Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và một số vấn đề đặt ra trong dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông

Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do nhân dân Việt Nam tiến hành đã đạt đƣợc

nhiều thành công vang dội. Cuộc cách mạng không chỉ giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi mọi

xiềng xích nô lệ, thống nhất đất nƣớc mà còn đóng góp to lớn vào phong trào đầu tranh vì hòa

bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Một trong những nhân tố có ý nghĩa

quyết định đến những thành công là nhờ sự soi sáng của Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong đó có

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân.

Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy lịch sử (nhất là lịch sử dân tộc) có một sự

nhầm lẫn khá phổ biến là đồng nhất cuộc Chiến tranh nhân dân với Cách mạng giải phóng

dân tộc. Có nhiều ngƣời hiểu đúng bản chất nhƣng lại không xác định đƣợc vị trí, vai trò của

cuộc Chiến tranh nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo

của Đảng. Việc đi sâu làm rõ nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng về Chiến tranh nhân dân của

Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có một ý nghĩa khoa

học, ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa tƣ tƣởng lớn.

pdf 8 trang kimcuc 8160
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và một số vấn đề đặt ra trong dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và một số vấn đề đặt ra trong dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và một số vấn đề đặt ra trong dạy học Lịch sử ở trường Phổ thông
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 10 - 17 
10 
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN QUA 
“LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN” 
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 
Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG 
Nguyễn Quốc Pháp2 
Trường Đại học Tây Bắc 
Tóm tắt: Từ việc làm rõ bối cảnh lịch sử, nghiên cứu đi vào phân tích những nội dung cơ bản trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân qua tác phẩm “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Trên cơ sở đó, 
góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, đặc biệt những đóng góp của 
Người về lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào kho tàng lí luận của nhân loại. 
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chiến tranh nhân dân. 
1. Đặt vấn đề 
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do nhân dân Việt Nam tiến hành đã đạt đƣợc 
nhiều thành công vang dội. Cuộc cách mạng không chỉ giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi mọi 
xiềng xích nô lệ, thống nhất đất nƣớc mà còn đóng góp to lớn vào phong trào đầu tranh vì hòa 
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Một trong những nhân tố có ý nghĩa 
quyết định đến những thành công là nhờ sự soi sáng của Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong đó có 
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân. 
Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy lịch sử (nhất là lịch sử dân tộc) có một sự 
nhầm lẫn khá phổ biến là đồng nhất cuộc Chiến tranh nhân dân với Cách mạng giải phóng 
dân tộc. Có nhiều ngƣời hiểu đúng bản chất nhƣng lại không xác định đƣợc vị trí, vai trò của 
cuộc Chiến tranh nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo 
của Đảng. Việc đi sâu làm rõ nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng về Chiến tranh nhân dân của 
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có một ý nghĩa khoa 
học, ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa tƣ tƣởng lớn. 
2. Một vài khái niệm liên quan 
Để có nhận thức đúng về cuộc Chiến tranh nhân dân mà nhân dân ta đã tiến hành dƣới 
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải xem xét một vài khái niệm liên quan: 
- Cách mạng: Là hình thức đấu tranh giai cấp cao nhất dẫn tới một cuộc biến đổi căn 
bản, chuyển đổi một chế độ xã hội cũ, đã lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ 
hơn...Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền (giành và bảo vệ 
chính quyền) [3]. 
- Cách mạng dân tộc dân chủ: Cách mạng ở các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc, thực hiện 
hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc xâm lƣợc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc 
và dân chủ cho nhân dân [3]. 
2Ngày nhận bài: 20/12/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017 
Liên lạc: Nguyễn Quốc Pháp, e - mail: quocphapttb@gmail.com 
