Vai trò của dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa phương tây ở Nhật Bản

Công cuộc Duy Tân Minh Trị (1868-1912) đã làm dấy lên khát

vọng mãnh liệt của toàn dân Nhật Bản nhằm "Học tập

phương Tây, đuổi kịp phương Tây và vượt phương Tây", "Kết

hợp cái tốt nhất của phương Tây với tinh thần Nhật Bản".

Điều này giải thích tại sao việc dịch thuật văn học châu Âu,

đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, đã mang lại tác nhân kích thích đối

với sự phát triển nền văn chương mới ở Nhật Bản. Có thể nói

không một nhà văn Nhật Bản có tầm quan trọng nào mà

không chịu ảnh hưởng thông qua sự hiểu biết văn học châu

Âu. Văn học Nhật Bản từ ngày ấy đã tiếp thu nhiều trào lưu tư

tưởng và văn học phương Tây: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa lãng

mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa

hiện thực., đánh dấu một sự mở đầu thực sự cho văn xuôi

theo phong cách hiện đại, nhuần nhuyễn những yếu tố phương

Tây. Bài viết dưới đây phân tích làm rõ phần nào vai trò của

dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa phương Tây ở Nhật

Bản trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

 

pdf 7 trang kimcuc 7320
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa phương tây ở Nhật Bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa phương tây ở Nhật Bản

