Vai trò của tầng lớp đia chủ trong công cuộc khai phá, bảo vệ vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII

Công cuộc khẩn hoang Nam Bộ trong suốt 2 thế kỷ (XVII–XVIII) có sự đóng góp tích

cực từ tầng lớp địa chủ. Với chính sách phù hợp của nhà Nguyễn, tầng lớp địa chủ ở Nam

Bộ tích cực mở cõi, khai phá vùng đất mới, phát triển kinh tế vùng đất mới, làm thành chỗ

dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn củng cố quyền lực, đồng thời cùng với chính quyền

từng bước xác lập và bảo vệ chủ quyền trên vùng đất mới. Địa chủ đã đóng vai trò quan

trọng trong toàn bộ quá trình khẩn hoang, mở mang bờ cõi, tạo dựng nên bộ mặt văn hóa

xã hội, thiết chế hành chính, chính trị xã hội của vùng đất Nam Bộ.

pdf 11 trang thom 04/01/2024 2260
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của tầng lớp đia chủ trong công cuộc khai phá, bảo vệ vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của tầng lớp đia chủ trong công cuộc khai phá, bảo vệ vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII

Vai trò của tầng lớp đia chủ trong công cuộc khai phá, bảo vệ vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII - XVIII
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 50 
VAI TROØ CUÛA TAÀNG LÔÙP ÑÒA CHUÛ 
TRONG COÂNG CUOÄC KHAI PHAÙ, BAÛO VEÄ VUØNG ÑAÁT 
NAM BOÄ THEÁ KYÛ XVII – XVIII 
Nguyeãn Thò AÙnh Nguyeät 
Tröôøng Ñaïi hoïc Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên (VNU–HCM) 
TÓM TẮT 
Công cuộc khẩn hoang Nam Bộ trong suốt 2 thế kỷ (XVII–XVIII) có sự đóng góp tích 
cực từ tầng lớp địa chủ. Với chính sách phù hợp của nhà Nguyễn, tầng lớp địa chủ ở Nam 
Bộ tích cực mở cõi, khai phá vùng đất mới, phát triển kinh tế vùng đất mới, làm thành chỗ 
dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn củng cố quyền lực, đồng thời cùng với chính quyền 
từng bước xác lập và bảo vệ chủ quyền trên vùng đất mới. Địa chủ đã đóng vai trò quan 
trọng trong toàn bộ quá trình khẩn hoang, mở mang bờ cõi, tạo dựng nên bộ mặt văn hóa 
xã hội, thiết chế hành chính, chính trị xã hội của vùng đất Nam Bộ. 
Từ khóa: địa chủ, Nam Bộ, khẩn hoang, kinh tế 
* 
Công cuộc khẩn hoang Nam Bộ kéo 
dài trong suốt 2 thế kỷ XVII – XVIII đã 
làm xuất hiện tầng lớp địa chủ. Cùng với 
những thành phần cư dân khác, địa chủ 
Nam Bộ đã đóng vai trò quan trọng trong 
toàn bộ quá trình khẩn hoang, mở mang bờ 
cõi. Dưới đây là những phân tích đánh giá 
bước đầu về một số vai trò của địa chủ 
Nam Bộ trong quá trình ấy. 
1. Tích cực trợ giúp chúa Nguyễn 
mở cõi, khai phá vùng đất mới 
Những lưu dân Việt đầu tiên vào Nam 
Bộ khẩn hoang trở thành những địa chủ đầu 
tiên trên vùng đất Nam Bộ giai đoạn nửa 
sau thế kỷ XVIII. Phong trào di dân tự phát 
vào Nam Bộ mạnh dần lên, đặt các chúa 
Nguyễn trước một thực tế cần phải có 
những chính sách, động thái tích cực để 
bảo vệ, trước hết là sinh mạng và quyền lợi 
của lưu dân Việt trên một vùng đất mà vào 
giai đoạn đó hoàn toàn chưa thuộc về chúa 
Nguyễn. Những động thái của các đời chúa 
Nguyễn trong việc bảo vệ lưu dân như can 
thiệp với quốc vương Chân Lạp để cho 
người Việt di dân khai khẩn đất hoang, đặt 
doanh binh hành tuần, đặt đồn thuế để bảo 
vệ dân Việt đều diễn ra khi giữa biên giới 
Đàng Trong và vùng đất mới Nam Bộ vẫn 
còn bị ngăn cách bởi vương quốc Chiêm 
Thành. Như vậy, chính những người tự 
phát di dân với các quyền lợi địa chủ mới 
của người Việt ở Nam Bộ đã tạo động lực 
cho các đời chúa Nguyễn nảy sinh ý tưởng 
và nhu cầu trách nhiệm phải tiếp thu, làm 
chủ vùng đất gần như vô chủ này sáp nhập 
vào lãnh thổ Việt Nam. 
Quá trình khai phá đất đai, một mặt 
biến những nông dân thiếu đất ở Đàng 
Trong thành những địa chủ ở Nam Bộ, mặt 
khác cũng giúp tạo dựng cơ sở hạ tầng, 
biến những vùng đất hoang hóa thành xóm 
làng, thôn ấp, tạo điều kiện cho chúa 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 51 
Nguyễn từng bước thiết lập các đơn vị hành 
chính lên vùng Nam Bộ. Mãi đến năm 
1698, Gia Định Phủ, đơn vị hành chính đầu 
tiên thuộc chúa Nguyễn mới được ra đời. 