11 
- Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc gọi là Cách 
mạng giải phóng dân tộc): Cách mạng dân tộc dân chủ mang tính chất nhân dân sâu sắc, nhằm 
đánh đổ thực dân, phong kiến, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ rồi chuyển sang cách mạng 
xã hội chủ nghĩa [3]. 
- Chiến tranh: Hiện tƣợng xã hội, chính trị đƣợc thể hiện ở cuộc đấu tranh vũ trang giữa 
các nƣớc hoặc liên minh các nƣớc. Mọi cuộc chiến tranh xét về bản chất xã hội, đều là sự tiếp 
tục chính trị bằng bạo lực [3]. 
- Chiến tranh nhân dân: Cuộc chiến tranh huy động đƣợc đông đảo quần chúng nhân 
dân tham gia chống xâm lƣợc, bảo vệ Tổ quốc, có từ thời cổ đại. Về sau cuộc chiến tranh 
chính nghĩa do quần chúng nhân dân tiến hành, có lực lƣợng vũ trang làm nòng cốt, dƣới sự 
lãnh đạo của một đảng cách mạng tiến bộ, đấu tranh bằng mọi hình thức, để đạt đƣợc thằng 
lợi hoàn toàn [3]. 
Nhƣ vậy, cuộc chiến tranh nhân dân do dân tộc Việt Nam tiến hành từ năm 1945 đến 
năm 1975 nằm trong khuôn khổ phạm trù của của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 
(Cách mạng giải phóng dân tộc). Điều đó có nghĩa là việc đồng nhất hai khái niệm này là 
không đúng về mặt khoa học. 
3. Những bƣớc phát triển của cách mạng Việt Nam và cuộc chiến tranh nhân dân 
Những thập niên đầu của thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam nằm dƣới ách thống trị của thực 
dân Pháp và các thế lực phong kiến, tay sai. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lâm vào khủng 
hoảng. Năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về 
đƣờng lối, lực lƣợng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Kể từ năm 1930, cách mạng Việt Nam 
với sự lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản đã vận động theo con đƣờng cách mạng vô sản. 
Với lí tƣởng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi mọi xiềng xích bóc lột; với 
cƣơng lĩnh cách mạng đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Hồ Chí Minh đã lãnh 
đạo quần chúng trực tiếp chuẩn bị về mọi mặt: Đƣờng lối, lực lƣợng chính trị, lực lƣợng vũ 
trang, căn cứ địa cách mạng,...Tháng 8 năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết 
thúc, các thế lực phát xít, tay sai suy sụp, mâu thuẫn xã hội sâu sắc, tình thế cách mạng xuất 
hiện, Đảng đã kịp thời lãnh đạo quần chúng nhân dân vùng lên tổng khởi nghĩa vũ trang giành 
chính quyền, lập nên nhà nƣớc cộng hòa nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á [1]. 
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đã giành đƣợc độc lập, lập nên chính 
quyền cách mạng. 
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc Việt Nam, nền 
độc lập tự do của dân tộc ta bị đe dọa. Không còn lựa chọn nào khác trƣớc dã tâm của các thế 
lực thực dân, Đảng và Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến, tiến hành cuộc 
chiến tranh nhân dân chống lại cuộc chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp có sự giúp đỡ 
của đế quốc Mỹ. 
Tiếp tục thực hiện cƣơng lĩnh cách mạng (1930), trải qua chín năm gian khổ, cuộc 
chiến tranh nhân dân từng bƣớc phát triển, từ chỗ bị động đối phó, bảo toàn lực lƣợng, tiến 
12 
tới chủ động tiến công địch trên chiến trƣờng, giáng đòn quyết định, đánh bại ý chí xâm 
lƣợc của thực dân Pháp tại trận quyết chiến Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ 
(1954) trở thành biểu tƣợng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là thắng lợi của đƣờng lối 
chiến tranh nhân dân mà Đảng và Hồ Chí Minh đã xây dựng và phát triển. Nhân dân ta đã 
bảo vệ đƣợc thành quả của Cách mạng tháng Tám, giữ vững chính quyền cách mạng, bảo vệ 
nền độc lập. 
Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nƣớc bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc hoàn toàn giải 
phóng, miền Nam nằm dƣới ách thống trị của đế quốc Mỹ và ngụy quyền. Nền độc lập, thống 
nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc một lần nữa lại bị thử thách [2]. 
Trƣớc bối cảnh lịch sử mới, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lí luận 
cách mạng, đƣa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc chiến tranh nhân dân phát triển sang 
một giai đoạn mới: Thực hiện song song hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở 
miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, mà trọng tâm là cuộc chiến tranh 
nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nƣớc. Miền Bắc trở thành hậu 
phƣơng lớn, miền Nam trở thành tiền tuyến lớn. 
Trải qua hơn hai thập kỉ, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân tiến 
