Vấn đề thờ cúng tổ tiên của tín đồ công giáo người Việt

Bài viết dựa trên những tư liệu lịch sử kết hợp với tư liệu điền dã dân tộc học qua nghiên cứu trường hợp giáo xứ Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để trình bày những thăng trầm trong việc thờ cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt. Sau những cuộc tranh cãi về vấn đề “nghi lễ Phương Đông”, Giáo hội Công giáo quyết định cấm tín đồ Á Châu thờ cúng tổ tiên theo phong tục bản xứ. Mặc dù bị cấm đoán nhưng giáo dân Việt Nam vẫn luôn tìm mọi cách để duy trì việc thờ cúng tổ tiên. Từ đó cho thấy vị trí của phong tục này trong đời sống của tín đồ. Cộng đồng Công giáo người Việt tiếp nhận văn hóa tôn giáo Châu Âu nhưng luôn lưu giữ một cách bền chặt các giá trị văn hóa truyền thống của mình. Sau Công đồng Vatican II, việc thờ cúng tổ tiên được chính thức hóa bằng các nghi lễ chính danh Công giáo bên cạnh các nghi thức truyền thống của người Việt.

pdf 30 trang thom 04/01/2024 2080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vấn đề thờ cúng tổ tiên của tín đồ công giáo người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề thờ cúng tổ tiên của tín đồ công giáo người Việt

Vấn đề thờ cúng tổ tiên của tín đồ công giáo người Việt
Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 65 
NGUYỄN KHÁNH DIỆP* 
VẤN ĐỀ THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA TÍN ĐỒ CÔNG GIÁO 
NGƯỜI VIỆT 
Tóm tắt: Bài viết dựa trên những tư liệu lịch sử kết hợp với tư liệu 
điền dã dân tộc học qua nghiên cứu trường hợp giáo xứ Lộc Hòa, 
xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để trình bày những 
thăng trầm trong việc thờ cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo người 
Việt. Sau những cuộc tranh cãi về vấn đề “nghi lễ Phương Đông”, 
Giáo hội Công giáo quyết định cấm tín đồ Á Châu thờ cúng tổ tiên 
theo phong tục bản xứ. Mặc dù bị cấm đoán nhưng giáo dân Việt 
Nam vẫn luôn tìm mọi cách để duy trì việc thờ cúng tổ tiên. Từ đó 
cho thấy vị trí của phong tục này trong đời sống của tín đồ. Cộng 
đồng Công giáo người Việt tiếp nhận văn hóa tôn giáo Châu Âu 
nhưng luôn lưu giữ một cách bền chặt các giá trị văn hóa truyền 
thống của mình. Sau Công đồng Vatican II, việc thờ cúng tổ tiên 
được chính thức hóa bằng các nghi lễ chính danh Công giáo bên 
cạnh các nghi thức truyền thống của người Việt. 
Từ khóa: Công giáo, người Việt, thờ cúng, tổ tiên. 
Dẫn nhâp̣ 
Thờ cúng tổ tiên thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn, ăn quả 
nhớ kẻ trồng cây” của người Việt đã tồn tại từ rất lâu đời trong đời sống 
tinh thần của người Việt. Tập quán này càng được củng cố vững chắc khi 
Khổng giáo du nhập vào Việt Nam với việc đề cao chữ hiếu. Đến thế kỷ 
XV, nhà Lê đã thể chế hóa việc thờ cúng tổ tiên qua luật Hồng Đức. Bộ 
luật quy định con cháu phải thờ cúng tổ tiên 5 đời, ruộng hương hỏa mà 
tổ tiên để lại hoặc cơ sở kinh tế để có kinh phí thờ cúng tổ tiên thì con 
cháu không được bán, tội bất hiếu được quy định là một trong mười tội 
ác1. Đến thời nhà Nguyễn, những nghi lễ thờ cúng tổ tiên được quy định 
khá chi tiết trong sách Thọ Mai Gia Lễ do Hồ Sĩ Tân chép lại. 
Thờ cúng tổ tiên ít được xem là tôn giáo chủ lưu, nhưng hầu như mọi 
người Việt đều có niềm tin và thực hành nghi lễ thể hiện niềm tin này. Các 
* Nghiên cứu sinh Trường ĐHKHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh. 
66 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
tôn giáo từ bên ngoài khi du nhập vào Việt Nam đều phải tìm cách ứng xử 
với việc thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam. Có tôn giáo tiếp nhận việc 
thờ cúng tổ tiên một cách nhanh chóng, hài hòa, nhưng cũng có tôn giáo 
tiếp nhận và hợp thức việc thờ cúng tổ tiên đầy gian nan và thử thách, 
Công giáo là một ví dụ. Bài viết này trình bày những thăng trầm trong việc 
thờ cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt. 
