Tư tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan Bội Châu trong bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX có sự phát triển đột phá

về chất trong lịch sử. Khởi đầu cho sự đột

phá này là sự hình thành của dòng tư tưởng

cải cách, canh tân đất nước, của những khát

vọng tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc

mà đại biểu là các sĩ phu, các nhà trí thức

yêu nước. Trong số các sĩ phu yêu nước thời

kỳ này, Phan Bội Châu chính là một trong

những nhà tư tưởng canh tân tiêu biểu theo

khuynh hướng dân chủ tư sản. Trong toàn bộ

di sản tư tưởng của ông, tư tưởng “Quốc dân

tự lập” là một trong những tư tưởng thể hiện

rõ nét khát vọng của ông về nền độc lập dân

tộc. Tư tưởng ấy cũng thể hiện tinh thần yêu

nước của Phan Bội Châu với một sắc thái

mới thể hiện ở những quan điểm sâu sắc và

cụ thể của ông về các vấn đề thuộc lĩnh vực

dân chủ gắn liền với vận mệnh của dân tộc

mình. Từ góc độ triết học chính trị, bài viết

đi sâu phân tích tư tưởng “Quốc dân tự lập”

của Phan Bội Châu và chỉ ra những giá trị

cũng như những hạn chế của tư tưởng này.