hành một cuộc chiến tranh nhân dân kéo dài liên tục và khốc liệt bậc nhất trong lịch sử nhân 
loại. Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lƣợc của đế quốc Mỹ - đế quốc hùng 
mạnh nhất thế giới, đánh đổ chế độ ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất 
đất nƣớc. Chiến thắng lịch sử năm 1975 đã bảo vệ hoàn toàn thành quả của cách mạng tháng 
Tám, bảo vệ nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Ngoài ra, cuộc kháng chiến chống 
Mỹ thắng lợi chứng minh cho sức mạnh tuyệt đối của cuộc chiến tranh nhân dân, của đƣờng 
lối cách mạng đúng đắn mà Đảng ta và Hồ Chí Minh đã xây dựng. 
Nhƣ vậy, cuộc Chiến tranh nhân dân phản ánh một giai đoạn đặc biệt trong cuộc cách 
mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Nó là cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta 
dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh, Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống lại 
cuộc chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Từ năm 1945 đến năm 1975, 
cuộc chiến tranh nhân dân mà dân tộc ta thực hiện phát triển cao độ, không chỉ là thực tiễn 
hùng hồn mà có nhiều đóng góp to lớn vào kho tàng lí luận của nhân loại; là kết quả của sự 
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, với sự dẫn dắt 
của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, mà nòng cốt là tƣ tƣởng Chiến 
tranh nhân dân. 
Sự vận động của lịch sử cho thấy, tƣ tƣởng về Chiến tranh nhân dân đƣợc hình thành và 
phát triển là kết quả của sự tổng hợp nhiều yếu tố: Hồ Chí Minh đã tổng kết, phát triển truyền 
thống đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta; là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lí 
luận chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện cụ thể của Việt 
Nam [4]. Tuy nhiên, một trong những dấu mốc quan trọng và là văn kiện thể hiện tập trung 
nhất tƣ tƣởng về chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh chính là Lời kêu gọi toàn quốc kháng 
chiến (tháng 12 năm 1946). 
13 
4. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân qua “Lời kêu gọi toàn quốc 
kháng chiến” 
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp đã theo gót quân Anh 
kéo vào nƣớc ta nhằm thực hiện dã tâm xâm lƣợc Việt Nam một lẫn nữa. Quân đội Pháp liên 
tiếp gây hấn với quân và dân ta ở Nam Bộ. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc 
của nhân dân Nam Bộ bắt đầu. Trƣớc tình thế cách mạng hiểm nghèo, Đảng và Chính phủ 
cách mạng đã thực hiện nhiều chính sách ngoại giao mềm dẻo để cứu vãn nền hòa bình, bảo 
vệ nền độc lập. Thực hiện dã tâm, thực dân Pháp từng bƣớc lấn tới, phản bội các thỏa ƣớc. 
Trƣớc tình thế đó, ngày 19/12/1946, Đảng và Chính phủ đã quyết định phát động toàn quốc 
kháng chiến. Hồ Chí Minh truyền đi “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Văn kiện nhƣ một 
lời hiệu triệu của lịch sử, của giang sơn trƣớc vận mệnh dân tộc. Điều quan trọng hơn, trong 
đó thể hiện những nội dung cơ bản nhất về tƣ tƣởng Chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh. 
Đây cũng là ngọn cờ làm nên những chiến thắng lẫy lừng của cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp và đế quốc Mỹ. 
- Chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến tranh chính nghĩa 
Trong lịch sử phát triển nhân loại, không có cuộc chiến tranh nào chính nghĩa bằng cuộc 
chiến tranh vì hòa bình. Hồ Chí Minh khẳng định: 
“Hỡi đồng bào toàn quốc! 
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân 
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”[5]. 
Với lịch sử đau thƣơng của mình, không dân tộc nào có khát vọng đƣợc sống trong hòa 
bình lớn nhƣ dân tộc Việt Nam. Để đƣợc sống trong hòa bình, nhân dân Việt Nam và Chính 
phủ cách mạng đã đi hết nhƣợng bộ này đến nhƣợng bộ khác. Với dã tâm của mình, thực dân 
Pháp đẩy nhân dân Việt Nam tới một lựa chọn duy nhất đó là tiến hành cuộc chiến tranh nhân 
dân chống lại cuộc chiến tranh xâm lƣợc. 
Hồ Chí Minh cho thấy, chúng ta đã làm tất cả để có hòa bình, và lựa chọn chiến tranh 
cũng chính là lựa chọn cuối cùng; là con đƣờng duy nhất để có đƣợc nền hòa bình nhƣ mong 
muốn. Điều đó khẳng định, tâm lí gây chiến không bao giờ có trong tiềm thức ngƣời Việt 
Nam. Việc lựa chọn bƣớc vào chiến tranh đối với ngƣời Việt không bao giờ là lựa chọn đầu 
tiên và nó luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân và nền hòa bình cho nhân dân lao động, là 
lựa chọn của nhân dân và đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa dù xét dƣới bất kì góc độ nào. 