Vai trò của dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa phương tây ở Nhật Bản
Vai trò của dịch thuật văn học trong 
tiếp xúc văn hóa ph−ơng Tây ở Nhật Bản 
Nguyễn Tuấn Khanh
(*)
Công cuộc Duy Tân Minh Trị (1868-1912) đã làm dấy lên khát 
vọng mãnh liệt của toàn dân Nhật Bản nhằm "Học tập 
ph−ơng Tây, đuổi kịp ph−ơng Tây và v−ợt ph−ơng Tây", "Kết 
hợp cái tốt nhất của ph−ơng Tây với tinh thần Nhật Bản". 
Điều này giải thích tại sao việc dịch thuật văn học châu Âu, 
đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, đã mang lại tác nhân kích thích đối 
với sự phát triển nền văn ch−ơng mới ở Nhật Bản. Có thể nói 
không một nhà văn Nhật Bản có tầm quan trọng nào mà 
không chịu ảnh h−ởng thông qua sự hiểu biết văn học châu 
Âu. Văn học Nhật Bản từ ngày ấy đã tiếp thu nhiều trào l−u t− 
t−ởng và văn học ph−ơng Tây: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa lãng 
mạn, chủ nghĩa t−ợng tr−ng, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa 
hiện thực..., đánh dấu một sự mở đầu thực sự cho văn xuôi 
theo phong cách hiện đại, nhuần nhuyễn những yếu tố ph−ơng 
Tây. Bài viết d−ới đây phân tích làm rõ phần nào vai trò của 
dịch thuật văn học trong tiếp xúc văn hóa ph−ơng Tây ở Nhật 
Bản trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. 
ầu hết nền văn xuôi Nhật Bản 
trong thế kỷ kế tiếp thời kỳ 
khôi phục nền quân chủ Minh trị 
(1868) đều đ−ợc gọi bằng thuật ngữ 
“hiện đại”, mặc dù sự biến đổi văn học 
thực sự chỉ có thể nhận thấy khoảng 
hai thập kỷ sau đó, vào cuối những 
năm 1880, có lẽ bởi chúng phản ánh 
những vấn đề của xã hội đ−ơng thời, 
hoặc bởi các kỹ xảo văn ch−ơng đ−ợc 
sử dụng mà tr−ớc đây ng−ời ta ch−a 
từng thấy ở Nhật Bản, hoặc bởi những 
ảnh h−ởng ngoại lai có thể nhận ra 
trong cách biểu hiện. Cách dễ dàng 
nhất, và th−ờng có hiệu quả nhất là 
tìm hiểu các nhân tố tác động đã làm 
nên tính chất hiện đại đối với một tác 
phẩm khi nó tiếp nhận trực tiếp từ 
một số nhà văn n−ớc ngoài.(∗)Điều này 
cũng giải thích tại sao việc dịch thuật 
văn học châu Âu, đặc biệt từ đầu thế 
kỷ XX, đã mang lại tác nhân kích 
thích đối với sự phát triển nền văn 
ch−ơng mới ở Nhật Bản. Rất nhiều 
nhà phê bình văn học Nhật Bản đều 
đi đến khẳng định rằng lịch sử văn 
học Nhật Bản hiện đại không có gì 
khác hơn ngoài lịch sử của những trào 
l−u đầy thành công do tiếp nhận nền 
văn học châu Âu, hoặc nền văn học 
(∗)
 Viện Nghiên cứu Đông Bắc á. 
H 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2007 36 
Nhật Bản sáng tác sau thời quân chủ 
Minh Trị cũng chỉ là một nhánh nhỏ 
của văn học châu Âu (quan điểm của 
Chiba Senichi, nhà nghiên cứu văn 
học rất có uy tín ở Nhật Bản). Ng−ời 
ta có thể công nhận hay không công 
nhận quan điểm nghiên cứu này, 
nh−ng một điều hiển nhiên là các nhà 
văn Nhật Bản hiện đại đã chịu tác 
động hết sức sâu sắc khi đọc 
Dostoevski, Nietzche, Joyce, Proust và 
các tác giả châu Âu nổi tiếng khác. 
Một khuynh h−ớng mô phỏng và dịch 
các tác phẩm văn học châu Âu bắt đầu 
xuất hiện rồi phát triển mạnh mẽ đến 