pdf 7 trang kimcuc 3280
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan Bội Châu trong bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan Bội Châu trong bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Tư tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan Bội Châu trong bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
115
Tư tưởng “quốc dân tự lập” của ...
TÓM TẮT
Tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 
XIX đầu thế kỷ XX có sự phát triển đột phá 
về chất trong lịch sử. Khởi đầu cho sự đột 
phá này là sự hình thành của dòng tư tưởng 
cải cách, canh tân đất nước, của những khát 
vọng tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc 
mà đại biểu là các sĩ phu, các nhà trí thức 
yêu nước. Trong số các sĩ phu yêu nước thời 
kỳ này, Phan Bội Châu chính là một trong 
những nhà tư tưởng canh tân tiêu biểu theo 
khuynh hướng dân chủ tư sản. Trong toàn bộ 
di sản tư tưởng của ông, tư tưởng “Quốc dân 
tự lập” là một trong những tư tưởng thể hiện 
rõ nét khát vọng của ông về nền độc lập dân 
tộc. Tư tưởng ấy cũng thể hiện tinh thần yêu 
nước của Phan Bội Châu với một sắc thái 
mới thể hiện ở những quan điểm sâu sắc và 
cụ thể của ông về các vấn đề thuộc lĩnh vực 
dân chủ gắn liền với vận mệnh của dân tộc 
mình. Từ góc độ triết học chính trị, bài viết 
đi sâu phân tích tư tưởng “Quốc dân tự lập” 
của Phan Bội Châu và chỉ ra những giá trị 
cũng như những hạn chế của tư tưởng này.
Từ khóa: Phan Bội Châu, dân chủ, 
Quốc dân.
Nghiên cứu - Trao đổi
TƯ TƯỞNG “QUỐC DÂN TỰ LẬP” CỦA PHAN BỘI CHÂU 
TRONG BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG VIỆT NAM 
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
Bùi Xuân Thanh*
THE ROLE OF PHAN BOI CHAU’S THOUGHT THAT “PEOPLE HAVE TO 
STAND ON THEIR OWN FEET” IN VIETNAM IDEOLOGICAL SHIFT IN 
THE LATE NINETEENTH AND EARLY TWENTIETH CENTURIES
ABSTRACT
The ideology of people in Vietnam in 
the late Nineteenth and early Twentieth 
centuries had a historic breakthrough in 
quality. The beginning of such event was the 
formation of the line of thought advocating 
reform and renewal of the country of such 
people with the aspirations for the path to 
national liberation represented by feudal 
intellectuals and patriotic intellectuals. 
Among the patriotic intellectuals of this 
period, Phan Boi Chau was one of the 
typical thinker on nation refeforming in the 
Bourgeois Democratic tendency. Throughout 
his ideological heritage, the ideal that 
“People have to stand on their own feet” 
was one of the ideals expressing most clearly 
*
 TS.GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
his aspirations for national independence. 
This ideal also relected Phan Boi Chau’s 
patriotic spirit with a new nuance presenting 
in his insightful and speciic views on the 
issues of democracy that were attached to the 
destiny of his nation. From the perspective 
of political philosophy, the article is to delve 
into analyzing the ideal that “People have to 
stand on their own feet” of Phan Boi Chau and 
points out the values as well as limitations of 
this ideal. 
Key words: Phan Boi Chau, democracy, 
People.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối 
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn du 
nhập tư tưởng dân chủ tư sản vào nước ta. Cơ 
sở để tiếp nhận hệ tư tưởng này là giai cấp tư 