1. Thờ cúng tổ tiên - Cội nguồn văn hóa dân tộc 
Thừa sai Alexandre de Rhodes khi truyền giáo tại Việt Nam đã nhận 
xét về phong tục thờ cúng tổ tiên “Trong khắp cõi đất có người ở này, có 
lẽ không có nước nào trọng kính và tôn sùng hồn và xác người quá cố 
bằng dân nước Annam”2. Nhận định cho thấy, thờ cúng tổ tiên đã trở 
thành một phong tục không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mọi 
người Việt. Nói đến thờ cúng tổ tiên là nói đến cội nguồn văn hóa của 
người Việt, trong đó giá trị “hiếu” là giá trị đạo đức cơ bản của mỗi 
người. Phan Kế Bính cho rằng “Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là 
thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ 
của con người”3. Đạo hiếu dạy cho mỗi cá nhân về bổn phận của người 
làm con cháu phải có hiếu với ông bà cha mẹ của mình khi còn sống cũng 
như khi họ đã qua đời, phải đáp đền những công lao mà ông bà cha mẹ đã 
để lại cho con cháu. Từ giá trị đạo hiếu dẫn đến vai trò cố kết các thành 
viên trong gia đình và cộng đồng của phong tục thờ cúng tổ tiên. 
Lý thuyết Chức năng - Cấu trúc của Radcliffe-Brown cho rằng chức 
năng của một tập tục là vai trò mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự toàn 
vẹn của hệ thống xã hội, là sự đóng góp của nó vào đời sống liên tục của 
“cơ thể xã hội”4. Quan điểm của Radcliffe-Brown dựa trên lý thuyết của 
Émile Durkheim cho rằng tôn giáo của một dân tộc vừa phản ánh cấu 
trúc hệ thống xã hội của họ vừa có chức năng duy trì hệ thống đó trong 
tình trạng hiện tại của nó. Chức năng của tôn giáo là tạo ra những quy củ 
(áp đặt quy củ) và những cảm giác tích cực, gắn kết mọi người trong 
cùng cộng đồng, tạo và tái tạo sức sống di sản của nhóm người và truyền 
đạt giá trị cho thế hệ tiếp theo5. Bài viết vận dụng quan điểm của 
Radcliffe-Brown để nhìn nhận chức năng của phong tục thờ cúng tổ tiên 
trong việc duy trì sự toàn vẹn hệ thống xã hội của người Việt. Sự toàn 
vẹn thể hiện qua vai trò của phong tục này trong việc cố kết các thành 
viên trong gia đình, cộng đồng tạo nên sự ổn định của gia đình và xã hội. 
Tìm hiểu chức năng của phong tục thờ cúng tổ tiên để thấy được vị trí 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 67 
của phong tục này trong đời sống của người Việt. Từ đó lý giải việc tại 
sao tín đồ Công giáo người Việt dù bị cấm thờ cúng tổ tiên trong thời 
gian rất dài nhưng phong tục này không bị xóa bỏ hoàn toàn mà vẫn tồn 
tại trong đời sống tinh thần của tín đồ, cho đến khi được chính thức hóa 
sau Công đồng Vatican II. 
Thờ cúng tổ tiên thể hiện đạo hiếu từ xa xưa của người Việt, thể hiện 
truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là một giá trị thể hiện nhân cách 
con người. Đối với người Việt dù là thường dân hay là người đứng đầu 
quốc gia thì không có gì bất hạnh hơn khi con cháu của mình từ bỏ không 
thừa nhận ông bà tổ tiên. Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh khi thấy 
Hoàng tử Cảnh không lạy bàn thờ tổ tiên khi hoàng tộc tổ chức lễ giỗ tiên 
vương đã làm cho ông cảm thấy “rất đau khổ, tủi nhục và tức giận, vứt bỏ 
phẩm phục mũ miện, nói rằng ông là một người cha bất hạnh”6. Chính vì 
vậy, trong gia đình người Việt, con cháu từ khi còn nhỏ đã được giáo dục 
những đạo lý liên quan đến đạo hiếu, đạo thờ cúng tổ tiên. Những bài học 
này không phải qua sách vở, qua những đạo lý cao siêu mà từ những cách 
giáo dục rất gần gũi như những bài ca dao, bài hát ru con, những câu 
chuyện kể về truyền thống gia đình, công lao của các bậc tiền nhân hoặc 
qua việc thờ cúng tổ tiên hằng ngày trong mỗi gia đình. Từ đó tạo nên 
những tình cảm và ý thức của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ duy trì 
phong tục thờ cúng tổ tiên. 