Việc khẩn hoang, chiếm hữu đất đai tự phát 
của giới nông dân – địa chủ đã đi trước việc 
xác lập quyền thống trị nhà nước gần một 
thế kỷ. Trong quãng thời gian đó, sự cần 
cù, chịu khó lao động đã làm thay đổi cơ 
bản diện mạo cư trú, dân tộc, nhân học và 
nhiều mặt xã hội khác của toàn vùng Nam 
Bộ rộng hơn 30.000 km2. Chính địa chủ 
Nam Bộ, trên chặng đường hình thành kéo 
dài gần một thế kỷ này đã biến cơ cấu xã 
hội có quy mô hết sức nhỏ lẻ chỉ là các làng 
xã khoảng đầu thế kỷ XVII không quá “nhị 
thập nhân” (20 người) để từ đó phát triển 
thành một phủ Gia Định “dư tứ vạn hộ”, 
với số dân ước trên 200.000 người(1). 
Theo Lê Quý Đôn, vào những năm 70 
của thế kỷ XVIII, huyện Tân Bình có ruộng 
thực trưng hơn 1.454 mẫu, huyện Phước 
Long có ruộng thực trưng hơn 787 mẫu, 
đấy là chưa kể các khoản ruộng núi, đất 
dâu, đất mía, đất vườn trầu, ruộng các họ, 
ruộng quan đồn điền. Huyện Phước Long 
còn có Trường Giang Thảo có ruộng đất 
ngoài 6000 sở. Ở khu vực tả ngạn sông 
Tiền, hai thuộc Quy An và Quy Hoá, ruộng 
đất mỗi nơi đều ngoài 5000 sở.(2) 
Chỉ tính riêng khu vực Tiền Giang ngày 
nay, địa chí Tiền Giang đã đưa ra những con 
số cụ thể, theo đó thì: Thuộc Tam Lạch (Ba 
Giồng) số dân đinh 4.000 với số ruộng 5.000; 
Thuộc Bà Lai (có lẽ là Bà Rài – Cai Lậy 
ngày nay) số dân đinh 4.000 với số ruộng 
4.000; Thuộc Bà Kiến ở Châu Định Viễn 
(Rạch Kiến trong đó có Cai Lậy – Cái Bè 
ngày nay) số dân đinh 7.000 với số ruộng 
7.000. Tổng cộng ở Tiền Giang số dân đinh 
15.000 người với số ruộng (sở) là 16.000. 
Nếu lấy số liệu tổng diện tích khai khẩn 
của toàn Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ 
XVIII là 32.000 sở ruộng với 21.000 dân 
đinh thì vùng thuộc Tiền Giang ngày nay 
có số dân chiếm tỉ lệ 71,42% số dân đinh 
và diện tích khai khẩn chiếm tỉ lệ 50% diện 
tích khai khẩn toàn Nam bộ. Dù thống kê 
không đầy đủ các vùng, nhưng với những 
số liệu trên đây cũng phác họa phần nào 
thành quả hết sức tích cực trong hai thế kỷ 
khai phá mà các lực lượng khẩn hoang ở 
Nam Bộ đạt được, trong đó không thể 
không nhắc đến địa chủ Nam Bộ. 
Trong một thế kỷ tiếp theo, cho đến khi 
Nguyễn Ánh trở thành Gia Long hoàng đế, 
địa chủ tiếp tục là hạt nhân, giai cấp xã hội 
đóng vai trò chính thu hút nhân, tài, vật lực 
để khai phá, xây dựng nên hạ tầng xã hội 
khắp các vùng, làm cơ sở cho chúa Nguyễn 
xây dựng nên toàn bộ cấu trúc xã hội vùng 
Nam Bộ. Đồng thời, họ cũng đóng góp rất 
lớn để tạo ra một vựa lúa mới dồi dào, giải 
quyết vấn đề lương thực cho toàn xứ Đàng 
Trong, trực tiếp khẳng định vị thế là một bộ 
phận không thể thiếu, không thể tách rời 
của quốc gia Việt Nam. 
2. Tham gia và đi đầu trong 
phát triển kinh tế vùng đất mới 
Nhờ nhận biết được vị trí và điều kiện tự 
nhiên thuận lợi của vùng đất mới, cũng như 
những chính sách khuyến khích và bảo hộ 
quyền chiếm hữu ruộng đất để khai khẩn đối 
với người dân của các chúa Nguyễn mà công 
cuộc khẩn hoang ở Nam Bộ đã mở rộng rất 
nhanh và sản xuất nông nghiệp sớm đi vào 
sản xuất lớn, đưa tới hình thành một nền kinh 
tế hàng hóa phát triển với thị trường nông sản 
hàng hóa dồi dào. Trên cơ sở đó, chính quyền 
phong kiến cũng vì thế mà được thiết lập và 
củng cố ngày càng vững mạnh. 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 52 
Do những đặc điểm riêng trong quá 
trình khẩn hoang, hình thức sở hữu tư nhân 
về ruộng đất đã sớm hình thành và giữ vị trí 
chủ đạo ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Quá 
trình tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay các 
địa chủ đã giúp cho bộ phận này nắm được 
một số lượng nông sản to lớn. Lượng nông 
sản đó được đưa ra thị trường và trở thành 
hàng hoá trao đổi. 
