Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là những chỉ

dẫn tuyệt vời mà ngày nay chúng ta còn phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Bản thân

Người cũng là mẫu mực của một cán bộ làm công tác tôn giáo không những giỏi về nghệ

thuật quản lý mà còn giỏi về việc vận động đồng bào có đạo với những phương thức linh

hoạt. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay sẽ đảm

bảo cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vạch trần mọi mưu toan của các thế lực

thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

pdf 7 trang kimcuc 6380
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015 
3 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG 
QUẦN CHÚNG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO 
NGUYỄN NGỌC KHÁ(*) 
TÓM TẮT 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là những chỉ 
dẫn tuyệt vời mà ngày nay chúng ta còn phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Bản thân 
Người cũng là mẫu mực của một cán bộ làm công tác tôn giáo không những giỏi về nghệ 
thuật quản lý mà còn giỏi về việc vận động đồng bào có đạo với những phương thức linh 
hoạt. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay sẽ đảm 
bảo cho các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vạch trần mọi mưu toan của các thế lực 
thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, tôn giáo, công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo 
ABSTRACT 
Ho Chi Minh ideology on influencing religious followers is the fantastic guide that we 
still need to further study and explore. President Ho Chi Minh himself is an example for 
not only well managing but also influencing religious citizens in different ways. Applying 
his ideology in our innovation cause will ensure that all religions comply with the laws and 
bring to light all conspiracy of using religion against the socialist state of Vietnam. 
Keywords: Ho Chi Minh ideology, religion, influencing religious followers 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, 
toàn quân ta đang tích cực đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm thực hiện 
thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh”, để giải 
quyết tốt vấn đề tôn giáo, không có gì khác 
hơn, cần phải quay trở về với tư tưởng Hồ 
Chí Minh, trong đó công tác vận động quần 
chúng là nội dung cốt lõi của công tác tôn 
giáo và cũng là một trong những nhiệm vụ 
quan trọng của công tác Đảng hiện nay. 
Cái “cốt lõi” là công tác vận động quần 
chúng tức là cái quan trọng nhất, cái chủ 
yếu nhất, đóng vai trò là cơ sở, nền tảng để 
giải quyết các vấn đề còn lại của công tác 
(*)
 TS, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM 
tôn giáo. Không phải ngẫu nhiên, Hội nghị 
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 
bảy, khóa IX đã khẳng định: “Nội dung cốt 
lõi của công tác tôn giáo là công tác vận 
động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước 
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh 
là điểm tương đồng để gắn bó các tôn giáo 
với sự nghiệp chung. Mọi công dân không 
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có 
quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc” [1, tr. 50]. 
Đặc biệt, vấn đề tôn giáo và công tác 
tôn giáo được Nghị quyết Đại hội Đảng 
toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn 
thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, 
tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. 
Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt 
đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức 
4 
tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp 
đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công 
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan 
tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn 
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ 
của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước 
công nhận, đúng quy định của pháp luật. 
Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên 
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng 
tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, 
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc” 
[2, tr. 81]. 
2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ 
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC 
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TÍN ĐỒ 
TÔN GIÁO 
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những 
giá trị tư tưởng của nhân loại, mà trực tiếp 
là chủ nghĩa Mác – Lênin, trên nền tảng 
truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam và 
tinh hoa văn hóa nhân loại, tư tưởng Hồ 
Chí Minh về công tác vận động quần 
chúng tín đồ tôn giáo thể hiện ở sự trân 
trọng những giá trị nhân sinh tích cực của 
các tôn giáo, ở tinh thần tôn trọng giáo chủ 
và các chức sắc tôn giáo, ở việc chăm lo 
đời sống kinh tế, văn hóa cho đồng bào có 
đạo, ở việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ 
cán bộ làm công tác vận động quần chúng 
tín đồ tôn giáo. 