Vì vậy, một trong những chức năng quan trọng của phong tục thờ 
cúng tổ tiên chính là việc truyền đạt các giá trị di sản của tộc người thể 
hiện qua việc giáo dục đạo đức trong gia đình, cộng đồng. Nhà nghiên 
cứu, Linh mục Cléopold Cadière cho rằng thờ cúng tổ tiên có chức năng 
“giáo dục luân lý cho các thành viên sống phải noi gương kẻ chết, mỗi 
thành viên phải chịu trách nhiệm về danh dự của tất cả”7. Thờ cúng tổ 
tiên có tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành những lối ứng xử, 
quan niệm đạo đức, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và tạo nên hệ giá 
trị chung cho cả cộng đồng. Đối với mỗi gia đình, thờ cúng tổ tiên thể 
hiện sự nhớ ơn của những người còn sống đến công lao của tổ tiên, qua 
đó các thành viên trong gia đình nhắc nhở con cháu nhớ đến tổ tiên, noi 
theo tấm gương đó mà sống đúng đạo làm người. Từ đó hình thành nên ý 
thức con cháu phải luôn giữ gìn gia phong mà ông bà tổ tiên để lại, không 
được làm những điều gì tổn hại đến thanh danh của tổ tiên. Đồng thời, 
việc thờ cúng cũng là một sự nhắc nhở những bậc cha mẹ ông bà đang 
còn sống phải luôn sống tốt vì khi họ chết đi vẫn còn có một mối liên hệ 
68 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
mật thiết với con cháu của mình. Nếu họ sống tốt thì con cháu sẽ được 
hưởng phúc đức bởi vì “cha mẹ ở hiền để đức cho con”, ngược lại nếu họ 
sống không tốt thì con cháu sẽ lãnh hậu quả “đời cha ăn mặn đời con khát 
nước”. Tác giả Đào Duy Anh có nhận xét xác đáng khi cho rằng “Người 
Việt chỉ trông cậy vào con cháu để lưu truyền nòi giống và tiếp nối sự 
nghiệp của tổ tiên... Sở dĩ làm việc thiện ở đời, sở dĩ có lúc hi sinh, không 
phải cốt cầu vĩnh phúc ở lai sinh như nhà Gia Tô giáo, cũng không mong 
giải thoát khỏi vòng luân hồi như nhà Phật giáo, mà chỉ cốt lưu chút phúc 
ấm cho con cháu về sau”8. Việc thờ cúng tổ tiên không chỉ đơn thuần 
giáo dục đạo hiếu cho con cháu mà còn giáo dục các bậc làm cha mẹ, ông 
bà phải luôn thể hiện trách nhiệm của mình, phải sống tốt để làm gương 
cho con cháu, cũng là để sau này cho dù đã xa lìa dương thế rồi còn lưu 
lại danh thơm tiếng tốt cho con cháu được tự hào, được phúc ấm. 
Qua mỗi dịp tổ chức cúng giỗ, định chế đại gia đình được duy trì, con 
cháu từ nhiều nơi sinh sống cùng tụ họp, mối thân tình được củng cố, 
những giá trị di sản của thế hệ trước được truyền lại cho các thế hệ sau. 
Từ đó tạo nên sự cố kết bền chặt giữa các cá nhân trong gia đình và dòng 
tộc. Linh mục Cléopold Cadière cho rằng thờ cúng tổ tiên “đóng vai trò 
quan trọng trong việc duy trì mối liên kết chặt chẽ giữa các thành viên 
của một họ”9. Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cũng cho rằng “thờ cúng tổ tiên 
chiếm một vị trí đặc biệt trong việc gắn kết gia đình”10. 
Vai trò giáo dục của phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt không 
chỉ dừng lại trong việc giáo dục những người có cùng quan hệ huyết 
thống mà còn tác động đến giá trị đạo lý của cộng đồng. Nguyễn vương 
Nguyễn Phúc Ánh khẳng định việc thờ cúng tổ tiên là một trong những 
căn bản của nền giáo dục quốc gia11. Mỗi dịp giỗ tổ Hùng Vương, thờ 
cúng các anh hùng đã hi sinh, đóng góp công sức cho đất nước, những vị 
có tài đức được xã hội tôn trọng hay lễ giỗ tổ nghề là cách giáo dục cho 
cộng đồng đạo lý “uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo” của người 
Việt. Từ đó giúp mỗi người hiểu được nguồn cội, lịch sử của tộc người, 
của đất nước, tạo nên tâm lý học tập, noi gương, phấn đấu cho xứng đáng 
với truyền thống mà ông cha đã để lại. Bác Hồ nói “các vua Hùng đã có 
công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, là một lời 
kêu gọi trách nhiệm của cá nhân phải sống xứng đáng với truyền thống 
của cha ông để lại. Câu nói rất đơn giản nhưng qua đó cho thấy tính kế 
thừa trong việc truyền đạt di sản tộc người từ thế hệ này qua thế hệ khác 
của phong tục thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt khi đất nước gặp lâm nguy, xã 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 69 
hội bị chia rẽ thì tính kế thừa này phát huy vai trò của nó trong việc cố 
kết cộng đồng, duy trì sự đoàn kết xã hội. 