Chính vì có sự xuất hiện sớm bộ phận 
sở hữu lớn ruộng đất của địa chủ mà phần 
nông sản dư thừa có thể đem bán đã đạt tới 
một khối lượng rất lớn, đưa tới sự hình 
thành tương đối sớm nền kinh tế hàng hóa 
ở đây. Đồng bằng Nam Bộ từ chỗ là một 
vùng đất hoang, đầy rừng rậm, lau sậy,... đã 
được mở mang và ngay từ rất sớm đã trở 
thành một vựa lúa lớn, sản xuất thóc gạo đã 
dư thừa so với nhu cầu lương thực tại chỗ. 
Lúa gạo sản xuất được không chỉ đáp ứng 
được nhu cầu lương thực của nhân dân tại 
chỗ mà còn là nguồn cung cấp thóc gạo chủ 
yếu cho cả xứ Đàng Trong, đặc biệt là vùng 
Thuận Hoá. 
Trên cơ sở một nền nông nghiệp trồng 
lúa khá phát triển, sản xuất lúa gạo có sự 
dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng, trong xã 
hội bắt đầu xuất hiện sự phân công lao 
động, dẫn tới sự ra đời của nhiều ngành thủ 
công như mộc, chạm bạc, tiện, nhuộm, vẽ, 
dệt. Bước đầu thủ công nghiệp đã tách ra 
khỏi nông nghiệp. Ở mỗi vùng đã xuất hiện 
các nghề thủ công truyền thống, mặc dù 
chưa đạt tới trình độ chuyên môn hoá cao. 
Từ thành quả của kinh tế nông nghiệp và 
thủ công nghiệp, việc trao đổi hàng hoá ở 
vùng Đồng Nai – Gia Định cũng sớm được 
mở rộng. Ngành lưu thông buôn bán quan 
trọng nhất lúc bấy giờ là buôn gạo từ Gia 
Định ra Thuận Quảng và mua hàng hoá từ 
Thuận Quảng vào Gia Định. 
Do sản xuất hàng hoá phát triển và việc 
buôn bán sớm trở thành một hoạt động kinh 
tế quan trọng, cho nên trong thế kỷ XVIII, 
vùng này đã xuất hiện nhiều thị tứ, nhiều 
điểm buôn bán sầm uất, trong đó có một số 
điểm đã trở thành những trung tâm thương 
mại và giao dịch quốc tế nổi tiếng như Nông 
Nại Đại Phố ở Biên Hoà, thương Cảng Sài 
Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay), thương cảng 
Hà Tiên, thương cảng Bãi Xàu, phố chợ Mỹ 
Tho Phố chợ Mỹ Tho phát triển trở thành 
một trong những trung tâm, điều phối hoạt 
động thương mại của khu vực Tây Nam Bộ 
và góp phần hướng nền nông nghiệp ở Nam 
Bộ ngay từ rất sớm đi vào sản xuất hàng hóa. 
Về vấn đề này, Giáo sư Phan Huy Lê nhận 
xét: “Thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI đến năm 
1836, vùng Đồng Nai – Gia Định chỉ có chế 
độ tư hữu ruộng đất và nông thôn gồm những 
thôn ấp dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất 
này. Đấy là một kết cấu kinh tế – xã hội khác 
với các vùng khác; và chính nó đã thúc đẩy 
sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa, 
làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế của 
Đồng Nai – Gia Định”(3). Tác giả Nguyễn 
Đình Đầu cũng có ý kiến tương tự: “việc tư 
nhân chiếm hữu ruộng đất triệt để và việc 
ruộng đất lần hồi tập trung trong tay một 
thiểu số người giàu đã tạo cho xã hội miền 
Nam, rõ ràng, có tình trạng tiền tư bản chủ 
nghĩa... mà dấu hiệu của sự hình thành chủ 
nghĩa tư bản là tình hình sản xuất hàng hóa 
đã tới mức cao”(4). Còn tác giả Lê Văn Năm 
thì cho rằng: “Sở hữu đất đai tư nhân, nhất 
là việc tập trung ruộng đất trong tay các địa 
chủ lớn đã giúp cho những người này nắm 
được một số lượng nông sản to lớn. Lượng 
nông sản đó được đưa ra thị trường”(5). 
Ngoài các thương cảng và thị tứ, một 
mạng lưới các chợ đã sớm hình thành ở 
Nam Bộ, từ những nơi thị tứ cho đến các 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 53 
vùng nông thôn, nhất là ở những giao điểm 
các trục lộ đường thuỷ, đường bộ, ở các 
bến đò, các lỵ, sở hành chính Trong đó 
có nhiều chợ hình thành từ rất sớm và khá 
trù mật như: chợ Đồng Nai, chợ Bến Cá, 
chợ Đồng Sử, chợ Lò, chợ Thủ Đức, chợ 
Bà Rịa... thuộc trấn Biên Hoà; chợ Phố 
Thành, chợ Sỏi, chợ Điều Khiển, chợ Sài 
Gòn, chợ Bến Nghé thuộc trấn Phiên An; 
chợ Mỹ Tho, chợ Sông Tranh, chợ Cái 
Bè thuộc Trấn Định Tường. 
Thóc gạo ở Nam Bộ trở thành nguồn 
cung cấp chủ yếu của vùng Thuận Hóa và 
cả miền Trung. Pierre Poivre trong nhật ký 
ngày 27/2/1749 viết: “Hiện nay, Đồng Nai 
(chỉ chung vùng đồng bằng sông Cửu 
Long) là một vựa lúa của xứ Đàng Trong. 