nỗi vào cuối những năm 1880, chúng 
ta nhìn thấy nhiều tác phẩm phỏng 
theo các tác phẩm Robinson Crusoe 
của Dofoe, Không t−ởng của Thomas 
More, Sự thú tội (Confessions) của 
Rousseau, mà cả Wilhehn Tell của 
Schiller rồi Hamlet, Vua Lear, Ng−ời 
lái buôn thành Venice của 
Shakespeare nữa. Với tất cả những 
tinh tuý của nền văn học ph−ơng Tây 
mà ng−ời Nhật đã lựa chọn, ta không 
ngạc nhiên rằng vào đầu thế kỷ XX 
trong văn học Nhật hiện đại đủ thứ 
chủ nghĩa mới xuất hiện: từ “chủ 
nghĩa hiện thực” và “chủ nghĩa lãng 
mạn” tới “chủ nghĩa tự nhiên”, đánh 
dấu một sự mở đầu thực sự cho văn 
xuôi, theo phong cách hiện đại, nhuần 
nhuyễn những yếu tố ph−ơng Tây. 
Ngay cả Kinh thánh và đạo Thiên 
chúa khi truyền bá vào Nhật Bản 
cũng mang đến ý thức về băn khoăn 
cá nhân nó để rõ dấu ấn trong nhiều 
tác phẩm văn xuôi hiện đại. 
Năm 1885 cuốn Tinh tuý của tiểu 
thuyết (The Essence of Novel) của 
Tsubouchi Shoyo (1856-1935) là một 
mốc quan trọng của văn học hiện đại 
Nhật Bản. Ông phê phán tính chất 
tầm th−ờng của truyện Nhật Bản lúc 
đó chỉ nặng miêu tả dục tình; ông chủ 
tr−ơng tiểu thuyết phải khơi sâu tình 
cảm đằng sau hành động, theo mẫu 
văn học Anh. Trong tác phẩm này, ông 
đã đề cập tới quyền tự do của ý chí 
(theo học thuyết của Kant) và toàn 
vẹn nghệ thuật của tiểu thuyết trên cơ 
sở phân tích hành vi và tình cảm của 
ng−ời một cách lôgíc. Đây là một khái 
niệm có tính chất cách mạng, nó đối 
địch tuyệt đối với những nguyên tắc 
đạo đức mô phạm đã ngự trị trong văn 
xuôi thời đại Tokugawa. Chính nó rốt 
cuộc đã dẫn đến một sự thay đổi quan 
trọng khiến văn xuôi chiếm một vị trí 
trung tâm trong văn học Nhật Bản. 
Tr−ớc khi Nhật Bản bắt đầu giao 
th−ơng với các n−ớc ph−ơng Tây vào 
cuối thập niên 1850, do chính sách bế 
quan tỏa cảng hơn hai trăm năm của 
chính quyền Tokugawa Bakufu, 
những sách vở và tin tức do ng−ời Hà 
Lan và ng−ời Tàu cung cấp là cánh 
cửa sổ duy nhất để ng−ời Nhật tìm 
hiểu về những diễn biến của thế giới 
bên ngoài (Hà Lan và Trung Quốc là 
hai n−ớc đ−ợc chính quyền Tokugawa 
chấp thuận cho buôn bán trên đảo 
Deshima ở Nagasaki trong suốt thời 
gian này). Sự thật là những sách vở do 
các học giả Trung Quốc và những nhà 
truyền giáo ph−ơng Tây viết bằng chữ 
Hán về tình hình thế giới sau chiến 
tranh Nha phiến đã góp phần quan 
trọng vào việc thức tỉnh các trí thức 
Nhật Bản về hiểm họa Tây xâm(*). 
Tuy nhiên, sau Minh Trị Duy Tân 
(*)
 Những sách Tân th− xuất bản ở Trung Quốc trong 
thời kỳ này cũng đ giúp Nguyễn Tr−ờng Tộ có vốn 
liếng tri thức hơn hẳn những sĩ phu Việt Nam cùng 
thời. 
Vai trò của dịch thuật 37 
(1868) Nhật Bản bắt đầu đi v−ợt 
Trung Quốc trong công cuộc canh tân 
đất n−ớc bằng cách tích cực học hỏi và 
tiếp thu những yếu tố tiên tiến của 
văn minh ph−ơng Tây. Phần lớn xuất 
thân từ giai cấp võ sĩ (bushi), những 
trí thức Nhật Bản luôn luôn coi trọng 
tinh thần “biết mình biết ng−ời trăm 
trận trăm thắng” (Tôn Tử) nên đã có 
đánh giá xác thực và khách quan về 
sức mạnh của “đối ph−ơng” tức là các 
n−ớc ph−ơng Tây. Muốn đánh bại kẻ 