Tác giả Will Durant khi nghiên cứu về phong tục thờ cúng tổ tiên 
của người Trung Quốc, cho rằng “phong tục này làm cho chế độ chính 
trị được vững, phong tục tinh thần dân tộc được tiếp tục từ đời này qua 
đời khác... Nhờ sự thống nhất mạnh mẽ về tinh thần mà thế hệ sau ràng 
buộc với thế hệ trước bằng truyền thống và đời sống cá nhân hóa ra cao 
thượng lên vì dựa vào lịch sử tôn nghiêm của nòi giống”12. Nhận định 
của Will Durant cũng phù hợp đối với người Việt, phong tục thờ cúng 
tổ tiên đã tạo nên một hệ giá trị đạo đức thống nhất cho cả cộng đồng 
người Việt, chi phối đến hành vi ứng xử của cả cộng đồng. Mỗi người 
Việt dù sống ở những vùng miền khác nhau, có những nét văn hóa tôn 
giáo khác nhau nhưng đều chia sẻ cùng một giá trị đạo hiếu từ phong 
tục thờ cúng tổ tiên. Mỗi dịp lễ giỗ là cả cộng đồng cùng nhau tổ chức 
tưởng nhớ đến công lao của bậc tiền nhân, cùng nhau chia sẻ thừa 
hưởng những thành quả của ông cha để lại và cùng nhau lưu giữ những 
di sản cũng như tiếp tục phát huy những giá trị mới xứng đáng với 
những công lao mà thế hệ đi trước đã để lại. Từ đó làm cho mọi người 
trở nên gần gũi, gắn bó với nhau, góp phần xóa mờ những khác biệt 
giữa các cộng đồng người Việt theo các tôn giáo khác nhau, tạo nên sự 
đoàn kết tộc người trong quốc gia, duy trì sự toàn vẹn của hệ thống xã 
hội. Tác giả Đặng Nghiêm Vạn khẳng định “thờ cúng tổ tiên củng cố sự 
thống nhất của cộng đồng, kết nối tộc người từ trong quá khứ hiện tại 
và cả tương lai”13. Ngoài ra, thờ cúng tổ tiên còn cố kết cộng đồng tôn 
giáo văn hóa bản địa và ngoại lai “là sức thu hút, thậm chí là yếu tố cấu 
thành, thiếu nó các tôn giáo ngoại sinh trở thành xa lạ”14. 
Đối với người Việt, thờ cúng tổ tiên còn thể hiện niềm tin tôn giáo qua 
quan niệm của họ về thế giới người sống và người chết. Người Việt khi 
được hỏi theo đạo gì họ thường nói là theo Đạo Ông Bà. Thờ cúng tổ tiên 
không có tổ chức giáo hội với hàng giáo phẩm, giáo lý để ràng buộc cá 
nhân về mặt giáo luật, tuy nhiên hầu như tất cả mọi người Việt đều thờ 
cúng tổ tiên và thể hiện niềm tin vào đó. Đối với người Việt việc thờ 
cúng tổ tiên không chỉ thể hiện đạo hiếu mà còn là niềm tin tôn giáo về 
một thế giới giữa người sống và người chết. Người Việt tin rằng, ông bà 
tổ tiên dù có sang thế giới bên kia nhưng vẫn dõi theo con cháu, vẫn còn 
hiện diện nơi con cháu, nơi gia đình, nơi bàn thờ, nơi bài vị, nơi từ đường 
trong gia đình để luôn ở với con cháu, phù hộ cho con cháu. Người Việt 
70 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
khi gặp chuyện gì may mắn hạnh phúc, thường nói với nhau đó là nhờ 
phúc đức tổ tiên để lại. Con cháu nhờ ơn ông bà tổ tiên mà được sống tốt, 
hạnh phúc, được nên thân nên người, ăn nên làm ra, công thành danh 
toại, gia đình đầm ấm, tai qua nạn khỏi. 