Vùng này đã cung cấp cho toàn xứ một 
khối lượng lớn về thóc”. Hay “vùng đồng 
bằng sông Cửu Long, ngay từ rất sớm, đã 
là vựa lúa lớn, sản xuất thóc gạo dư thừa, 
so với nhu cầu lương thực của nhân dân tại 
chỗ, còn được đem bán đi các nơi khác ở 
trong nước, chủ yếu là các phủ phía ngoài 
của xứ Đàng Trong, nhất là xứ Thuận 
Hóa Thóc gạo từ Nam chuyển ra miền 
Trung là nhiều, nhưng không tính được số 
lượng cụ thể”(6). Trong nghiên cứu của 
mình LiTana cho rằng, thóc gạo ở Nam Bộ 
không chỉ là nông sản đơn thuần mà đã trở 
thành hàng hóa, được bán đi khắp nơi sớm 
nhất là từ đầu thế kỷ XVIII. Lê Quý Đôn 
trong Phủ biên tạp lục cũng cho biết: “Miền 
Gia Định có rất nhiều thóc lúa... Hàng năm, 
cứ đến tháng 11 và tháng chạp, người ta 
thường xay, giã thóc lúa thành gạo đem đi 
bán lấy tiền tiêu dùng vào những lễ tiết chạp. 
Những lúc bình thường, người ta chuyên chở 
gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi 
chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, 
trừu đoạn của người Tàu”(7). 
Với việc thóc gạo trở thành mặt hàng 
kinh doanh lớn, giới thương buôn chuyên 
kinh doanh thóc gạo cũng được hình thành 
nhanh chóng và ngày càng gia tăng về số 
lượng. Những người này thường đi bằng các 
thuyền lớn từ miền Trung vào, sau đó neo 
đậu tại các cửa biển hoặc tại các thương 
cảng, phố chợ lớn; từ đó dùng các thuyền nhỏ 
hơn luồn lách khắp nơi sâu trong nội địa để 
thu mua thóc gạo. Theo tác giả Lê Văn Năm 
thì thuyền buôn ở Nam Bộ chở thóc gạo ra 
bán ở Phú Xuân năm 1768, có 341 chiếc; 
năm 1774, có hơn 1.000 chiếc(8). Nếu tính 
bình quân mỗi chiếc thuyền có thể chở được 
20 – 30 tấn thì số gạo ấy phải lên đến hàng 
ngàn tấn. Đây chính là thành quả của quá 
trình khai hoang tích cực của người dân Nam 
Bộ ở thế kỷ XVIII. 
Ngoài số thóc gạo hàng hóa, chính quyền 
chúa Nguyễn còn có một khối lượng thóc gạo 
nhất định được trữ trong các kho của nhà 
nước. Đó là số thóc thuế do dân đóng. Lúc 
bấy giờ là thóc thuế của hai trường Tam Lạch 
và Bả Canh ở Tiền Giang nộp vào kho Định 
Viễn. Hàng năm, một phần thóc thuế các kho 
địa phương được chở về miền Trung trữ ở 
các kho, như thóc thuế của kho Định Viễn 
được chuyên chở về kho Thọ Khang thuộc 
phường Thọ Khang, huyện Phú Vang (Phú 
Xuân), thuộc quyền quản lý của Nội Các. 
Chính nhờ vậy, xứ Đàng Trong mới có đủ 
lương thực cung ứng cho nhân dân, mặc dù 
vùng Thuận Hóa và Quảng Nam có sự gia 
tăng dân số liên tục và đặc biệt là từ đầu thế 
kỷ XVIII, khỏi phải mua thóc gạo của Xiêm 
và Cao Miên
(9)
. 
Không chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu 
dùng trong nước, thóc gạo của Nam Bộ còn 
được xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là thị 
trường Trung Quốc. Sách Phủ biên tạp lục 
ghi: “các khách buôn người Tàu thường tới 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 54 
những nơi ấy mua bán đã quen thuộc, ai 
cũng tấm tắc khen ngợi”(10). Về số lượng 
gạo được xuất khẩu theo con đường này, 
theo Trần Ngọc Định dẫn lại từ P. Vital 
trong Les premières années de la 
Cochinchine, vào những năm 70 của thế kỷ 
XIX, hàng năm, có khoảng 12.000 tấn thóc 
gạo đã được bán ra nước ngoài bởi các 
thương buôn Trung Quốc. 
Sau thóc gạo, cau là mặt hàng nông sản 
đứng hàng thứ hai được tiêu thụ rất mạnh 
trên thị trường trong nước và nước ngoài 
“Nam Bộ nhất thóc nhì cau”. Thời bấy giờ 
cau được trồng ở nhiều vùng, nhưng nổi 
tiếng nhất phải kể đến cau ở Kiến Đăng và 
Kiến Hưng thuộc trấn Định Tường và nhất 
là cau ở Mỹ Lồng thuộc trấn Vĩnh Thanh, 
tại đây “có vườn cau đứng rậm như rừng 
quả lớn, lại sai trái”(11). 
Ngoài ra các loại thủy sản cũng là mặt 
hàng được bán rất chạy trên thị trường. 
Theo Lê Quý Đôn, nguồn lợi cá tôm ở 
vùng cửa Tiểu là rất lớn và nhiều đến nỗi 
người ta ăn không hết, làm khô, bán cho 
các bạn hàng. Ở vùng Đồng Tháp Mười, cá, 
tôm ở sông rạch, ao, đồng ruộng nhiều 
không kể xiết. Từ đó, giới thương lái 
chuyên buôn bán cá, tôm được hình thành. 