Thứ nhất, công tác vận động quần 
chúng tín đồ tôn giáo phải trân trọng 
những giá trị nhân sinh tích cực của các 
tôn giáo. 
Hồ Chí Minh ca ngợi chủ nghĩa xã hội 
và chủ nghĩa cộng sản, coi đó là thiên đàng 
của nhân loại, nhưng đồng thời, Người 
cũng không quên ca ngợi những giá trị 
nhân bản của các tôn giáo. Người không 
bao giờ có thái độ kỳ thị tôn giáo này, coi 
trọng tôn giáo kia, mà trái lại, mỗi tôn giáo 
đều có những yếu tố giá trị mà có thể kế 
thừa, nhất là mặt đạo đức. Hồ Chí Minh 
thường khai thác những giá trị nhân văn 
của các tôn giáo để cổ vũ, khích lệ đồng 
bào các tôn giáo phát huy những giá trị đó. 
Bằng lời văn mộc mạc, chân thành có sức 
thuyết phục lòng người, khi nói về các vị 
sáng lập ra các tôn giáo, Hồ Chí Minh viết: 
“Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật 
Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử 
dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” [7, 225]. Hoặc 
là: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm 
của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. 
Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng 
nhân ái cao cả,...” [7, 225]. Từ đó Người đi 
đến kết luận: “Nếu các vị ấy còn sống, 
cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin 
ngồi lại một chỗ, thì sẽ tìm ra được một 
quan điểm chung đó là mưu cầu hạnh phúc 
cho con người; còn tôi cố gắng làm học trò 
nhỏ của các vị ấy” [7, 225]. Người đã nhấn 
mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ 
nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết 
có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc 
cho nhân loại. Đây là một đặc điểm lớn 
được Hồ Chí Minh khai thác một cách tài 
tình và triệt để trong việc giải quyết các 
vấn đề có liên quan đến tôn giáo. 
Để giáo dục lòng yêu nước thương nòi, 
giác ngộ ý thức cách mạng cho đồng bào 
các tôn giáo, Hồ Chí Minh thường trích 
dẫn những lời hay ý đẹp trong Kinh Phật, 
Kinh Thánh,, rồi chuyển tải, định hướng 
những lời hay ý đẹp đó theo một thế giới 
quan và nhân sinh quan mới – thế giới 
quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng. 
Chẳng hạn, Người viết: “Trong Công giáo 
có câu: “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu: 
“Vạn chúng nhất tâm” nên chúng ta phải 
hy sinh cho nhân loại và chúng sinh” [3, tr. 
116]. Trong lĩnh vực giáo dục ý thức chính 
trị, nhằm khơi dậy truyền thống đấu tranh 
bất khuất, ý chí tự lập tự cường của dân 
5 
tộc, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào đồng 
bào các tôn giáo bởi tinh thần yêu nước và 
ý thức dân tộc sâu sắc của họ. Người viết: 
“Phần lớn đồng bào tôn giáo, nhất là các 
tầng lớp lao động đều yêu nước kháng 
chiến, như Công giáo ở nhiều nơi, như Cao 
Đài kháng chiến, v.v” [7, tr. 461]. Chính 
niềm tin ấy của Người là động lực tinh thần 
to lớn để đồng bào các tôn giáo một lòng 
một dạ đi theo cách mạng, đấu tranh vì độc 
lập cho dân tộc, tự do cho nước nhà. 
Thứ hai, công tác vận động quần 
chúng tín đồ tôn giáo phải biết tôn trọng 
giáo chủ và các chức sắc tôn giáo. 
Các tín đồ tôn giáo luôn luôn có một 
lòng sùng kính và tôn vinh những vị giáo 
chủ của mình, như Thích Ca Mâu Ni, Đức 
chúa Giê-su,...Cho nên để đập tan âm mưu 
chia rẽ của kẻ thù và để tăng cường sự hòa 
hợp, đoàn kết giữa tín đồ các tôn giáo với 
toàn thể dân tộc thì việc tôn trọng giáo chủ 
của các tín đồ tôn giáo và các chức sắc tôn 
giáo là điều hết sức cần thiết. Hồ Chí Minh 
mượn lời cầu nguyện của Chúa Kitô: 
“Nguyện cho hết thảy đồng bào hoàn toàn 
hợp nhất với nhau” [9, tr. 285]. 