Linh mục Cléopold Cadière đã cho rằng “đối với người Việt thì không 
thể cho rằng họ lại không tin vào sự trường tồn hoặc hiện diện thật sự của 
tổ tiên trong các bài vị hoặc gán cho họ những quyền lực siêu nhiên”15. 
Ông kể lại câu chuyện cứu giúp một bà bị cướp giữa đường, khi được 
ông cứu, bà ta đã nói “Thưa cha, nhờ phước ông bà mà trên đường lại 
được gặp cha”16. Trong tâm thức người Việt những điều tốt đẹp mà họ có 
được dường như đều là nhờ phúc đức của ông bà tổ tiên để lại. Vì vậy, 
việc thờ cúng tổ tiên không chỉ là mang ý nghĩa thể hiện tấm lòng hiếu 
thảo của con cháu đối với cha mẹ ông bà tổ tiên đã qua đời mà còn thể 
hiện niềm tin vào người quá cố. 
Niềm tin vào việc thờ cúng tổ tiên không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh 
của cá nhân mà còn tạo nên tính chất bền vững cho sự cố kết về mặt tinh 
thần của cộng đồng như quan điểm của Émile Durkheim: “Tôn giáo là 
một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành 
liên quan đến những điều thiêng liêng, gắn bó tất cả những ai gia nhập 
vào một cộng đồng tinh thần đó”17. 
Đối với người Việt theo Công giáo, trước khi là tín đồ họ đã là người 
Việt, đã mang trong mình dòng máu văn hóa truyền thống của người 
Việt. Cho dù có theo Công giáo thì đối với giáo dân, đạo hiếu vẫn là giá 
trị đạo đức hàng đầu, hiếu kính là bổn phận mà bất cứ người làm con nào 
cũng phải chu toàn đối với cha mẹ của mình. Việc thờ cúng tổ tiên cũng 
chính là để thể hiện lòng hiếu kính của mình. Theo quan niệm của tín đồ 
giáo xứ Lộc Hòa thì: 
“Thờ cúng tổ tiên là cái rất tốt, là thảo hiếu cha mẹ, thảo kính ông bà, 
là việc làm người Việt Nam tôn trọng nhất, ông bà tổ tiên là những người 
quá cố đương nhiên phải nhớ đến hàng ngày”. (Nam giới, 80 tuổi, trích 
phỏng vấn tháng 7/2012). 
Quan niệm của họ cũng giống như quan niệm của bao người Việt 
khác, thờ cúng tổ tiên là thể hiện chữ hiếu, nhớ đến công ơn sinh thành 
dưỡng dục của cha mẹ; là thể hiện sự gắn bó không cắt đứt mối dây liên 
hệ của con cháu với ông bà tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên đã ăn sâu vào trong 
máu thịt của mỗi người Việt Nam, người Công giáo không là ngoại lệ. 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 71 
Tín đồ Công giáo đều thừa nhận rằng, mỗi dịp giỗ chạp tạo nên sự kết 
nối các thành viên trong gia đình. Cho nên dù h ... giáo sỹ 
của các dòng truyền giáo khác lại không quan tâm đến điều đó mà họ 
muốn áp đặt ngay những quan niệm giá trị văn hóa, tôn giáo của người 
Phương Tây vào cuộc sống của người dân Annam. Họ chỉ nhìn thấy cái 
vỏ bề ngoài mê tín dị đoan của các nghi lễ mà không hiểu được giá trị 
nhân văn, ý nghĩa xã hội của việc thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng có 
công với đất nước, cũng không hiểu truyền thống tôn sư trọng đạo qua 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 89 
việc thờ cúng tổ nghề và danh nhân văn hóa. Vì vậy, các giáo sỹ đã ngăn 
cấm các nghi thức vì sợ làm lu mờ đức tin Công giáo. Tòa Thánh Roma 
đã dựa vào những lời phản đối nghi lễ Phương Đông chiếm đa số trong 
các dòng truyền giáo cũng như những ý kiến của những nhà thần học chỉ 
ngồi nghiên cứu lý thuyết thần học trong phòng kín mà không có những 
trải nghiệm thực tế tại các xứ Phương Đông để đưa ra những phán quyết 
sai lầm. 