Qua đây cũng góp phần phản bác những quan điểm cho rằng Đảng và Chính phủ Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đạt đƣợc hòa bình trong hai cuộc chiến chống 
Pháp và chống Mỹ. 
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, dân tộc ta đứng trƣớc 
nhiều thử thách và mối quan hệ phức tạp. Tuy nhiên, bài học rút ra là cần giƣơng cao ngọn cờ 
hòa bình, vì cuộc sống hòa bình của nhân dân nhƣng kiên quyết trong bảo vệ độc lập, chủ 
quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Dân tộc ta không sử dụng chiến tranh để giải quyết các mối quan 
hệ quốc tế nhƣng cũng không loại bỏ hoàn toàn phƣơng thức chiến tranh nhân dân để bảo vệ 
Tổ quốc trƣớc tham vọng của các thế lực hiếu chiến. 
14 
- Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh vì sự sinh tồn, vì tự do, độc lập 
Nhƣ một bản Hợp xướng của chiến tranh chính nghĩa, sau những lời nén chịu: “Chúng 
ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.”, Hồ Chí Minh đanh thép khẳng định: 
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định 
không chịu làm nô lệ.” [5]. 
Chủ nghĩa thực dân là một trong những trang đen tối nhất trong lịch sử phát triển nhân 
loại. Tuy nhiên, cũng từ đó làm nảy sinh khát vọng tự do, khát vọng độc lập của các dân tộc. 
Cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ và hòa bình cũng là cuộc đấu tranh cao đẹp nhất trong thế kỉ 
XX mà dân tộc Việt Nam là ngọn cờ đầu. Ngay trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Hồ Chí 
Minh đã khẳng định lại về quyền sống của các dân tộc: “Tất cả mọi ngƣời đều sinh ra bình 
đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc, trong những quyền ấy, 
có quyền đƣợc sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc”... Tất cả các dân tộc trên thế 
giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sƣớng và quyền tự 
do.” !”[5]. Nhƣ vậy, dân tộc Việt Nam phải tiến hành cuộc Chiến tranh nhân dân vì họ “thà hy 
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm nô lệ.” Đó là cuộc 
chiến vì sự sinh tồn, vì nền độc lập, tự do cho dân tộc. Một lần nữa, Hồ Chí Minh chỉ ra tính 
chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh nhân dân. Điều này đối lập hẳn với những cuộc chiến 
tranh vì lợi ích kinh tế, vì tham vọng lãnh thổ hoặc đáp ứng tham vọng của một tập đoàn 
chính trị, hay vì mục đích thống trị những ngƣời khác,.. 
Tình hình chính trị, xã hội thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, nguy cơ chiến tranh và 
xung đột vẫn luôn thƣờng trực, nhƣng một cuộc chiến tranh chỉ thực sự mang tính chất nhân 
dân khi nó đƣợc sử dụng để bảo vệ quyền sống của nhân dân, bảo vệ sự tồn vong của dân tộc. 
- Chiến tranh nhân dân là một cuộc chiến tranh toàn dân 
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo luận điểm về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa 
Mác - Lê - nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Ở đây không chỉ là cuộc đấu tranh giai 
cấp thuần túy mà là cuộc chiến mang tính chất toàn dân. Ngƣời khẳng định: 
“Hỡi đồng bào! 
Chúng ta phải đứng lên! 
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, 
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có 
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai 
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước!”[5]. 
Đối đầu với một kẻ thù mạnh, vì sự sinh tồn của dân tộc, cả nƣớc trở thành chiến 
trƣờng, mỗi ngƣời dân là một chiến sĩ, huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân là bí quyết 
làm nên mọi thắng lợi. Bài học này đƣợc Hồ Chí Minh rút ra từ lịch sử dựng nƣớc và giữ 
nƣớc của dân tộc, đƣợc phát huy đầy đủ trong thời đại Hồ Chí Minh. Điều này củng cố thêm 
tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh nhân dân. Hồ Chí Minh còn chỉ cho nhân dân ta 
thấy phƣơng thức tổ chức và tiến hành chiến tranh. Sức mạnh không nằm ở phƣơng tiện, ở vũ 
15 
khí mà ở tinh thần đoàn kết, nhất chí, đồng lòng. Ở đây, tinh thần tự lực cánh sinh cũng đƣợc 
khẳng định. Đó là điểm giá trị nhất trong tƣ tƣởng về chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh. 
Trƣớc yêu cầu xây dựng và phát triển đất nƣớc trong bối cảnh hiện nay, cần thấm nhuần 
hơn nữa tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân. Cần tập hợp sức mạnh toàn dân 
trong việc xây dựng đất nƣớc, phát triển kinh tế một cách hòa bình. Xây dựng khối đoàn kết 
toàn dân, phát huy mọi nguồn lực của nhân dân là nền tảng cho chiến lƣợc phát triển lâu dài. 
- Quân đội nhân dân trở thành lực lượng nòng cốt của cuộc chiến tranh nhân dân 
Phát triển lí luận về bạo lực cách mạng, về vai trò của quân đội, Hồ Chí Minh đặc biệt 