sản, nhưng lúc ấy giai cấp tư sản Việt Nam 
chưa ra đời. Đến nước ta trong điều kiện như 
vậy, tư tưởng dân chủ tư sản chỉ có thể tạo ra 
những gợi ý cho tư duy của lãnh tụ các phong 
trào yêu nước; và chính điều đó đã làm nên 
tính chuyển tiếp về mặt tư tưởng của tư tưởng 
Việt Nam ở giai đoạn này. 
Trong giai đoạn chuyển tiếp về mặt tư 
tưởng đã đề cập trên đây, Phan Bội Châu 
(1867 – 1940) là người có vị trí rất đặc biệt. 
Cùng với Phan Châu Trinh (1872 – 1926), 
Phan Bội Châu chính là gạch nối của quá 
trình chuyển hóa từ chủ nghĩa yêu nước thuộc 
phạm trù trung đại sang chủ nghĩa yêu nước 
thuộc phạm trù cận đại; trong đó tư tưởng 
“quốc dân tự lập” của ông chính là một trong 
những gạch nối ấy. 
Có thể nói, trong toàn bộ di sản tư tưởng 
Phan Bội Châu để lại cho chúng ta , tư tưởng 
“Quốc dân tự lập” là một trong những tư 
tưởng thể hiện rõ nét nhất khát vọng của ông 
về nền độc lập dân tộc. Tư tưởng ấy cũng thể 
hiện tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu 
với một sắc thái mới khi ông thẳng thắn vạch 
ra những tệ bệnh của quốc gia, dân tộc mình. 
Sắc thái mới ấy không chỉ làm phong phú 
thêm chủ nghĩa yêu nước với tư cách là dòng 
chủ lưu trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt 
Nam, mà còn làm cho bước chuyển tư tưởng 
việt nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thêm 
sắc nét và đa dạng. Tư tưởng “Quốc dân tự 
lập” của Phan Bội Châu cũng cho thấy ông là 
một trong những nhà tư tưởng canh tân theo 
khuynh hướng dân chủ tư sản.Tư tưởng ấy 
được thể hiện ở những quan điểm sâu sắc và 
cụ thể của ông về quyền con người và những 
vấn đề thuộc lĩnh vực dân chủ có liên quan 
chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc mình. 
Trong tư tưởng “Quốc dân tự lập” của 
Phan Bội Châu, “Quốc dân” gắn liền với dân 
chủ.Theo ông, trong xã hội phong kiến và 
trước đó chưa có dân chủ nên chưa có khái 
niệm “Quốc dân”. Điều đó có nghĩa, “Quốc 
dân” chỉ thực sự xuất hiện khi chế độ phong 
kiến được thay bằng chế độ dân chủ. Vậy 
“Quốc dân” là gì ? Phan Bội Châu cho rằng 
ở nước ta vào những nĕm đầu thế kỷ XX, từ 
“Quốc dân” vẫn còn mới mẻ và chúng ta chỉ 
biết đến khái niệm ấy khi tư tưởng dân chủ tư 
sản thâm nhập vào nước ta. Tuy nhiên “ 
Quốc dân” gắn với dân chủ không phải là sản 
phẩm của sự “ khai hóa vĕn minh” của thực 
dân Pháp, mà là kết quả của quá trình đấu 
tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. 
Ông viết: “ Nào Lâm ấp, nào Chiêm Thành, 
nào Mên, nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắt 
đoàn, kéo đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội 
mưa, trèo non vượt bể, khua loài Chiêm, đuổi 
bầy Lạp, hốt mấy ngàn dặm non sông bỏ vào 
trong túi mình , thì cơ đồ gấm vóc sau này, 
chúng ta làm sao trông thấy được ?
Suy thấu lẽ ấy mới biết rằng Quốc là 
117
Tư tưởng “quốc dân tự lập” của ...
Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên chiếm 
của Quốc ta”1
Như vậy, Phan Bội Châu đã xác định 
được một trong những quyền cơ bản nhất, 
thiêng liêng nhất của con người nói chung và 
của con người Việt Nam nói riêng là quyền 
làm chủ vận mệnh đất nước. Mặc dù Phan 
Bội Châu không trực tiếp bàn đến dân chủ 
nhưng ông đã cụ thể hóa tư tưởng dân chủ 
với tính cách là quyền lực của nhân dân 
thành quyền làm chủ của dân với nước. Khi 
nói về quyền của dân ta đối với đất nước, 
ông cũng chỉ rõ: “Trên dưới bốn nghìn nĕm, 
trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao giây 
máu, hột mủ tuôn dổ ra cung cấp cho nước 
đó, có một giọt nào không phải của dân ta 
đâu ? Vì vậy nếu không có dân thì ai làm nên 
nước ? Nếu không có nước thời còn quý gì 
dân”2; và ông khẳng định: “ Linh hồn của 
nước là dân”, “ Khu xác của dân là nước”3. 
Từ đó cho thấy, trong tư tưởng của Phan Bội 
Châu, “Quốc dân” có nghĩa là dân làm chủ 
nước; và quyền dân làm chủ nước chính là 
quyền thiêng liêng nhất của dân nên không 
thể tách rời dân với nước. Nếu dân mất nước 
thì dân sẽ mất tất cả, kể cả những quyền tối 
thiểu nhất của con người, nghĩa là mất tự do. 
Xuất phát từ đó Phan Bội Châu khẳng định 
các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình 
đẳng và một trong những biểu hiện của quyền 
bình đẳng là địa vị quốc dân. Trong suy nghĩ 
của ông, “Quốc dân” là quyền của tạo hóa 
ban cho con người và con người phải biết 
đón nhận nó. Một dân tộc không có “chức 
quốc dân” là một dân tộc sống kiếp “gia nô”, 
đánh mất nhân quyền.
Khảo sát toàn bộ lịch sử nước ta từ đầu 
1 Phan Sào Nam, Cao đẳng Quốc dân, Nxb. Anh 
Minh, Huế, 1957, tr 8.
2 Phan Sào Nam, sđd, tr 8 – 9.
3 Phan Sào Nam, sđd, tr 9.
thế kỷ XX trở về trước, Phan Bội Châu cho 
rằng trong các triều đại phong kiến nước ta 
chưa có “ Quốc dân” mà chỉ có “gia nô”. 
Ông nói: “ Gặp Đinh thời làm nô với Đinh, 
Gặp Trần thời làm nô với Trần Gặp Lê Lý 
thời làm nô với Lê Lý, phận con hầu, thằng 
ở, đòi được miếng cơm thừa, canh cặn thời 
đã lấy làm hớn hở, vinh quang, tối tĕm đứng 
đầu ruộng mới có được bát cơm ĕn, suốt đêm 
ngồi trên bàn khung cửi mới có tấm áo mặc, 
mà thoạt mở miệng ra thời chỉ nói rằng “ cơm 
vua áo chúa” ”4 Theo đó, trong suốt thời kỳ 
phong kiến, ngay cả khi đất nước thái bình, 
dân ta không có quyền làm chủ đất nước. Cái 
quyền ấy là của vua chúa, còn dân chỉ biết 
phục tùng vua chúa một cách mù quáng.
Xuất thân trong một gia đình dòng dõi 
nho học, bản thân là người am hiểu sâu sắc 
học thuyết Khổng Mạnh, Phan Bội Châu tiếp 
thu tư tưởng “dân vi quý” của Mạnh Tử. Ông 
cho rằng, thân phận “gia nô” mà dân ta phải 
gánh chịu trong suốt thời kỳ phong kiến là 
một sự bất công. Nhưng theo ông sự bất công 
ấy không phải do trời quy định mà do sự kém 
hiểu biết của dân. Từ đó ông khẳng định, nếu 
dân ta muốn đòi quyền “Quốc dân” đã mất, 
thì trước hết phải ý thức về quyền “Quốc 
dân”. Cái quyền ấy không thể đến với dân tộc 
nào kém hiểu biết về quyền con người, quyền 
làm chủ. Từ quan điểm “Gia nô là thằng ở 
của một nhà, quốc dân là ông chủ của một 
nước”5, Phan Bội Châu kêu gọi dân ta: “Gia 
nô! gia nô! Cái oai kiếp đó từ nay nên sám 
hối là phải”6. Theo ông, “Gia nô” phải “gánh 
chức quốc dân” vì đó không chỉ là quyền lợi, 
mà còn là nghĩa vụ của mỗi người dân nước 
ta trong thời đại mới. Trong suy nghĩ của ông, 
bỏ thân phận nô lệ, con ở để “gánh chức quốc 
dân” còn là đạo làm người, là “lương tri” của 
4 Phan Sào Nam, sđd, tr 10.
5 Phan Sào Nam, sđd, tr 11.
6 Phan Sào Nam, sđd, tr 11.
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chúng ta, vì như vậy là chúng ta biết bỏ phần 
ty tiện, giành lấy phần cao quý.
“Gánh chức quốc dân” nghĩa là dân giành 
lấy quyền làm chủ đất nước. Để làm được 
điều đó, theo Phan Bội Châu chúng ta phải 
tự cứu lấy mình. Ông nói: “ đạo trời rất công 
phu, lòng trời rất nhân ái, người nước nào 
cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình 
đẳng, trời có thương gì dân nước ta ? Cái 
chức quốc dân trời vẫn ban cho ta”1. Như 
vậy, theo Phan Bội Châu quyền làm chủ của 
dân với nước là quyền tự nhiên, vốn có nên 
không cần và không thể cầu xin ở trời. Chúng 
ta cũng không thể cầu xin quyền ấy của một 
dân tộc khác, đặc biệt là ở kẻ thù đã cướp 
quyền ấy của dân ta vì nếu ta thoát khỏi sự đô 
hộ và gánh chức quốc dân thì kẻ đô hộ cũng 
mất đi đặc quyền, đặc lợi của nó. Chính vì 
thế, để lấy lại “chức quốc dân”, lòng ta phải 
kiên định hướng về nó, “vai ta gánh, tay ta 
đỡ, sức ta đua, trí khôn ta tìm tòi”2, nghĩa là 
chúng ta phải biết tự lập, tự cường – dân làm 
chủ nước phải bằng con đường tự lập. Từ đó 
cho thấy “Quốc dân tự lập” là nhân dân làm 
chủ đất nước bằng nội lực. Nói cách khác, 
một dân tộc phải giành được độc lập và xây 
dựng một chế độ xã hội, trong đó nhân dân 
làm chủ đất nước bằng chính tiềm lực của 
dân tộc mình. 
Trong tư tưởng của Phan Bội Châu, 
“Quốc dân tự lập” gắn liền với “Quốc dân cao 
đẳng”, trong đó “Quốc dân tự lập” quy định 
và làm nên “Quốc dân cao đẳng”, nghĩa là 
dân làm chủ đất nước là điều kiện để đưa dân 
địa vị “cao đẳng”. Chính vì thế trong suốt cả 
cuộc đời, Phan Bội Châu luôn luôn trĕn trở, 
suy tư tìm ra con đường giải phóng dân tộc 
để quốc dân tự lập vươn lên bằng các cường 
quốc nĕm châu. Con đường ấy, theo ông là 
1 Phan Sào Nam, sđd, tr 9 – 10.
2 Phan Sào Nam, sđd, tr 13.
phải loại bỏ được những mặt tiêu cực mà ông 
gọi là “ tệ bệnh” của dân ta. Trong bối cảnh 
xã hội đương thời, Phan Bội Châu thẳng thắn 
chỉ ra những “ cĕn bệnh” của dân ta là: tính 
ỷ lại, lòng giả dối, thói nhút nhát, tham lợi 
riêng, hư danh, không thực lòng yêu nước, 
không biết hợp quần, mê tín hủ tục, không 
biết làm kinh tế và không biết thương nòi 
giống. Xuất phát từ cách đặt vấn đề như vậy, 
Phan Bội Châu đưa ra các giải pháp nhằm 
chữa khỏi những “cĕn bệnh” này vì theo ông 
chỉ khi nào loại trừ được những “cĕn bệnh” 
ấy chúng ta mới có thể tự lập, đưa đất nước 
tới chỗ phú cường.
Nói về bệnh “ỷ lại”, Phan Bội Châu nhắc 
lại câu tục ngữ: “Tháp đổ có Ngô xây, việc 
gì vợ góa lo ngày, lo đêm” để phê phán sự 
bàng quan của một số người trước vận mệnh 
của đất nước. Trong suy nghĩ của ông, việc 
Đồng Khánh cam tâm làm tay sai cho giặc, 
Thành Thái (1889-1907) bất lực và bế tắc, 
Khải Định (1916-1925) và Bảo Đại (1925-
1945) là bù nhìn, là con bài tội nghiệp trong 
tay thực dân Pháp, chính là hậu quả của thói 
ỷ lại. Từ đó ông kêu gọi “tính tự cường” của 
nhân dân. Tự cường, theo cách hiểu của Phan 
Bội Châu là “ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, 
rán vai nong cánh, đồng một lòng, đều một 
sức, mình sắp lấy núi sông mình, tháp mình 
mình xây”3. Đối với ông, “tính tự cường” là 
phương thuốc chữa “cĕn bệnh ỷ lại”, nên chỉ 
có sự tự cường mới có thể đưa dân ta ra khỏi 
sự đô hộ của thưc dân Pháp, đứng lên làm 
chủ đất nước, làm chủ cuộc đời.
Bệnh giả dối, theo Phan Bội Châu, được 
sinh ra từ thói “ỷ lại” cũng là một trong những 
nguyên nhân làm cho quốc dân không thể tự 
lập. Trong xã hội đương thời, bệnh giả dối có 
ở tất cả các tầng lớp sĩ , nông, công, thương: 
“Sĩ hay giả dối thời tìm tòi đạo lý, không cậy 
3 Phan Sào Nam, sđd, tr 16.
119
Tư tưởng “quốc dân tự lập” của ...
óc mình mà cậy tai, nông hay giả dối thời cày 
cấy ruộng trưa, không cậy mình mà cậy đất, 