Trong đời sống tinh thần của tín đồ người Việt, việc thờ cúng tổ tiên 
dường như bị lãng quên trong một thời gian dài vì các lệnh cấm, nhưng 
đó chỉ là việc lãng quên về các nghi lễ thờ cúng theo truyền thống biểu 
hiện bên ngoài còn trong tâm tư tình cảm của tín đồ thì phong tục này 
chưa bao giờ bị mất đi hoàn toàn. Giáo dân đã trình bày những tâm tư 
tình cảm, mong muốn của mình với Hội Thánh đối với việc được duy trì 
việc thờ cúng tổ tiên. Dù không được trả lời nhưng giáo dân Việt Nam 
cũng không thụ động tuân theo một cách máy móc những quyết định của 
Tòa Thánh. Giáo dân luôn có những cách riêng để tưởng nhớ đến tổ tiên 
theo nghi thức truyền thống, đồng thời cầu nguyện cho tổ tiên theo nghi 
lễ của Công giáo. 
Trước những thực tế diễn ra trong đời sống của tín đồ các xứ Phương 
Đông cũng như những thay đổi của tình hình thế giới và thực trạng của 
những vấn đề mà Giáo hội đang gặp phải đã làm cho những người đứng 
đầu Tòa Thánh Roma nhận ra sai lầm của mình trong các quyết định 
trước đây trong đó có việc cấm tín hữu thờ cúng tổ tiên theo nghi lễ 
truyền thống của dân tộc họ. Những sai lầm này không chỉ gây thiệt hại 
cho mong ước đem Tin Mừng đến các vùng ngoài Châu Âu mà còn làm 
tổn thương đến những giá trị văn hóa tinh thần của các tín đồ Công giáo 
tại các vùng truyền giáo. 
Sau nhiều thế kỷ, tín đồ người Việt như được trút bỏ gánh nặng về mặt 
tâm linh, họ không còn phải day dứt với việc bị cho là những người 
không thờ cúng tổ tiên, cũng không còn là những người xa lạ trên quê 
hương mình. Các tín hữu Việt Nam đang ra sức xây dựng hình ảnh vừa 
làm sáng danh đức tin Công giáo vừa luôn giữ gìn bảo vệ các giá trị chân, 
thiện, mỹ của nền văn hóa dân tộc, trong đó có giá trị văn hóa tốt đẹp của 
thờ cúng tổ tiên. Giáo hội Việt Nam cũng luôn cố gắng để xây dựng một 
giáo hội phục vụ cho đời sống tinh thần của giáo dân Việt Nam. Giáo hội 
luôn cố gắng đem lại những điều tốt đẹp nhất không chỉ cho tín hữu của 
90 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
mình mà còn mong muốn góp phần cùng xây dựng xã hội Việt Nam 
trong sự đoàn kết tôn giáo, chung tay xây dựng đất nước phát triển với 
tinh thần “Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam” và “Sống Phúc Âm 
giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”55./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Viện Sử học (1995), Quốc triều hình luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội: 37, 148. 
2 Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Người dịch: 
Hồng Nhuệ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Tp. Hồ Chí Minh: 51. 
3 Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 26. 
4 Robert Layton (2015), Nhập môn lý thuyết nhân học, Người dịch: Phan Ngọc Chiến, 
Người hiệu đính: Lương Văn Hy, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh: 52. 
5 Lương Văn Hy (2015), Chuyên đề: Lịch sử lý thuyết nhân học, Khoa Nhân học, 
Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh, Tài liệu giảng dạy. 
6 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 131. 
7 Cléopold Cadière (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, tập 
1, Người dịch: Đỗ Trinh Huệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế: 102. 
8 Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thế giới, Hà Nội: 296. 
9 Cléopold Cadière (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, tập 
1, Người dịch: Đỗ Trinh Huệ, Nxb.Thuận Hóa, Huế: 51. 
10 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 317. 
11 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Nxb. TP. Hồ Chí Minh: 132. 
12 Will Durant (2013), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Người dịch: Nguyễn Hiến Lê, 
Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh: 283. 
13 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 317. 
14 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, 
Sđd: 347. 
15 Cléopold Cadière (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, tập 
1, Sđd: 64. 
16 Cléopold Cadière (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, tập 
1, Sđd: 62. 
17 Émile Durkheim, “Định nghĩa hiện tượng tôn giáo và về tôn giáo”, Người dịch: 
Đào Hùng, Người hiệu đính: Nguyễn Kim Hiền, trong: Hội Khoa học Lịch sử 
Việt Nam (2006), Những vấn đề Nhân học Tôn giáo, Nxb. Đà Nẵng: 60. 
18 Hồng Nhuệ (2001), Văn thư quốc ngữ trong văn khố của Hội truyền giáo nước 
ngoài Paris, sao lục và giới thiệu, (Tài liệu bản thảo): 138. 