địch, tức là đi v−ợt ph−ơng Tây thì 
tr−ớc hết phải khám phá để học lấy 
những bí quyết sở tr−ờng của ph−ơng 
Tây. Họ suy luận rằng không thể nhìn 
sức mạnh của các n−ớc ph−ơng Tây một 
cách đơn thuần qua súng đạn hay tàu 
chiến ở bên ngoài, mà phải thấy đ−ợc 
đâu là những “sở tr−ờng và bí quyết” 
của văn minh ph−ơng Tây. Qua sách vở, 
đặc biệt là qua những cuộc hành trình 
để “thám sát” các n−ớc ph−ơng Tây tận 
mắt, họ thấy rằng những đức tính nh− 
tinh thần khoa học, óc cầu tiến, tính tự 
lập, tinh thần dân chủ, biết xem trọng 
tính đa dạng v.v... chính là những “sở 
tr−ờng” của văn minh ph−ơng Tây, và 
là lý do sâu xa đã đ−a các n−ớc ph−ơng 
Tây lên địa vị phú c−ờng. Một khi đã 
nhìn thấy đ−ợc những −u điểm của văn 
minh ph−ơng Tây, vấn đề tiếp đến đối 
với họ là làm sao tiếp thu và hấp thụ 
những −u điểm đó - những “sở tr−ờng 
của đối ph−ơng” - trong một thời gian 
ngắn nhất. 
Đối với các trí thức Nhật Bản, ở 
trong cũng nh− ở ngoài chính quyền, 
ph−ơng sách hữu hiệu duy nhất nhằm 
bảo vệ chủ quyền của n−ớc Nhật là sớm 
tiếp thu văn hóa ph−ơng Tây và đ−a 
Nhật Bản lên đài “văn minh” để n−ớc 
Nhật có thể vẫy vùng đua tranh với các 
c−ờng quốc. Nếu chậm trễ, Nhật Bản sẽ 
trở thành miếng mồi ngon cho liệt 
c−ờng xâu xé chẳng khác gì Trung Quốc 
và các n−ớc châu á khác. Cần chú ý là 
cũng vào thời điểm này, những quan lại 
trong triều đình cùng phần đông sĩ phu 
ở Trung Quốc và Việt Nam là những trí 
thức chịu ảnh h−ởng nặng nề của lối 
học cử nghiệp Khổng giáo nên có 
khuynh h−ớng xem trọng h− văn; mặc 
dầu thua ph−ơng Tây nh−ng vẫn rất tự 
ái và tự mãn, không nhìn thấy đ−ợc 
những “sở tr−ờng” của văn minh 
ph−ơng Tây ngoài súng đạn và khoa 
học kỹ thuật. 
Nhằm gia tăng tốc độ canh tân xứ 
sở trong cuộc đấu tranh mà ng−ời 
Nhật coi là có ý nghĩa sống còn đối với 
đất n−ớc họ, Chính phủ Minh Trị một 
mặt tích cực mời các chuyên gia đủ 
mọi ngành sang Nhật để h−ớng dẫn 
và giảng dạy, một mặt gửi sinh viên đi 
du học khắp n−ớc Âu-Mỹ. Trong việc 
mời chuyên gia sang Nhật cũng nh− 
khi chọn nơi để gửi sinh viên du học, 
tiêu chuẩn của ng−ời Nhật rất thiết 
thực: n−ớc nào giỏi ngành nào thì học 
ngành đó, không “lý t−ởng hóa” hay ỷ 
lại riêng một n−ớc nào. Cùng với các 
chuyên gia ngoại quốc, những du học 
sinh Nhật Bản khi trở về n−ớc đã 
đóng vai trò then chốt trong việc canh 
tân đất n−ớc. Ngoài ra, ng−ời Nhật 
cũng thấy đ−ợc rằng để n−ớc Nhật có 
thể thật sự canh tân đất n−ớc, điều 
quan trọng và cần thiết nhất là ng−ời 
Nhật phải từ bỏ những t− duy và phong 
cách làm ăn lỗi thời. Trong “chiến l−ợc 
con ng−ời” này (nói theo ngôn ngữ của 
Việt Nam ngày nay), Nhật Bản không 
thể không có những kế hoạch có tính 
phổ biến và bám trụ đối với quảng đại 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2007 38 
quần chúng nh− các công trình dịch 
thuật và giới thiệu những “sách cẩm 
nang” của văn minh ph−ơng Tây cận 
đại. Chính trên lĩnh vực phổ biến 
những sách vở về khoa học xã hội và 
khoa học nhân văn của ph−ơng Tây 
nhằm đào tạo và xây dựng những con 