Khi phát động phong trào thi đua yêu 
nước, kháng chiến kiến quốc, Người đã 
trích dẫn tinh thần trong Kinh Phúc âm và 
khẳng định: “Chúng ta kháng chiến cứu 
nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, 
cải cách ruộng đất làm cho người cày có 
ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những 
việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều 
hợp với tinh thần Phúc âm. Cho nên tôi 
chúc đồng bào Công giáo làm trọn chính 
sách của Chính phủ cũng là làm trọn tinh 
thần của Chúa Cơ đốc” [8, tr. 197]. 
Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác 
vận động đối với các chức sắc tôn giáo. 
Người luôn động viên, khơi dậy lòng yêu 
nước thương nòi, giữ gìn, phát huy truyền 
thống tốt đẹp của dân tộc. Người luôn biểu 
lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các chức 
sắc tôn giáo và tranh thủ sự đồng tình, ủng 
hộ của họ. Ngay cả những Giám mục bị bọn 
đế quốc phản động lợi dụng như Giám mục 
Lê Hữu Từ, Người cũng có thái độ ứng xử 
rất mềm dẻo, chân tình, lựa lời khuyên giải 
để vị Giám mục này trung thành với Chính 
phủ. Đồng thời, Người cũng có thái độ xử 
sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những kẻ 
mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại 
dân. Đối với kẻ lợi dụng tôn giáo để gây 
chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại 
Tổ quốc, Người chỉ rõ: “Chính phủ sẽ 
nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức 
đồng bào phải lìa bỏ quê hương, sa vào một 
đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng 
như phần hồn” [10, tr. 606]. 
Đặc biệt, trong các dịp lễ trọng đại của 
các tôn giáo, Người không quên chúc phúc, 
an lành đến các chức sắc và tín đồ các tôn 
giáo. Hồ Chí Minh chân thành bày tỏ và 
khẳng định: “Ý dân là ý Chúa”. Con đường 
yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn 
đúng. Tôi mong các cụ phụ lão, các vị 
giám mục và các linh mục hăng hái khuyến 
khích tín đồ trong mọi công việc ích nước, 
lợi dân” [11, tr. 314]. Đồng thời, Người 
cũng kịp thời động viên, khen ngợi, tuyên 
dương những người có công lao, thành tích 
đóng góp cho cách mạng. Trong Thư gửi 
đồng bào các tôn giáo Cao Đài, Hòa Hảo, 
Người viết: “Hai phái đạo Cao Đài do cụ 
Cao Triều Phát lãnh đạo luôn luôn cùng 
đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến. 
Tổ quốc và Chính phủ sẽ nhớ công những 
người con trung thành” [6, tr. 422]. Tình 
cảm chân thành, trọng thị của Hồ Chí Minh 
với giáo chủ và các chức sắc tôn giáo đã 
góp phần củng cố lòng tin, tăng cường sự 
nhất trí, đoàn kết giữa các tín đồ, chức sắc 
tôn giáo với toàn thể dân tộc, để ngày càng 
6 
xích lại gần nhau, hoạt động vì lợi ích 
chung của toàn thể dân tộc. 
Thứ ba, công tác vận động tín đồ tôn 
giáo phải quan tâm xây dựng đời sống kinh 
tế, văn hóa cho đồng bào có đạo. 