Họ đóng những chiếc ghe lớn để chở được 
nhiều cá và đưa đi khắp nơi để tiêu thụ, thu 
về được nguồn lợi lớn. 
Chính sự mở rộng công cuộc khẩn 
hoang và sản xuất nông nghiệp, thương mại 
trong các thế kỷ XVII, XVIII đã làm thay 
đổi bộ mặt xã hội của đồng bằng Nam Bộ. 
Trong những biến đổi về mặt xã hội, còn có 
một hiện tượng nổi bật là sự phát triển công 
cuộc khẩn hoang đồng thời cũng là quá 
trình diễn ra sự phân hoá về mặt xã hội 
ngày càng sâu sắc. Chính địa chủ Nam Bộ 
trong quá trình khẩn hoang, với tiềm lực 
kinh tế, tài chính khá hùng hậu của mình đã 
thuê mướn nhân công, tổ chức khai hoang 
với quy mô lớn, từ đó trở thành những địa 
chủ chiếm hữu nhiều ruộng đất. Từ đây bộc 
lộ những mặt hạn chế là sự hình thành và 
ngày càng mở rộng của bộ phận ruộng đất 
thuộc sở hữu lớn của địa chủ dựa vào thế 
lực kinh tế và đôi khi cả thế lực chính trị, 
thông qua các phương thức cầm cố, cưỡng 
đoạt, thôn tính ... i cơ. 
Năm 1795, ông làm Lưu thủ Trấn Biên 
(Biên Hòa). Năm 1797, ông về giữ Gia 
Định, lãnh việc vận lương kiêm việc ở bộ 
Hộ. Năm 1802, phong ông làm Chưởng 
Chấn võ quân, tước Nhơn Quận công; giữ 
chức Lưu trấn Gia Định trấn đến năm 1805. 
– Võ Tánh sinh tại huyện Phước An, 
tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), 
sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định. 
Từ năm 1783 – 1788, ông cùng anh nổi dậy 
tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), tự xưng là 
Nghĩa quân Kiến Hòa rồi kéo quân chiếm 
giữ cả vùng Gò Công. Năm 1788, nhận lời 
mời của chúa Nguyễn Phúc Ánh, ông đến 
Nước Xoáy (Sa Đéc) hội binh, được phong 
là Tiên phong dinh Khâm sai chưởng cơ, và 
được chúa gả cho em gái là Ngọc Du. Năm 
1790, Võ Tánh tiến đánh thành Diên 
Khánh. Năm 1793, Võ Tánh được thăng 
chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh 
Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ 
Giá. Năm 1797, ông theo Nguyễn Phúc 
Ánh ra đánh Quảng Nam. Năm 1799, ông 
lại theo chúa Nguyễn tiến đánh Quy Nhơn. 
 – Lê Văn Duyệt ở Gò Công, sinh năm 
1764 tại vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh, 
châu Định Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc 
xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền 
Giang). Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê 
Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức 
(Quảng Ngãi) vào đây sinh sống. Sau khi 
Lê Văn Hiếu qua đời, cha ông là Lê Văn 
Toại rời vùng Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch 
Gầm, làng Long Hưng (nay thuộc huyện 
Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trở thành 
địa chủ giàu có. Năm 17 tuổi Lê Văn Duyệt 
đã cứu Nguyễn Ánh thoát chết khi bị đắm 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 56 
thuyền trên sông, sau đó gia nhập hàng ngũ 
cận tướng của Nguyễn Ánh, lập nhiều công 
to. Sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn, Lê 
Văn Duyệt đã được Nguyễn Ánh phong 
làm Tổng trấn Gia Định Thành, thực chất là 
một phó vương có toàn quyền sinh sát trên 
toàn vùng đất Nam Bộ kéo dài từ Bình 
Thuận đến Cà Mau. 
Với những chính sách thời chiến tạm 
thời, cộng với năng lực, thái độ kém cỏi 
của Nguyễn Lữ, người đại diện của nhà 
Tây Sơn cai quản khu vực phía Nam, địa 
chủ Nam Bộ đã nhìn thấy những bất lợi đe 
dọa quyền lợi tư hữu ruộng đất của họ. Vì 
vậy, trong hầu hết các giai đoạn tranh chấp, 
địa chủ Nam Bộ đều ủng hộ Nguyễn Ánh. 
Tận dụng sự ủng hộ này, Nguyễn Ánh 
ngay từ giai đoạn đầu phục quốc đã có nhiều 
biện pháp tranh thủ lòng dân, nhằm tăng 
cường tài lực, vật lực và cả nhân lực để xây 
dựng quân đội lớn mạnh cự địch với nhà Tây 
Sơn. Trong thời gian cuộc nội chiến còn diễn 
ra trên đất Gia Định, Nguyễn Ánh đã cho 
thực hiện nhiều biện pháp kinh tế, xã hội và 
hành chánh, mặc dù những hoạt động này 
nhằm mục tiêu củng cố sức người sức của để 
phục vụ chiến tranh chống Tây Sơn, nhưng 
đã gián tiếp làm cho tình hình kinh tế xã hội 
Gia Định không tồi tệ như ở Trung và Bắc 
Hà. Đó là điều mà Tây Sơn chưa hề làm 
được ở Gia Định. Và cũng chính những biện 
pháp này đã lôi kéo được tầng lớp địa chủ và 
một bộ phận lớn nông dân ngả về phía 
Nguyễn Ánh. 