ng−ời mới cho n−ớc Nhật trong một kỷ 
nguyên mới, Nhật Bản từ đầu thời 
Minh Trị đã v−ợt xa Trung Quốc và 
trở thành ng−ời phất cờ tiên phong 
trong các n−ớc Đông á. 
Bảng I: Số sách khoa học xã hội đ−ợc 
dịch sang tiếng Nhật cho đến năm 1890 
(liệt kê theo tên n−ớc nơi nguyên tác đ−ợc 
xuất bản). 
Bảng II: Số sách văn học đ−ợc dịch 
sang tiếng Nhật cho đến năm 1887 (liệt kê 
theo tên n−ớc nơi nguyên tác đ−ợc xuất 
bản)(*) 
Nhìn chung lại, tình hình dịch 
thuật nửa đầu thời Minh Trị có những 
đặc điểm sau đây: 
(*)
 Hai bảng này trích từ "The Impact of Victoria 
Liberal Literature upon Japan's Modernization" (ảnh 
h−ởng của những sách vở có t− t−ởng tự do thời 
Victoria [ở Anh] đối với công cuộc canh tân ở Nhật 
Bản). 
1- Các công trình dịch thuật nói 
chung là chuẩn xác và có trình độ cao, 
bởi lẽ các dịch giả ở Nhật th−ờng là 
những ng−ời đã từng ra n−ớc ngoài và 
có dịp quan sát tận mắt xã hội ph−ơng 
Tây hoặc là môn đệ của những ng−ời 
này. Có thể chia dịch giả thành 2 
nhóm: (a) những ng−ời làm việc trong 
các cơ quan nghiên cứu hoặc dịch 
thuật của Chính phủ và (b) những 
ng−ời đứng ngoài Chính phủ, tiêu biểu 
là Fukuzawa Yukichi. Vì việc tiếp thu 
văn hóa ph−ơng Tây đ−ợc Chính phủ 
Minh Trị đặt làm −u tiên hàng đầu, 
không chỉ riêng gì những trí thức Tây 
học (yôgakusha: D−ơng học giả) thuộc 
về phe thắng trận (chủ yếu là những 
võ sĩ đi từ Satsuma và Chôshu) đ−ợc 
trọng dụng mà những trí thức Tây học 
của phe bại trận (tức là những ng−ời 
đã cộng tác với chính quyền Tokugawa 
hay với những lãnh đại gần gũi với 
chính quyền này) cũng đ−ợc ng−ời 
trong chính quyền mới vì lợi ích chung 
cho n−ớc Nhật hết sức trọng dụng và 
nâng đỡ. Nói tóm lại, Chính phủ Minh 
Trị đã cố gắng tạo điều kiện để các trí 
thức Tây học khắp trong n−ớc có cơ 
hội sử dụng và đóng góp tài năng của 
họ. Trên thực tế, họ là những ng−ời đã 
cáng đáng vai trò đầu tầu trong việc 
truyền bá kiến thức và những t− 
t−ởng tiên tiến của ph−ơng Tây ở 
Nhật. 
2- Sách vở về văn minh ph−ơng 
Tây nói chung có thể chia thành 2 
loại: a) Sách về khoa học kỹ thuật, đặc 
biệt là sách về quân sự và công 
nghiệp; b) Sách nói về cơ chế xã hội, 
chính trị, kinh tế, cùng những vấn đề 
tinh thần và giá trị căn bản của văn 
minh ph−ơng Tây nh− tinh thần khoa 
học, tính tự lập v.v... ở Trung Quốc; 
phần lớn các sách ph−ơng Tây đ−ợc 
trực tiếp dịch thuật vào thập niên 
Anh 227 Hà Lan 8 
Pháp 184 Nga 6 
Hoa Kỳ 94 Thụy Sỹ 2 
Đức 80 Thụy Điển 1 
ý 11 Ba Lan 1 
áo 10 Đan Mạch 1 
Bỉ 8 
 Tổng cộng 633 
Anh & Hoa Kỳ 80 Nga 2 
Pháp 31 Hà Lan 1 
Đức 3 Bắc Âu 1 
 Tổng cộng 120 
Vai trò của dịch thuật 39 
1860 là những sách thuộc loại (a), tức 
là về kỹ thuật và quân sự. Tr−ớc khi 
Trung Quốc thua Nhật Bản trong 
chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), 
ngay trong các nhà trí thức Trung 
Quốc có t− t−ởng cải l−ơng cũng ít có 
ai để ý đến việc tiếp thu cơ chế xã hội - 
chính trị của ph−ơng Tây. Các trí thức 
Nhật cũng chỉ quan tâm đến lĩnh vực 
khoa học kỹ thuật, nh−ng nh− ta thấy, 
