành 
viên, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cá nhân và 
lợi ích tập thể. Đây là điểm mấu chốt tạo ra giá 
trị bền vững. 
Quá trình phát triển của doanh nghiệp 
không phải lúc nào cũng bằng phẳng, mọi việc 
diễn ra không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Các 
thành viên trong doanh nghiệp đều có những 
điểm khác biệt nên rất dễ xảy ra mâu thuẫn và 
xung đột, lúc này VHDN với hệ thống giá trị, 
chuẩn mực chung đã được các thành viên chia 
sẻ sẽ đóng vai trò then chốt trong việc giải 
quyết tận gốc rễ những vấn đề xung đột và 
mâu thuẫn, tạo tiền đề cho doanh nghiệp phát 
triển bền vững. VHDN sẽ thu hút và giữ chân 
nhân tài, phát huy năng lực, tăng hiệu quả làm 
việc, phát huy vai trò sáng tạo của các thành 
viên để họ sẵn sàng thể hiện khát vọng vươn 
tới và mạnh dạn đề xuất những ý tưởng mới 
mà không sợ thất bại. VHDN sẽ nâng cao khả 
năng giải quyết vấn đề và nghệ thuật giao tiếp 
ứng xử - một trong những yếu tố quan trọng 
bậc nhất trong các doanh nghiệp kinh doanh 
lữ hành. Để xây dựng doanh nghiệp bền vững, 
cần phải xây dựng được những nguyên tắc 
ứng xử trong nội bộ phù hợp với VHDN, mang 
đặc điểm riêng của doanh nghiệp, đồng thời 
phù hợp với văn hóa ứng xử của cộng đồng. Sự 
phát triển của doanh nghiệp phải gắn liền với 
việc xây dựng, củng cố các mối quan hệ trong 
nội bộ doanh nghiệp, chỉ khi đó doanh nghiệp 
mới phát triển bền vững. 
Kết luận
Hiện nay nhận thức của các nhà quản lý 
và cộng đồng về VHDN còn nhiều mơ hồ, vẫn 
chưa có sự thống nhất về khái niệm VHDN, cấu 
trúc cũng như vai trò của nó đối với sự phát 
triển của doanh nghiệp. Quá trình xây dựng 
và áp dụng VHDN còn gặp rất nhiều khó khăn. 
Để tạo thế chủ động trong hội nhập kinh tế 
khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp cần xây 
dựng cho mình một hệ giá trị văn hóa riêng 
để mạnh dạn bước vào thị trường cạnh tranh 
quyết liệt. Các doanh nghiệp kinh doanh lữ 
hành không nằm ngoài xu thế đó. Bài toán đặt 
ra cho các nhà kinh doanh lữ hành là làm thế 
nào để ngày càng thu hút khách du lịch đến 
với doanh nghiệp mình. VHDN chính là nhân 
tố đặc biệt góp phần quan trọng để thu hút du 
khách. Tuy nhiên, việc xây dựng VHDN mạnh 
trong các công ty kinh doanh lữ hành vẫn 
đang là một vấn đề khó khăn và đầy thử thách.
 N.T.K.T
(Ths, GV Khoa Văn hóa du lịch)
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Minh Cương (2000), Văn hóa và triết lý 
kinh doanh, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội.
2. Trần Quốc Dân (2008), Doanh nghiệp, doanh 
nhân và văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Dương Thị Liễu (chủ biên) (2009), Văn hóa 
kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Mạnh, Phạm Hồng Chương 
(2009), Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành, 
Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Mạnh Quân (2007), Giáo trình Đạo 
đức kinh doanh và văn hóa công ty, Nxb Đại học 
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
 Ngày nhận bài: 12/4/2012
Ngày phản biện, đánh giá: 27/5/2013
Ngày chấp nhận đăng: 10/6/2013

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_doanh_nghiep_yeu_to_nang_cao_suc_canh_tranh_va_phat.pdf