Theo Hồ Chí Minh, nội dung công tác 
vận động quần chúng tín đồ tôn giáo phải 
thiết thực, không dừng lại ở việc tuyên 
truyền, thuyết phục, mà quan trọng hơn, 
phải xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa 
ngày càng phát triển cho đồng bào. Hồ Chí 
Minh đặc biệt coi trọng việc phát triển sản 
xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh 
thần cho đồng bào ở những vùng đông 
người theo đạo. Trong Bài nói chuyện tại 
lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, 
Người huấn thị: “Phải ra sức củng cố hợp 
tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập 
cho xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín 
ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo 
không được cản trở sản xuất của nhân dân, 
không được trái với chính sách và pháp 
luật của Nhà nước” [10, tr. 606]. Từ lập 
trường duy vật mác-xít, Người động viên 
đồng bào: “Từ nay với sự cố gắng của 
đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, 
phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng 
được yên vui, việc đấu tranh giành thống 
nhất Tổ quốc, giữ gìn hòa bình càng chóng 
thắng lợi như bài hát: “Sáng danh Thiên 
chúa trên các tầng giời, hòa bình cho người 
lành dưới thế”” [9, tr. 285]. 
Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời 
sống của đồng bào tôn giáo, chăm sóc cả 
“phần xác” và “phần hồn”. Theo Người, 
“phần xác có no ấm thì phần hồn mới 
thong dong”, từ đó Người chỉ đạo Chính 
phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện 
cuộc sống cho đồng bào. Đối với “phần 
hồn” của đồng bào tôn giáo, Người không 
chỉ đánh giá cao giá trị của văn hóa tôn 
giáo, mà còn trực tiếp quan tâm tới sinh 
hoạt tôn giáo. Người đã nhiều lần đến các 
chùa chiền, nhà thờ với tấm lòng thành 
kính dự các lễ nghi tôn giáo như: Lễ Phật 
đản, Lễ Giáng sinh,... 
Thứ tư, phải quan tâm đến việc xây 
dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công 
tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo. 
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò 
của người cán bộ làm công tác vận động 
quần chúng, bởi vì chính họ là những 
người tuyên truyền, tổ chức thực hiện các 
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật 
của Nhà nước đến đồng bào các tôn giáo. 
Người khẳng định, cán bộ là gốc của mọi 
công việc và công việc thành công hay thất 
bại là do cán bộ tốt hay kém. Theo Hồ Chí 
Minh, người cán bộ làm công tác vận động 
quần chúng tín đồ tôn giáo cần phải có 
những phẩm chất sau: 
Một là, phải nắm vững chính sách, 
pháp luật của Nhà nước nói chung và 
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn 
giáo nói riêng. 
Bởi vì: “Bất cứ việc to, việc nhỏ, lập 
trường phải vững, chính sách phải hiểu cho 
thấu, luôn luôn gần gũi học hỏi nhân dân, 
đi đúng đường lối quần chúng thì việc gì 
cũng thành công. Trái lại, thì thất bại” [8, 
tr. 55-56] và “nếu cán bộ không nắm vững 
chính sách, không đi đúng đường lối quần 
chúng thì chính sách hay cũng hóa dở, tốt 
cũng hóa xấu”, “nếu làm sai chính sách 
không những dân ghét cán bộ, mà còn oán 
Chính phủ, oán Đảng” [8, tr. 55]. 
Hồ Chí Minh từng nói về vai trò của 
đội ngũ cán bộ làm công tác vận động đồng 
bào tôn giáo như sau: “Ở Việt Nam có vấn 
đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo; 
nơi nào cán bộ tốt, tổ chức hợp tác xã đưa 
lại quyền lợi cho giáo dân thì giáo dân rất 
đồng tình” [11, tr. 118]. Ngược lại, “nơi 
nào dân cũng tốt, lương cũng như giáo; 
7 
nhưng vì có những cán bộ không biết tổ 
chức, không biết giải thích tuyên truyền, lại 
tự tư, tự lợi, không cảnh giác để cho bọn 
phản động chui vào các đoàn thể rồi phá 
hoại” [8, tr. 55]. 