Xuất thân là con cháu các chúa 
Nguyễn. Do đó, phần lớn nhân dân Gia 
Định dành nhiều tình cảm sâu nặng với các 
chúa Nguyễn, đương nhiên họ có bổn phận 
ủng hộ, giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục cơ 
đồ mà các chúa Nguyễn đã dày công gây 
dựng trăm năm qua, theo suy nghĩ đơn giản 
“ơn đền oán trả”, “ăn trái nhớ kẻ trồng 
cây”. Có thời gian, Nguyễn Ánh ẩn náu tại 
làng Long Hưng (tức Nước Xoáy, Sa Đéc, 
Đồng Tháp), được một địa chủ tên Nguyễn 
Văn Hậu nuôi cơm. Nguyễn Ánh thường ra 
ngồi câu cá ở bến sông và suy nghĩ tìm 
đường chống Tây Sơn. Do đó, nơi này có 
sự tích Cây da bến Ngự và năm 1787, 
Nguyễn Ánh cho xây dựng một đồn binh 
nơi đây. Ông cũng nhận địa chủ Nguyễn 
Văn Hậu làm cha đỡ đầu, đến năm 1807 
cho xây Lăng Ông Bõ (cha đỡ đầu của vua) 
tại đây. 
Nguyễn Ánh triệt để khai thác tình cảm 
của nhân dân Nam Bộ để vừa vận động, 
vừa o ép nhân dân góp của, góp sức xây 
dựng lực lượng. Cho nên ta thấy có lúc lực 
lượng Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh gần 
như tan rã hoàn toàn, nhưng chỉ một thời 
gian ngắn sau đó lại hồi phục nhanh chóng. 
Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng, 
Nguyễn Ánh đã khôn khéo đưa ra hàng loạt 
chủ trương bồi dưỡng, khoan dung sức dân, 
để lôi kéo dân chúng về phía mình. 
Năm 1778, Nguyễn Ánh cho đắp lũy 
đất ở phía tây sông Bến Nghé, đóng hơn 50 
chiến thuyền hiệu “Long Lân” để bảo vệ 
Sài Gòn. Năn 1779, Nguyễn Ánh tổ chức 
lại việc cai trị đất Gia Ðịnh, chia làm 3 
dinh: Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn 
(Gia Ðịnh và Ðịnh Tường) và Long Hồ 
(Vĩnh Long và An Giang), chỉnh đốn lại 
thuế điền, tích trữ lương thực để chống lại 
Tây Sơn. Rồi nâng đạo Trường Ðồn (Mỹ 
Tho) thành dinh. Như vậy, đất Gia Ðịnh 
gồm 4 dinh và một trấn là Hà Tiên. Nguyễn 
Ánh đặt các chức quan: Lưu thủ, Cai bạ, 
Ký lục để trông coi việc cai trị. Lúc bấy giờ 
dân cư còn thưa thớt, nên dưới mỗi dinh và 
trấn chỉ có một huyện. Dưới huyện là các 
tổng; dưới tổng là các thôn hoặc xã. Nói 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 57 
một cách cụ thể hơn, trong thời gian này 
tiếp tục hoàn thiện một bước nữa công cuộc 
khai hoang của các chúa Nguyễn bị bỏ dở, 
có tác động tâm lý sâu sắc đối với nhân dân 
Gia Định trong cuộc nội chiến. 
Đến cuối thể kỷ XVIII, đất Gia Định 
sau hơn một trăm năm khai phá, dù diện 
tích được đưa vào sản xuất nông nghiệp 
chưa phải là nhiều, nhưng đất đai màu mỡ, 
nguồn lợi tự nhiên hết sức phong phú đã 
sớm xuất hiện nền kinh tế hàng hóa trên 
vùng đất mới này. 
Những chính sách khuyến nông của 
Nguyễn Ánh đã được sự ủng hộ của đại địa 
chủ Nam Bộ, bằng cách tích cực đóng góp 
thóc gạo và nhân lực cho quân đội của chúa 
Nguyễn. Nhờ vậy, sau một thời gian dài, từ 
đất Gia Định, quân và thế của Nguyễn Ánh 
đã lớn mạnh hẳn lên, trong khi quân Tây 
Sơn, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Lữ thì 
suy yếu dần. 
Thế lực của Nguyễn Ánh ở đây trước 
hết là thế mạnh từ tổ chức xã hội Gia Định, 
nó được hình thành trên cơ sở sự giàu mạnh 
của địa chủ mới nặng ân tình với họ 
Nguyễn và thương nhân người Hoa. Cấu 
trúc xã hội Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII 
như đã trình bày ở trên, không giống như ở 
Bắc Hà hay vùng Thuận Quảng. Nó không 
còn xã hội thuần nông tự cung tự cấp, mà 
đã phát triển với nền kinh tế hàng hóa – 
tiền tệ, dù không tái sản xuất. 
4. Cùng với chính quyền các 
chúa từng bước xác lập và bảo vệ 
chủ quyền trên vùng đất mới 
Trong tiến trình khẩn hoang, mở cõi ở 
Nam Bộ, các chúa Nguyễn đã liên tục bị 
gây hấn, lấn chiếm từ bên ngoài và khởi 
loạn từ bên trong. Năm 1688, Hoàng Tiến ở 
vùng Vũng Gù, Mỹ Tho nổi loạn, giết chủ 
là Dương Ngạn Địch, sau đó thả quân sang 
tận Cao Miên cướp bóc, đồng thời xây hào 
đắp lũy chiêu binh mãi mã tính kế cát cứ. 