ngay sau đó họ đã kịp thời để ý ngay 
đến các lĩnh vực cơ chế và t− t−ởng. 
3- Hai bảng I và II cho ta thấy rõ 
rằng sách dịch từ tiếng Anh nhiều hơn 
hẳn sách các n−ớc khác (trong bảng II 
tuy các sách văn học Anh và Mỹ đ−ợc 
liệt kê chung với nhau, nếu tính riêng 
thì sách Anh cũng nhiều hơn hẳn sách 
Mỹ). Những sách “khoa học xã hội” 
trong bảng I gồm có các sách về kinh 
tế, chính trị, luật pháp và thống kê, 
t−ơng ứng với loại (b), tức là các sách 
về văn minh ph−ơng Tây. Nên để ý là 
các sách về văn học Anh cũng có ảnh 
h−ởng chính trị lớn đối với độc giả 
ng−ời Nhật, bởi lẽ các tác giả ng−ời 
Anh d−ới thời Nữ hoàng Victoria 
(1837-1901) th−ờng dùng tiểu thuyết 
làm ph−ơng tiện để truyền bá những 
t− t−ởng mới hoặc để phê phán xã hội, 
và từ thập niên 1880 các “tiểu thuyết 
chính trị” (Seiji Shôsetsu) cũng đã bắt 
đầu xuất hiện trên văn đàn Nhật Bản. 
Khoảng 15 - 20 năm đầu thời 
Minh Trị, văn đàn Nhật Bản mở rộng 
cửa đón gió Tây lồng lộng thổi vào: đó 
là giai đoạn làm quen, học hỏi, bắt 
ch−ớc, thể nghiệm để chuẩn bị cho 
một nền văn học mới ra đời, nhuần 
nhuyễn những yếu tố ph−ơng Tây. 
Những sách chính trị, khoa học, triết 
học, văn học đ−ợc dịch ào ạt. Một số 
phóng tác theo nhà văn Pháp V. Hugo, 
E. Zola, J. Verne kích thích óc t−ởng 
t−ợng của độc giả. Nhiều tác phẩm 
của các nhà văn, nhà thơ lớn nh− 
Shakespeare, Goeth, Tolstoi... đ−ợc 
dịch. Kinh thánh đạo Thiên Chúa 
cũng mang đến ý thức về băn khoăn 
cá nhân, âm nhạc ph−ơng Tây và cảm 
hứng thơ mới. Tuyển tập thơ Anh - Mỹ 
(dịch) đầu tiên xuất bản năm 1882. 
Hiện t−ợng hiện đại hóa trong văn 
học xảy ra do kết quả của sự tiếp xúc 
trực tiếp với văn hóa ph−ơng Tây nói 
chung và văn học châu Âu nói riêng. 
Thoạt đầu chúng ta tìm thấy vô số h− 
cấu qua những truyện Tây Du Ký qua 
vùng “Viễn Tây” huyền bí mà độc giả 
Nhật Bản háo hức tìm đọc sau khi mở 
cửa đất n−ớc, chẳng bao lâu sau đã có 
những bài viết kể về truyện du ký có 
thật. Với tất cả những tinh tuý của 
nền văn minh ph−ơng Tây mà ng−ời 
Nhật đã lựa chọn, ta không ngạc 
nhiên rằng vào cuối thế kỷ XIX văn 
học cổ điển châu Âu lại khoác lên nền 
văn học Nhật Bản đủ thứ chủ nghĩa 
mới xuất hiện, kể từ những bộ sách 
xuất hiện sớm nhất ở cung đình gồm 
các bài thơ chữ Hán và thơ Haikuu 
(phổ biến từ thế kỷ XVII rồi đ−ợc khôi 
phục lại vào những năm 1880). Những 
bản dịch thơ ca châu Âu đã truyền 
một cảm hứng cho thể thơ tự do theo 
phong cách của ng−ời Nhật, nhờ thế 
mà ra đời tuyển tập chiếm vị trí nổi 
bật trên văn đàn mang tên “Những 
cuộc săn bắn thời niên thiếu” (1897) 
của Shimazaki Tôson (1872-1943), 
cũng nh− các thi phẩm của Kanbara 
Ariake (1876-1952) và Kitahara 
Hakusgu (1885-1942), thơ ca của họ 
cho thấy rõ ảnh h−ởng chủ nghĩa biểu 
t−ợng của châu Âu và đánh dấu một 
sự mở đầu thực sự của thơ ca, theo 
phong cách hiện đại trên ng−ỡng cửa 
thế kỷ XX. 
Cuốn tiểu thuyết “Những đám 
mây trôi” giữa thời Minh Trị, vào 
khoảng giữa 1880-1890 là thời đại 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2007 40 
hoàng kim của cái gọi là “Tiểu thuyết 