Hai là, phải có kiến thức nhất định về 
tín ngưỡng, tôn giáo; am hiểu đặc điểm địa 
bàn công tác. 
Cán bộ làm công tác vận động quần 
chúng tín đồ tôn giáo phải là người am 
hiểu giáo lý, giáo luật của các tôn giáo để 
khi giao tiếp, nói được ngôn ngữ tôn giáo 
với đồng bào có đạo. Người không chỉ viết 
thư thăm hỏi, chúc mừng khi Lễ Giáng 
sinh, Lễ Phật đản mà còn chia sẻ với các 
tín đồ bằng tình cảm sâu sắc. Với Công 
giáo, Người kêu gọi họ “Phụng sự Thiên 
Chúa và Tổ quốc”, “Kính chúa, yêu nước”. 
Với đồng bào Phật giáo, Người động viên 
các tín đồ hãy hành động theo lời Đức 
Phật: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”. 
Còn với đồng bào Cao đài, Hòa Hảo, 
Người thúc đẩy lòng “ái quốc”,..v.vHiểu 
rõ các tôn giáo, Người biết chắt lọc những 
tinh hoa của các tôn giáo để vận động đồng 
bào có cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. . 
Trong bài học về sáu điều nên làm và 
sáu điều không nên làm dành cho cán bộ, 
đảng viên, bộ đội thì điều thứ năm ghi rõ: 
“Không nên xúc phạm đến tín ngưỡng 
phong tục của dân (như nằm trước bàn thờ, 
giơ chân lên bếp, đánh đàn trong nhà, 
v.v.)” [6, tr. 409-410] và điều thứ năm nên 
làm là: “Nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục 
mọi nơi, trước là để gây cảm tình và sau để 
dần dần giải thích cho dân bớt mê tín” [6, 
tr. 409-410]. Khi tuyên truyền ở những 
vùng có nhiều tín đồ tôn giáo thì người cán 
bộ phải biết hòa mình vào trong đời sống 
hằng ngày của họ. Người lấy ví dụ về đồng 
chí Lý An “Đến thôn thấy đồng bào lợp 
nhà, đồng chí An lên lợp nhà giúp,Đồng 
chí không nói mình là cán bộ, không tuyên 
truyền thuế, dân công gì cả. Đồng chí ấy 
chỉ nói những chuyện: bộ đội chiến thắng 
thế nào, nhân dân các nơi hăng hái đi dân 
công và đóng thuế nông nghiệp như thế 
nào. Đồng bào nghe chuyện thích đòi đồng 
chí ấy nói chuyện này qua chuyện khác. 
Kết quả, họ tự động xin đóng thuế, xin đi 
dân công” [7, tr. 393]. 
Ba là, phải có phương pháp đúng đắn, 
phù hợp trong việc vận động quần chúng 
tín đồ tôn giáo. 
Nhấn mạnh đến phương pháp vận động 
quần chúng của cán bộ, Người cho rằng, 
đồng bào thiểu số hay đa số, lương hay 
giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động 
được. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ 
phải có phương pháp trong việc tuyên 
truyền, giáo dục, thuyết phục. Người dặn 
dò người cán bộ phải thực sự “ba cùng” 
(cùng sống, cùng ăn, cùng làm việc) với 
nhân dân. Đặc biệt: “Phải biết nhẫn nại. 
Nói với người nghe một lần người ta không 
hiểu thì nói đến hai lần, ba lầnVề đức 
tính này, phải học những người đi truyền 
giáo” [5, tr. 64]. 
Hồ Chí Minh cho rằng, không nên 
dùng lý luận cao siêu, những lời lẽ phức 
tạp trong công tác tuyên truyền, vận động. 