công hay giả dối thường phấn sức lừa đời mà 
không cầu thực dụng, thương hay giả dối thời 
đua nhau bợm vặt mà mất cả lợi to. Thậm 
chí mướn đạo đức làm lối cầu danh mà trá 
vàng ở ngoài mặt, mướn nhân nghĩa làm mối 
cầu lợi mà xức mật ở đầu môi”1. Theo đó, 
giả dối là “tay dối lòng”, “miệng dối dạ”, lời 
nói, cử chỉ, mượn tiếng đạo đức, nhân nghĩa, 
nhưng thực ra trong tâm chỉ mong cầu lợi ích 
riêng cho bản thân mình Phan Bội Châu 
cho rằng, bệnh giả dối tất yếu sẽ đưa đất nước 
đến tình trạng suy vong. Muốn loại trừ nó, 
mọi người phải có “lòng thành thực”. Khi tất 
cả mọi người có “lòng thành thực” mưu cầu 
lợi ích chung, đất nước sẽ trở nên phú cường 
và tự lập.
Đối với các “cĕn bệnh” khác như: tính 
“nhút nhát” “tham lợi riêng”, “hư danh”, “ái 
quốc giả”, “không hợp quần”, “không thương 
nòi giống”, mặc dù biểu hiện có khác nhau và 
“phương thuốc chữa trị” cho từng “cĕn bệnh” 
ấy không giống nhau nhưng về mặt phương 
pháp đều giống như cách chữa trị hai cĕn bệnh 
“ỷ lại” và “giả dối” đã đề cập trên đây. Để 
chữa “cĕn bệnh nhút nhát”, Phan Bội Châu 
kêu gọi “gan cả quyết”, ông lấy “lòng công 
ích” chữa lành “tham lợi riêng”, dùng “thực 
nghiệp” để trị thói “tham danh”, sử dụng lòng 
nhiệt thành chữa cĕn bệnh “ái quốc giả”, hô 
hào “đồng tâm” để loại trừ chứng “không 
hợp quần”, và kêu gọi “lòng thân ái” để chữa 
cĕn bệnh “không biết thương nòi giống”. 
Với cách đặt và giải quyết vấn đề trên 
đây của Phan Bội Châu, chúng ta nhận thấy 
ở ông một bầu nhiệt huyết và một tấm lòng 
yêu nước hết sức chân thành. Song cũng phải 
thừa nhận rằng, cái cách ông giải quyết vấn 
đề là không triệt để. Phần lớn “cĕn bệnh” 
1 Phan Sào Nam, sđd, tr 17.
và “đơn thuốc” chữa trị chúng chỉ là những 
mệnh đề mâu thuẫn nhau, nhưng Phan Bội 
Châu không hướng tới giải quyết những 
mâu thuẫn đó. Mặc dù tính tự cường, lòng 
thành thực, gan cả quyết, lòng công ích, vai 
thực nghiệp, sự đồng tâm, hay lòng nhân ái 
là những phẩm chất làm nên sức mạnh của 
một dân tộc. Nhưng vấn đề là ở chỗ bằng 
con đường nào để khơi dậy và rèn luyện cho 
dân ta có được những phẩm chất ấy thì Phan 
Bội Châu lại chưa trả lời được câu hỏi đó. 
Điều đó cho thấy Phan Bội Châu đã lấy ý 
chí làm điểm xuất phát để nới lòng mình lan 
tỏa tới người trong việc kêu gọi yêu nước và 
rèn luyện tinh thần dân tộc. Tuy nhiên, trong 
đời sống xã hội đầy những biến cố phức tạp, 
những giải pháp thiên về ý chí của ông đưa 
ra sẽ gặp rất nhiều lực cản, làm cho nó không 
thể hiện một cách suôn sẻ và khó trở thành 
phổ biến. Khi những giải pháp thiên về ý chí 
ấy không thể đi vào cuộc sống, không giải 
quyết được mối quan hệ giữa nó với những 
“tệ bệnh” của nhân dân thì việc hiện thực hóa 
“Quốc dân tự lập” chỉ là sự thể hiện mờ nhạt.
Trước sự xung đột giữa lẽ phải và dục 
vọng, Phan Bội Châu cũng chỉ đề cao lòng 
yêu nước để xoa dịu tình hình mà không thực 
sự giải quyết mâu thuẫn đó. Ông mong con 
người hướng thiện và từ bỏ tệ bệnh, nhưng 
con người có hướng thiện được hay không 
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sinh lý, hoàn 
cảnh khách quan, điều kiện sống Phan Bội 
Châu chưa sử dụng và kết hợp chặt chẽ các 
yếu tố ấy để giảm bớt những sai trái trong 
hành vi con người nên dù có nêu cao tinh 
thần đạo đức, góp phần kiềm chế những hành 
vi không theo lẽ phải, song nhìn chung vẫn 
hạn chế. Tuy nhiên, hạn chế của ông cũng là 