chính trị”: Một sự pha trộn điển hình 
giữa ngôn ngữ và phong cách cận đại 
với t− liệu lấy từ lịch sử cách mạng 
của châu Âu và Mỹ. 
Văn học tiếp thu nhiều trào l−u t− 
t−ởng và văn học ph−ơng Tây: chủ 
nghĩa tự do, chủ nghĩa lãng mạn, chủ 
nghĩa t−ợng tr−ng, chủ nghĩa hiện 
thực, chủ nghĩa tự nhiên... Cuối thế kỷ 
XIX và khoảng m−ời mấy năm đầu thế 
kỷ XX đã xuất hiện những nhà văn 
đàn anh của thời Minh Trị. Các nhà 
văn ít mặn mà với truyền thống (đề 
tài gái giang hồ, võ sĩ...), h−ớng về 
ph−ơng Tây. Một số về cuối đời quay 
về truyền thống nh−ng th−ờng d−ới 
góc độ một ng−ời ph−ơng Tây tìm 
kiếm cái đẹp ly kỳ ở một nơi xa lạ. Đặc 
biệt nhiều nhà văn lớn đã chịu ảnh 
h−ởng rõ rệt của bốn nền văn học: 
Nga, Đức, Anh, Pháp. 
Đây là b−ớc ngoặt quan trọng của 
thời văn học mới. Các nhà văn này 
không mấy mặn mà với văn học 
truyền thống mà h−ớng về ph−ơng 
Tây. Nếu có viết về truyền thống thì 
họ cũng nhìn xã hội Nhật Bản qua 
lăng kính của ng−ời ph−ơng Tây. 
Nền văn học thuộc chủ nghĩa hiện 
đại, t−ơng phản với văn học hiện đại, 
đ−ợc đặc tr−ng bởi những cố gắng có ý 
thức của tác giả nhằm đem lại một đặc 
tính phi truyền thống rất rõ ràng 
trong các tác phẩm của họ, th−ờng thể 
hiện qua việc sử dụng các kỹ thuật 
thực nghiệm. Với tính cách là một trào 
l−u văn học ở Nhật Bản, chủ nghĩa 
hiện đại nói chung tìm thấy nguồn từ 
sự giới thiệu thuyết vị lai của ý(*) vào 
những năm đầu 1920. 
(*)
 Futurism: trào l−u nghệ thuật và văn học từ bỏ 
truyền thống tìm kiếm sự thể hiện khả năng và sự 
phát triển của một lối sống hiện đại máy móc (chủ 
nghĩa vị lai). 
ảnh h−ởng này tạo ra một cơn lũ 
kinh hồn và th−ờng là một thứ thơ ca 
không thể hiểu đ−ợc, vậy mà nó đ−ợc 
gán với các nghệ sỹ theo chủ nghĩa 
siêu thực hoặc nghệ sỹ theo chủ nghĩa 
Đa Đa, mặc dù hầu nh− không một ai 
ở Nhật hiểu ý nghĩa của thuật ngữ ấy. 
Thậm chí tr−ớc khi tiếng sấm này nổ 
ra, chỉ có số ít ng−ời viết văn xuôi là 
đ−ợc thử nghiệm một cách độc lập với 
kỹ thuật viết hiện đại tiếp thu đ−ợc từ 
n−ớc ngoài. Những hiểu biết rộng rãi 
của Sato Harno về Wilde và Nietzsche 
đã truyền cảm hứng cho các tác phẩm 
của ông khiến nó mang một giọng điệu 
đặc biệt không có liên quan rõ ràng cụ 
thể đối với bất kỳ nhà văn theo chủ 
nghĩa hiện đại nào ở châu Âu. Việc sử 
dụng có hệ thống ban đầu của kỹ 
thuật chủ nghĩa hiện đại trong văn 
xuôi ta có thể tìm thấy qua các trang 
viết của phái Shinkankakuha (tr−ờng 
phái cảm giác mới) đặc biệt trong các 
tác phẩm đầu tay của Yokemitsu 
Riichi. ảnh h−ởng Joyce và Proust có 
thể nhận ra ở Yokemitsu và tr−ờng 
hợp rõ nét nhất để nhấn mạnh ảnh 
h−ởng quan trọng của các tác giả này 
chính là đối với văn phái 
Shinkankakuha đứng đầu là Ito Sei. 
Ito Sei không chỉ dịch tác phẩm 
Ulysses mà còn viết các tiểu luận ca 
ngợi Joyce, ng−ời đ−ợc ông coi là bậc 
thầy. Hori Tatsuo mang một ấn t−ợng 
sâu sắc đối với Proust. Về vấn đề này 
còn phải kể đến các tác phẩm của 
Kawabata Yasunari, nhà lý luận hàng 
đầu của tr−ờng phái cảm giác mới, 
mặc dù ông th−ờng đ−ợc xem là một 