19 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2003), Kinh nghiệm hội nhập văn hóa trong nếp 
sống Kitô giáo tại Việt Nam, Lưu hành nội bộ: 178. 
20 Tòa Giám mục Huế, Bài giảng của Tổng giám mục trong cuộc tọa đàm về “Tôn 
kính tổ tiên” ngày 26/10/1999. 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 91 
21 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội: 560. 
22 Bùi Đức Sinh (1999), Lịch sử giáo hội Công giáo, phần nhì: cận kim và đương 
kim thời đại, Xuất bản lần thứ 6, Veritas Edition Calgary, Canada: 155. 
23 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội: 561. 
24 Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội: 496. 
25 Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển 1, các thừa sai 
Dòng Tên (1615-1663), Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội: 267. 
26 Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh trọn bộ Cựu Ước và 
Tân Ước, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 313. 
27 Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội: 482. 
28 Nguyễn Quang Hưng (2009), Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 
1883), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 110. 
29 Thư chọn trong các thư chung các đấng Vicario Afiostolico và Ricario dòng 
Duminhgo đã làm từ 1759 - 1903, In tại Kẻ Sặt năm 1903: 11 - 18. 
30 Nguyễn Quang Hưng (2009), Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 
1883), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 145 - 147. 
31 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội: 559. 
32 Phan Phát Huồn (1965), Việt Nam giáo sử (1533 - 1933), quyển 1, In lần thứ 2 ở 
Cứu thế tùng thư: 46. 
33 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Sđd: 527. 
34 Alexandre de Rhodes (1993), Phép giảng tám ngày, Người dịch: Hồng Nhuệ, Tủ 
sách Đại kết: 120 - 123. 
35 Alexandre de Rhodes (1994), Hành trình và truyền giáo, Người dịch: Hồng 
Nhuệ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo: 58 - 59. 
36 Trong thư của Giám mục Pigneau thuộc Hội Truyền giáo nước ngoài Paris gửi 
cho cha mẹ đẻ, nói về sứ mệnh truyền giáo khi đến Đàng Trong “con cảm thấy bị 
thôi thúc bên trong phải đi cứu giúp bao nhiêu người bất hạnh đang phó thác 
linh hồn cho quỷ lầm lạc và gian dối”. Xem: Trương Bá Cần (1992), Công giáo 
Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 1799), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 32. 
37 Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Sđd: 566. 
38 Trương Bá Cần, (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Sđd: 566. 
39 Nguyễn Quang Hưng (2008), “Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách của nhà 
nước Việt Nam đối với Công giáo nhìn từ góc độ văn hóa - tôn giáo”, Nghiên 
cứu tôn giáo, số 1: 27. 
40 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 104. 
41 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Sđd: 137. 
92 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
42 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 315. 
43 Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, Lịch sử 
- Hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 217. 
44 Lê Đức Hạnh (2008), Vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công giáo vùng đồng 
bằng Bắc Bộ Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Đại 
học Quốc gia Hà Nội: 88. 
45 Hồng Nhuệ (2001), Văn thư quốc ngữ trong văn khố của Hội truyền giáo nước 
ngoài Paris, sao lục và giới thiệu, (Tài liệu bản thảo): 138. 
46 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 131. 
47 Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Sđd: 132. 
48 Khoa nhân học (2013), Nhân học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí 
Minh: 40 - 42. 
49 Phan Phát Huồn (1965), Việt Nam giáo sử (1533 - 1933), quyển 1, In lần thứ 2 ở 
Cứu thế tùng thư: 200. 
50 Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 489. 
51 Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 490. 
52 Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Sđd: 244 
53 Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên, 1998), Địa chí văn hóa Thành phố 
Hồ Chí Minh, tập IV, tư tưởng và tín ngưỡng, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 461. 
54 Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 243. 
55 Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 237, 240. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 
2. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
3. Cléopold Cadière (2010), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, tập 
1, Người dịch: Đỗ Trinh Huệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 
4. Trương Bá Cần (1992), Công giáo Việt Nam thời Giám mục Pigneau (1771 - 
1799), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
5. Trương Bá Cần (2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội. 
6. Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615 - 1773, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội. 
7. Đỗ Quang Chính (2008), Tản mạn lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, Nxb. 
Tôn giáo, Hà Nội. 
Nguyêñ Khánh Diệ p. Vâń đê ̀thờ cúng tổ tiên... 93 
8. Émile Durkheim, “Định nghĩa hiện tượng tôn giáo và về tôn giáo”, Người dịch: 
Đào Hùng, Người hiệu đính: Nguyễn Kim Hiền, trong: Hội Khoa học Lịch sử 
Việt Nam (2006), Những vấn đề Nhân học Tôn giáo, Nxb. Đà Nẵng. 
9. Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, Lịch sử 
- Hiện tại và những vấn đề đặt ra, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
10. Giáo hoàng học viện Pio X (1972), Thánh công đồng chung Vaticano II, Hiến 
chế - Sắc lệnh - Tuyên ngôn, Đà Lạt. 
11. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên, 1998), Địa chí văn hóa Thành phố 
Hồ Chí Minh, tập IV, tư tưởng và tín ngưỡng, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
12. Lê Đức Hạnh (2008), Vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công giáo vùng đồng 
bằng Bắc Bộ Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Đại 
học Quốc gia Hà Nội. 
13. Nguyễn Hồng (2009), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển 1: Các thừa sai 
Dòng Tên (1615 - 1663), Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 
14. Phan Phát Huồn (1965), Việt Nam giáo sử (1533 - 1933), quyển 1, In lần thứ 2 ở 
Cứu thế tùng thư, Sài Gòn. 
15. Nguyễn Quang Hưng (2008), “Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách của nhà 
nước Việt Nam đối với Công giáo nhìn từ góc độ văn hóa - tôn giáo”, Nghiên 
cứu Tôn giáo, số 1: 24 - 33. 
16. Nguyễn Quang Hưng (2009), Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 
1883), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
17. Lương Văn Hy (2015), Chuyên đề: Lịch sử lý thuyết nhân học, Khoa Nhân học, 
Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh, Tài liệu giảng dạy. 
18. Khoa Nhân học (2013), Nhân học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. Hồ 
Chí Minh. 
19. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh. 
20. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Người dịch: Phan Ngọc 
Chiến, Nxb. Đại học Quốc gia. 
21. Hồng Nhuệ (2001), Văn thư quốc ngữ trong văn khố của Hội truyền giáo nước 
ngoài Paris, sao lục và giới thiệu, (Tài liệu bản thảo). 
22. Những thư chọn trong các thư chung các đấng Vicario Apostolico và Ricario 
dòng Duminhgo đã làm từ 1759 - 1903, 1903, In tại Kẻ Sặt. 
23. Alexandre de Rhodes (1994), Hành trình và truyền giáo, Người dịch: Hồng 
Nhuệ, Ủy ban Đoàn kết Công giáo, Tp. Hồ Chí Minh. 
24. Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Người dịch: 
Hồng Nhuệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
25. Bùi Đức Sinh (1999), Lịch sử giáo hội Công giáo, Xuất bản lần thứ 6, Veritas 
Edition Calgary, Canada. 
26. Maureen Sullivan (2004), 101 câu hỏi và trả lời về Công đồng Vatican II, Người 
dịch: Trương Văn Khoa, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
27. Cao Huy Thuần (2006), Tôn giáo và xã hội hiện đại, biến chuyển lòng tin ở 
Phương Tây, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 
28. Tòa Giám mục Huế, Bài giảng của Tổng giám mục trong cuộc tọa đàm về “Tôn 
kính tổ tiên” ngày 26/10/1999. 
29. Tòa Giám mục Xuân Lộc (2009), Hồng ân huấn giáo sống đạo, Nxb. Tôn giáo, 
Hà Nội. 
94 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
30. Tòa Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kinh thánh trọn bộ Cựu Ước và 
Tân Ước, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
31. Tư liệu điền dã của tác giả tại giáo xứ Lộc Hòa từ 2012-2016. 
32. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên, 1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, 
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
33. Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN (2004), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên 
giám 2004, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
34. Viện Sử học (1995), Quốc triều hình luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
Abstract 
ANCESTOR WORSHIP OF THE VIETNAMESE CATHOLICS 
Based on the historical materials in combination with the ethnographic 
fieldwork data collected in Lộc Hòa parish, Tây Hòa Commune, Trảng 
Bom District, Đồng Nai Province, the article presents the vicissitudes of 
the Vietnamese Catholics’ ancestor worship. After debates about the issue 
of the “Oriental Ritual”, the Catholic Church decided to ban the Asian 
believers from worshiping ancestors according to the native custom. The 
Vietnamese Catholics, however, managed to maintain ancestor worship. 
This reveals the important role of this custom in the Vietnamese Catholics’ 
life. Although the Vietnamese Catholics received the European religion 
and culture, they retained their traditional cultural values. After the Second 
Vatican Coucil, ancestor worship was formalized as one of the Catholic 
rites beside the Vietnamese traditional rites. 
Keywords: Catholicism, Vietnamese, ancestor, worship. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_tho_cung_to_tien_cua_tin_do_cong_giao_nguoi_viet.pdf