Nhân cơ hội, Phó vương Nặc Thu của Chân 
Lạp cũng dấy loạn, quấy nhiễu. Thống binh 
Nguyễn Hữu Hào được chúa Nguyễn phái 
vào dẹp loạn, lập mưu giết được Hoàng Tiến, 
đuổi cả hai phó vương Nặc Thu lẫn Nặc Nộn 
về bên kia biên giới. Hành quân xa, đạo quân 
của Nguyễn Hữu Hào đã được các địa chủ 
vùng Tiền Giang giúp đỡ, cung cấp lương 
thực để đánh dẹp Hoàng Tiến, thiết lập lại 
trật tự vùng Mỹ Tho, sau đó đánh đuổi sự lấn 
chiếm của các thế lực phong kiến Chân Lạp 
âm mưu gây hấn. Xong việc binh, theo lệnh 
Chúa, Nguyễn Hữu Hào đã để quân binh ở 
lại lập thành đồn trại khẩn hoang, khai thác 
vùng Vũng Gù. 
Năm 1698, Chân Lạp lại có biến, âm 
mưu nổi loạn và gây hấn. Nhóm người Hoa 
Nông Nại có ý nhân cơ hội để cát cứ. Chúa 
Nguyễn Phúc Chu lại sai Lễ Thành hầu 
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý Đồng Nai. 
Địa chủ người Việt đã hợp tác chặt chẽ và 
tích cực với Nguyễn Hữu Cảnh trong việc 
thống kê lại diện tích đất đai, dân số để làm 
cơ sở thiết lập phủ Gia Định, sắp xếp lại cơ 
cấu hành chính toàn vùng, khép cả người 
Việt lẫn người Hoa vào sự quản lý của chúa 
Nguyễn, dẹp tan mầm cát cứ. Nhóm Trần 
Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) ở Trấn 
Biên được lập thành xã Thanh Hà, thuộc 
huyện Phước Long, nhóm của Dương Ngạn 
Địch trước đây ở Mỹ Tho được lập thành 
xã Minh Hương, thuộc huyện Tân Bình. 
Một năm sau, vua Nặc Thu lại đưa 
quân sang quấy phá vùng An Giang, giết 
người Việt. Nguyễn Hữu Cảnh lại được 
chúa Nguyễn sai đưa quân xuống dẹp. 
Những địa chủ cầm đầu các toán khai 
hoang lại là nguồn cung cấp nhân lực cho 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 58 
Nguyễn Hữu Cảnh khai hào, đào và khơi 
thông các kênh rạch sau này là kênh ông 
Chưởng, sông Vàm Nao, sông Mân Thít để 
lấy đường cho thuyền lớn của đại quân 
vượt sông Tiền qua sông Hậu tiến lên vùng 
Châu Đốc để đón đánh Nặc Thu. Họ cũng 
góp công cùng binh lính của triều đình khai 
phá cù lao Vàm Nao, cày cấy lấy lương 
thực nuôi quân. Đến năm 1700, quân binh 
đã lớn mạnh, thuyền chiến sẵn sàng. Thấy 
khả năng không địch lại, ngay khi chiến 
thuyền của Nguyễn Hữu Cảnh vừa lên 
đường, Nặc Thu đã vội thu quân chạy mất. 
Tinh binh của Nguyễn Hữu Cảnh dong 
thuyền lên vây tận kinh thành Chân Lạp. 
Cháu Nặc Thu là Nặc Yêm mở thành xin 
hàng. Chỉ sau ít ngày, đích thân Nặc Thu 
cũng quay lại xin chịu hàng. Bất chiến tự 
nhiên thành, Nguyễn Hữu Cảnh trả lại kinh 
thành cho Nặc Thu với lời răn phải chăm lo 
định quốc an dân, không được xâm lấn, 
cướp bóc. 
Một công lao khác của địa chủ Nam 
Bộ, đó là việc Mạc Cửu, lãnh chúa Hà Tiên 
xin dâng đất, thần phục chúa Nguyễn vào 
năm 1708, nhận chức Tổng binh do chúa 
Nguyễn ban cho. Việc này đã chính thức 
mở rộng và thừa nhận vương quyền của 
chúa Nguyễn lên vùng đất xa xôi nhất của 
Nam Bộ, nơi thật ra chưa có dấu chân của 
các đoàn di dân người Việt. 
Sau khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn 
tiếp tục phong cho con của Mạc Cửu là 
Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên. 
Sau khi được phong chức, Mạc Thiên Tứ 
không những ra sức xây dựng và phát triển 
Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế 
phồn thịnh, mà ông còn nêu cao ý thức bảo 
vệ chủ quyền với tư cách là người được 
giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực 
Nam đất nước. Sách Đại Nam thực lục cho 
biết vào năm 1739: ''Nặc Bôn lấn Hà 
Tiên... Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra 
đánh đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh 
hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là 
Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến 
nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng 
hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng 
trận báo lên, Chúa cả khen ngợi, đặc biệt 
cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban 
cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn 
Thị làm Phu nhân. Do đó Chân Lạp không 
dám nhòm ngó Hà Tiên nữa”(11). 
Tháng 3 năm 1775, nhờ có sự chỉ dẫn, 
đưa đường, phân tích luồng lạch sông ngòi 
của một bộ phận địa chủ và những người 
khẩn hoang vùng quanh sông Mân Thít, 
vùng Rạch Gầm – Xoài Mút (Mỹ Tho, Tiền 
Giang), chỉ với khoảng 2 vạn quân, Nguyễn 
Huệ đã bài binh bố trận, lợi dụng địa hình 
địa thế và con nước đánh tan 3 vạn quân 
thủy cùng 300 chiến thuyền của quân Xiêm 
do Nguyễn Ánh rước về, buộc 2 vạn quân 
bộ của Xiêm La cùng 40.000 quân Việt của 
Nguyễn Ánh phải tháo chạy về Xiêm. 