Người phê bình, uốn nắn các cán bộ cố 
nhồi nhét chủ nghĩa Mác – Lênin cho đồng 
bào có đạo. Người không đồng tình với 
cách: “Đối với nông dân Công giáo, có đội 
đã đưa chủ nghĩa Mác – Lênin ra giải 
thích” [8, tr. 332]. Người thường nói những 
điều vừa tầm, phù hợp với trình độ dân 
chúng và tình cảm của giáo dân, như việc 
tuyên truyền tình cảm yêu quê hương, đất 
nước, nhu cầu về độc lập dân tộc và tự do 
tín ngưỡng vốn là nhu cầu thiết thân đối 
với họ. Người căn dặn, trong công tác 
tuyên truyền, vận động, tốt nhất là nên 
8 
miệng nói, tay làm, tai lắng nghe, làm 
gương cho người khác, từ cử chỉ đến diện 
mạo, từ đạo đức đến tác phong: “Quần 
chúng chỉ quý mến những người có tư cách 
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình 
phải làm mực thước cho người ta bắt 
chước” [6, tr. 552]. 
Đặc biệt, phương pháp vận động quần 
chúng tín đồ tôn giáo phải biết gắn nhiệm 
vụ của cách mạng với lý tưởng của những 
người sáng lập ra các tôn giáo. Người 
thường trích dẫn lời lẽ trong Kinh Thánh, 
Kinh Phật nhằm động viên tín đồ các tôn 
giáo tham gia tích cực vào sự nghiệp cứu 
nước, kiến quốc. Hồ Chí Minh rất coi trọng 
công tác tuyên truyền cho đồng bào tín đồ 
các tôn giáo hiểu rõ chính sách của Đảng 
và Chính phủ để họ tự giác thực hiện và 
đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng tôn 
giáo của địch. Người thường xuyên nhắc 
nhở cán bộ, đảng viên: “Khi phát động 
quần chúng, cán bộ phải hết sức chú ý đến 
điều đó. Sai một ly đi một dặm, nơi nào 
dân cũng tốt, lương cũng như giáo; nhưng 
vì có cán bộ không biết tổ chức, không biết 
tuyên truyền, lại tự tư tự lợi, không cảnh 
giác nên đã để cho bọn phản động chui vào 
các đoàn thể rồi phá hoại” [7, tr. 395]. 
3. KẾT LUẬN 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác 
vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là một 
nội dung quan trọng trong hệ thống lý luận 
của Người về cách mạng Việt Nam. Đó là 
sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa 
Mác – Lênin về vấn đề “tính chất quần 
chúng của tôn giáo”, phù hợp với đặc điểm 
tôn giáo, xã hội và con người Việt Nam. 
Tư tưởng đó đã trở thành quan điểm nhất 
quán xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng do 
Đảng lãnh đạo. Vận dụng đúng đắn tư 
tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới 
hiện nay sẽ đảm bảo cho các tôn giáo hoạt 
động đúng pháp luật, vạch trần mọi mưu 
toan của các thế lực thù địch lợi dụng tôn 
giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở 
Việt Nam. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận 
động quần chúng tín đồ tôn giáo là những 
chỉ dẫn tuyệt vời mà ngày nay chúng ta còn 
phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Bản 
thân Người cũng là mẫu mực của một cán 
bộ làm công tác tôn giáo không những giỏi 
về nghệ thuật quản lý mà còn giỏi về việc 
vận động đồng bào có đạo với những 
phương thức linh hoạt. Người lôi cuốn 
được đông đảo đồng bào có đạo theo cách 
mạng không chỉ bằng đường lối đúng đắn 
mà còn bằng cả trái tim nhiệt huyết, chân 
thành và những hiểu biết sâu rộng của mình 
về tôn giáo. Đó là tấm gương sáng mà tất cả 
chúng ta cần phải học tập để góp phần củng 
cố khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện 
thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương 
khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
9 
4. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
5. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
6. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
8. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
9. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
10. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
11. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, t.11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
* Ngày nhận bài: 17/12/2014 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_cong_tac_van_dong_quan_chung_tin_do.pdf