hạn chế của thời đại. Không chỉ riêng ông, 
mà các sĩ phu yêu nước cùng thời cũng đã rơi 
vào bế tắc trong việc tìm ra con đường đưa 
“Quốc dân” lên hàng “cao đẳng ”.
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Ngoài những hạn chế mang tính thời 
đại trên đây, tư tưởng “Quốc dân tự lập” 
của Phan Bội Châu cũng có nhiều điểm đặc 
sắc mang giá trị nhân loại phổ biến; và một 
trong những điểm đặc điểm sắc đáng lưu ý đó 
chính là chủ trương phát triển khoa học, kinh 
tế nhằm chấn hưng đất nước.
Trong mười “cĕn bệnh” làm cho quốc dân 
không thể tự lập mà Phan Bội Châu đưa ra có 
hai “cĕn bệnh”: mê tín hủ tục và không biết 
làm kinh tế. Về “cĕn bệnh mê tín”, Phan Bội 
Châu chỉ rõ đó là sự mê tín quyền vua, quyền 
quan. Ông nhấn mạnh: “Bệnh mê tín rất nặng 
là mê tín quyền vua, vì mê tín quyền vua nên 
mê tín quyền quan, mà quyền vua, quyền 
quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháo”1. 
Trong khi người ta mê tín những quyền ấy thì 
đồng thời đánh mất “quyền dân” của mình. 
Theo Phan Bội Châu, nguyên nhân sinh ra 
cĕn bệnh “mê tín hủ tục” là do “dân không trí; 
dân không có trí nên mới mê tín quá nhiều”2. 
Ông chỉ rõ: nền chính trị của vua chúa là nền 
chính trị thần quyền. Tin theo nền chính trị 
thần quyền là do ngu trí. Nhân vì “ngu” mà 
sinh ra “hủ”, vì “hủ” mà lại thêm “ngu” nên 
mới bằng lòng với kiếp “cu ly” làm mất đi lẽ 
sống của mình. Muốn bài trừ cĕn bệnh “mê 
tín hủ tục”, Phan Bội Châu chủ trương phát 
triển giáo dục và phát triển khoa học nhằm 
nâng cao tri thức cho nhân dân. Điều đáng 
lưu ý là Phan Bội Châu không chỉ đề cao tri 
thức khoa học. Để đánh đổ sự mê tín thần 
quyền và để “Quốc dân tự lập”, ông đã thấy 
sự cần thiết phải nâng cao tri thức chính trị 
- xã hội cho dân, chẳng hạn như tri thức về 
quyền con người, về tự do
Quan điểm của Phan Bội Châu về sự 
phát triển kinh tế nhằm chấn hưng đất nước 
về thực chất là quan điểm đề cao “nội hóa”, 
1 Phan Sào Nam, sđd, tr 33.
2 Phan Sào Nam, sđd, tr 33.
bài trừ “ngoại hóa”. Nếu đặt trong bối cảnh 
hội nhập quốc tế hiện nay thì quan điểm ấy 
không còn phù hợp. Nhưng nếu xem xét quan 
điểm ấy một cách toàn diện và đặt nó trong 
bối cảnh xã hội đương thời khi nước ta đang 
chịu sự đô hộ của thực dân Pháp, thì quan 
điểm ấy vẫn có những giá trị nhất định.
Trước hết, giá trị của tư tưởng ấy ở chỗ 
Phan Bội Châu đã xác định đúng “Nguồn bể 
phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế”3. Theo 
ông, “đường kinh tế” là con đường phát triển 
kinh tế đất nước, hay cách làm kinh tế. Nhưng 
đó là cách làm kinh tế để nước ta có thể “tự 
lập”, nên ông cho rằng phải đề cao “nội hóa”. 
“Nội hóa” là “đồ ĕn ta, ta ĕn, đồ mặc ta, ta 
mặc, đồ dùng ta, ta dùng”4. Trong suy nghĩ 
của ông, chỉ bằng cách ấy nghề nghiệp mới 
mở rộng, dân trí mới phát triển, tạo nên thế 
nước ta đua tranh với nước khác.
Mặt khác để phát triển kinh tế, Phan Bội 
Châu yêu cầu chúng ta cần phải tiết kiệm để 
mở rộng sản xuất, phải biết tận dụng những 
gì thiên nhiên đã ưu đãi cho nước ta. Ông 
nhấn mạnh: “Sinh nở thường vô cùng, mà 
tiêu hao thời thường có hạn; của trời đất sinh 
ra thời biết đường lợi dụng, của nhân lực làm 
ra thời biết đường mở mang”5. Đối với sự 
phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn 
hiện nay, tư tưởng này vẫn là tư tưởng có giá 
trị định hướng và mang tính thời sự.
Giá trị đáng lưu ý nữa trong quan điểm tự 