mẫu mực về truyền thống Nhật Bản 
thanh khiết. 
Hầu hết những nhà văn Nhật Bản 
quan trọng của thế kỷ XX đều thuộc 
vào giai đoạn chủ nghĩa hiện đại. Việc 
dịch thuật nền văn học hiện đại châu 
Vai trò của dịch thuật 41 
Âu từ nguyên bản đã khiến các nhà 
văn quan tâm một cách nghiêm túc 
đến nghề của mình, và th−ờng là dẫn 
tới sự bắt ch−ớc trực tiếp các ph−ơng 
pháp tu từ học mới. Tanizaki 
Junichiro, khi hồi t−ởng lại những 
năm cuối của giai đoạn ấy trong sự 
nghiệp của mình, đã viết: “Tôi không 
tin rằng chịu ảnh h−ởng của ph−ơng 
Tây là có hại hoặc không có lợi cho 
sáng tác của tôi, nh−ng không một ai 
biết rõ nh− tôi rằng ảnh h−ởng này tự 
nó bộc lộ, ít ra trong các tác phẩm thời 
trẻ của tôi”. 
Qua các nghiên cứu của tôi về 
Natsume Soseki (1867-1916), Mori 
Ogai (1862-1922), Tanizaki Junichiro 
(1886-1965), Kawabata Yasunari 
(1899-1972), Mishima Yukio (1925-
1970), tôi nhận thấy các nhà văn bậc 
thầy này đều am hiểu nhuần nhuyễn 
về văn học ph−ơng Tây, chịu ảnh 
h−ởng sâu sắc nhiều nhà văn lớn của 
ph−ơng Tây nh− đã nêu ở trên. Để rồi 
họ sử dụng đầy sáng tạo các thành tựu 
của kỹ thuật viết văn ph−ơng Tây vào 
phản ánh các đề tài Nhật Bản truyền 
thống hoặc các vấn đề của xã hội Nhật 
Bản đ−ơng đại. 
Nh− vậy, sự chấp nhận (hon'an) 
các tác phẩm văn ch−ơng châu Âu, 
thông qua việc dịch thuật, có lẽ đã 
đóng góp một vai trò quan trọng to lớn 
trong sự phát triển nền văn ch−ơng 
Nhật Bản hiện đại. Vào cuối thế kỷ 
XIX, có thể nói không một nhà văn 
Nhật Bản có tầm quan trọng nào mà 
không chịu ảnh h−ởng thông qua sự 
hiểu biết văn học châu Âu. Đã thế, 
tr−ớc đó một số nhà văn còn khẳng 
định rằng họ cảm thấy vô cùng gần 
gũi với Tolstoi, Dostoevski hoặc 
Stendhal, tất cả đều qua các bản dịch, 
hơn là họ đã làm với bất kỳ tác phẩm 
nào của truyền thống Nhật. 
Thời kỳ lịch sử của dịch thuật nêu 
trên t−ơng đối ngắn, và trong những 
năm 1890 thậm chí còn có những 
phản ứng chống lại nền văn ch−ơng 
ph−ơng Tây nhằm ủng hộ sự phát 
hiện lại Nhật Bản. Thế nh−ng truyền 
thống dịch thuật đã đ−ợc thiết lập 
vững chắc trong những năm 1870 và 
1880. Các tác phẩm châu Âu đ−ợc dịch 
đi dịch lại, chất l−ợng dịch ngày càng 
tốt hơn. ở thời Minh Trị, dịch văn học 
đã tạo thành một bộ phận quan trọng 
của nhà văn Nhật Bản. Về sau, việc 
dịch thuật còn đ−ợc mở rộng sang giới 
thiệu các quốc gia khác chứ không chỉ 
riêng châu Âu. 
Ng−ời Nhật tiếp tục đ−ợc đọc rộng 
rãi nền văn ch−ơng cổ điển và đ−ơng 
đại của ph−ơng Tây, còn các tác gia 
Nhật Bản cũng có thể thu l−ợm đ−ợc 
những gì là tinh tuý từ các ngọn 
nguồn văn ch−ơng toàn thế giới. 
Tài liệu tham khảo 
1.Donald Keene. The Age of 
Translation (Dawn to the West) 
Japanese Literature of the Modern 
Era, New York, Henry Holt and 
Company, 1984. 
2. Samson, G.B. The Western World 
and Japan. London, The Cresset 
Press, 1950. 
3. Vĩnh Sính. Việt Nam và Nhật Bản 
giao l−u văn hóa. Tp. Hồ Chí Minh: 
Văn nghệ, 2001. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_dich_thuat_van_hoc_trong_tiep_xuc_van_hoa_phuong.pdf