Tuy nhiều địa chủ và nông dân Nam 
Bộ ủng hộ Nguyễn Ánh, nhưng họ không 
hoàn toàn ủng hộ việc cầu viện, nhất là việc 
đưa lực lượng Xiêm sang chống Tây Sơn. 
Chứng tỏ các bộ phận địa chủ Nam bộ luôn 
có tinh thần dân tộc, biết tạm gác khuynh 
hướng tình cảm riêng sang một bên, đặt 
quyền lợi Tổ quốc trên tình cảm cá nhân; 
họ đã phò giúp Nguyễn Huệ cả về lương 
thực, nhân lực lẫn trí tuệ để đánh đuổi quân 
xâm lược. 
* 
Trong các thế kỷ XVII – XVIII địa chủ 
Nam Bộ đã có nhiều đóng góp trong quá 
trình khai phá, mở mang bờ cõi, bảo vệ chủ 
quyền lãnh thổ ở vùng đất Nam Bộ và là 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 59 
chỗ dựa vững chắc của chúa Nguyễn. 
Trải qua hai thế kỷ với những nỗ lực, 
cùng với chính sách khẩn hoang tích cực 
của chúa Nguyễn, địa chủ và các thành 
phần cư dân khác đã mang đến cho vùng 
đất Nam Bộ một bộ mặt hoàn toàn mới. 
Có thể nói, trong giai đoạn đầu của tiến 
trình khai phá Nam Bộ, các yếu tố thuận lợi 
hay rủi ro trong quá trình sản xuất đều được 
chia đều, dẫn đến quan hệ giữa địa chủ và 
tá điền cũng ít mâu thuẫn, mang màu sắc 
cộng sinh và hợp tác nhiều hơn. Tuy nhiên, 
sang đến thế kỷ XIX, quan hệ cộng sinh giảm 
dần, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra 
mạnh mẽ gây nên hệ quả phân cực sở hữu 
ruộng đất, dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay 
gắt giữa địa chủ và tiểu nông tự canh cũng 
như với tá điền cày thuê. Các yếu tố cộng 
sinh, cộng tác – được xem như thành quả 
tiến bộ trong quan hệ sản xuất ở thế kỷ 
XVII – XVIII phai nhạt dần. Thay vào đó 
là quan hệ giữa địa chủ và tá điền hoặc với 
người nông dân tự canh bị kéo quay trở lại 
với hình thức “phát canh thu tô” truyền 
thống. Địa chủ Nam Bộ cũng quay lại đúng 
vai trò và bản chất của kẻ cai trị và bóc lột 
khiến tình trạng phân hóa giai cấp ở đây 
diễn ra ngày càng nghiêm trọng, kéo dài 
cho đến suốt thời kỳ thống trị của các vua 
triều Nguyễn sau này. 
* 
ROLE OF THE LANDLORD CLASS IN THE PROCESS OF EXPLORATION AND 
PROTECTION OF THE SOUTHERN REGION IN THE XVII – XVIII CENTURIES 
Nguyen Thi Anh Nguyet 
University of Social Sciences and Humanities (VNU–HCM) 
ABSTRACT 
The process of reclaiming the South in two centuries (XVII – XVIII) had positive 
contribution of the landlord class. With a consistent policy of the Nguyen Dynasty, the 
landlord class in the South region to actively explore and develop economy in new lands, 
prop up the Nguyen Lords to consolidate power, and together with the government to 
gradually establish and protect the sovereignty over new lands. Landlords had played an 
important role in the whole process of reclamation and expanding the borders, creating the 
social culture, administrative institutions, politics in the South region. 
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO 
(1) Trịnh Hoài Đức, Gia định thành thông chí, Tập Trung, Bản dịch của Tu Trai, Nguyễn Tạo, Phủ 
Quốc khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972 tr. 17. 
(2) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, 1977, tr. 179 – 180. 
(3) Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục 
tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, 1992, tr. 9. 
(4) Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục 
tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, 1992, tr. 72 – 75. 
(5) Lê Văn Năm, “Sản xuất hàng hóa và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – XIX”, Tạp chí 
Nghiên cứu Lịch sử, số 3 – 4, 1988, tr. 54. 
(6) Lâm Quang Huyên, 300 năm kinh tế Sài Gòn – TPHCM, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, tr 
151, 1998. 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 60 
(7) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, 1977, tr. 362. 
(8) Lê Văn Năm, “Sản xuất hàng hóa và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – XIX”, Tạp chí 
Nghiên cứu Lịch sử, số 3 + 4, 1988, tr. 61. 
(9) Trần Hoàng Diệu, Hoàng Anh Tuấn (chủ biên), Địa chí Tiền Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy 
Tiền Giang và Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản, tr. 
379, 2005. 
(10) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB. Khoa học Xã hội, 1997, tr.258. 
(11) Lê Văn Năm “Sản xuất hàng hoá và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ 
XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3+ 4, 1988, tr. 54. 
(12) Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập 1, NXB Giáo dục, 2007, tr. 1756. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_tang_lop_dia_chu_trong_cong_cuoc_khai_pha_bao_ve.pdf