lập về kinh tế của Phan Bội Châu là ông đã 
nhận thấy vai trò của khoa học và máy móc 
đối với sự phát triển sản xuất. Mặc dù bài 
trừ “ngoại hóa” nhưng Phan Bội Châu không 
phủ nhận những thành tựu vĕn minh nhân 
loại đã đạt được. Chính vì thế ông đòi hỏi 
chúng ta phải học được những cái hay của 
3 Phan Sào Nam, sđd, tr 36.
4 Phan Sào Nam, sđd, tr 36.
5 Phan Sào Nam, sđd, tr 38.
121
Tư tưởng “quốc dân tự lập” của ...
“ngoại quốc”; và theo ông, một trong những 
cái hay ấy chính là “dùng máy móc đỡ chân 
tay”. Ông viết: “Người ngoại quốc lấy máy 
móc đỡ chân tay mà mình không biết học”1. 
Trong bối cảnh xã hội đương thời, tư tưởng 
ấy của Phan Bội Châu là tư tưởng tiến bộ đi 
trước thời đại.
Tóm lại: Nếu lịch sử tư tưởng Việt Nam 
giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
là giai đoạn chuyển tiếp về tư tưởng, thì tư 
tưởng “Quốc dân tự lập” của Phan Bội Châu 
là một trong những tư tưởng thể hiện được 
tính chuyển tiếp ấy. Thông qua tư tưởng đó, 
Phan Bội Châu đã nói lên khát vọng của cả 
một dân tộc về một nền độc lập, về tự do 
và dân chủ. Thế nhưng, với cách đặt và giải 
quyết vấn đề trong tư tưởng “Quốc dân tự 
lập” đã chứng tỏ các sĩ phu yêu nước đương 
thời nói chung và Phan Bội Châu nói riêng 
vẫn còn đang trên con đường tìm kiếm ra 
hướng đi mới cho đất nước.
Con đường nào có thể đưa dân tộc ta tới 
độc lập, tự do? Các sĩ phu yêu nước đương 
thời cũng như Phan Bội Châu đã thật sự bế 
tắc trong việc trả lời câu hỏi ấy. Mặc dù Phan 
Bội Châu cũng từng nói tới sự cần thiết có 
một chủ nghĩa soi đường dẫn lối dân ta thoát 
khỏi cảnh nước nước mất nhà tan, nhưng chủ 
nghĩa ấy là gì thì ông lại không có câu trả 
lời cụ thể. Chính vì không có chủ trương về 
một chủ nghĩa nhất định nên Phan Bội Châu 
không thể lảnh đạo nhân dân làm sự nghiệp 
cách mạng giải phóng đất nước.
Tuy nhiên chúng ta phải thừa nhận rằng, 
Phan Bội Châu chỉ có thể làm được những gì 
mà ông và thời đại ông có thể làm nên cho 
dù cuộc đời ông “chỉ toàn thất bại” như ông 
đã thừa nhận, nhưng ông vẫn mãi mãi là một 
tấm gương sáng về lòng yêu nước và tinh 
thần cách mạng. Tư tưởng Phan Bội Châu nói 
chung và tư tưởng “Quốc dân tư lập” của ông 
nói riêng mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng 
vẫn có giá trị gợi mở cho các thế hệ người 
Việt Nam trên con đường cách mạng và kiến 
thiết quốc gia. Có thể nói, giá trị của tư tưởng 
“Quốc dân tự lập” không phải ở tính hàn lâm, 
mà ở vai trò thực tiễn của nó. Trong bối cảnh 
xã hội đương thời, tư tưởng ấy có vai trò 
không nhỏ đối với việc cổ vũ lòng yêu nước, 
khích lệ lòng tự hào dân tộc và làm rõ bổn 
phận, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam 
trước vận mệnh của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Sào Nam: Cao đẳng Quốc dân, 
Nxb. Anh Minh, Huế, 1957.
[2]. Phan Bội Châu: Khổng học đĕng, Nxb. 
Anh Minh, Huế, 1957.
[3]. Phan Bội Châu: Toàn tập, 10 tập, Nxb. 
Thuận Hóa, Huế, 1990.
[4]. Phan Bội Châu: Việt Nam quốc sử khảo, 
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962.
[5]. Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Vĕn – Sử 
- Địa, Hà Nội, 1957.
[6]. Chương Thâu: Phan Bội Châu về một 
số vấn đề vĕn hóa – xã hội – chính trị, Nxb. 
Thuận Hóa, Huế, 2000.
1 Phan Sào Nam, sđd, tr 36.

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_quoc_dan_tu_lap_cua_phan_boi_chau_trong_buoc_chuyen.pdf