đề cao lực lƣợng quân đội trong cuộc trong cuộc chiến tranh nhan dân. Đó là quân đội từ nhân 
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đây là những quả đấm thép làm nên những chiến thắng 
quyết định. Ngƣời đã kêu gọi: 
“Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! 
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. 
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất 
định về dân tộc ta! 
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! 
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”[5]. 
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân không tách rời việc xây dựng và phát huy sức 
mạnh, tinh thần hi sinh, anh dũng của lực lƣợng quân đội nhân dân. Đó là nền tảng sức mạnh, 
niềm tin đƣa đến những thắng lợi to lớn. 
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, xây dựng và phát triển lực lƣợng quân đội 
nhân dân là yêu cầu cấp thiết. Đây là cơ sở để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân khi 
cần thiết. Tuy nhiên, lực lƣợng quân đội phải vì lợi ích của nhân dân, vì sự tồn vong của dân 
tộc mà chiến đấu. Đó là cơ sở đảm bảo cho một quân đội chính nghĩa, một cuộc chiến tranh 
chính nghĩa, đảm bảo nền hòa bình lâu dài cho dân tộc. 
5. Một số vấn đề đặt ra trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông 
Trong thực tiễn giảng dạy lịch sử ở trƣờng phổ thông, liên quan đến sự kiện toàn quốc 
kháng chiến và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Chiến tranh nhân dân còn tồn tại không ít bất cập. 
Thứ nhất, giáo viên phổ thông do quá phụ thuộc vào Chƣơng trình và sách giáo khoa 
Lịch sử nên thƣờng triển khai vấn đề một cách rời rạc thiếu tính thống nhất theo mạch sự 
kiện. Qua khảo sát, dự giờ cho thấy, nhiều giáo viên đã không nhấn mạnh sự kiện toàn quốc 
kháng chiến là mở đầu cho một cuộc chiến tranh nhân dân, bảo vệ thành quả của Cách mạng 
tháng Tám. Đây là sự kiện đánh dấu một bƣớc phát triển quan trọng, một giai đoạn mới của 
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà nhân dân Việt Nam thực hiện. 
Thứ hai, giáo viên mới chỉ nhấn mạnh đến sự kiện toàn quốc kháng chiến, đến nội dung 
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến phản ánh phần nào đƣờng lối của Đảng và Chính phủ Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chƣa làm rõ đây là hạt nhân 
quan trọng trong tƣ tƣởng về Chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh. 
16 
Thứ ba, giáo viên mới sử dụng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến để minh họa kiến 
thức của bài học, chƣa chú ý đến việc tổ chức cho học sinh khai thác tác phẩm nhƣ một nguồn 
tài liệu quan trọng. Qua tác phẩm, không chỉ cụ thể hóa sự kiện mà còn giúp học sinh nhận 
thức đúng về các bƣớc phát triển của Cách mạng Việt Nam, hiểu sâu sắc đƣờng lối kháng 
chiến của Đảng ta, thấm nhuần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, 
Xuất phát từ từ thực trạng nêu trên, tác giả xin nhấn mạnh một số vấn đề cần quán triệt 
trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông: 
Một là: Giáo viên cần tổ chƣc cho học sinh xem xét cuộc chiến tranh nhân dân là một 
bộ phận không tách rời của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. 
Hai là: Giúp học sinh xác định đúng ví trí, vai trò của cuộc chiến tranh nhân dân trong 
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhấn mạnh đây là một giai đoạn đặc biệt trong 
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi cuối cùng của 
cuộc cách mạng và dân tộc ta đã thực hiện. 
Ba là: Giáo viên cần làm rõ đƣợc sự kiện toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) là mở 
đầu của cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám. 
Bốn là: Giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” 
nhƣ một nguồn tài liệu quan trọng để tìm hiểu về cuộc chiến tranh nhân dân. Tổ chức, hƣớng 
dẫn các em tự khai thác, tìm hiểu nội dung và rút ra các kết luận khoa học. 
Năm là: Giáo viên cần chú ý đúng mức về vấn đề giáo dục tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói 
chung, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân trong dạy học lịch sử, nhất là phần lịch 
sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1975. 
6. Kết luận 
Nhiều ý kiến khẳng định, cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, tác phẩm Kháng 
chiến nhất định thắng lợi của Trƣờng Chinh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí 
Minh là những văn kiện phản ánh đầy đủ đƣờng lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ cách 
mạng. Điều đó đúng nhƣng chƣa đủ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn phản ánh những 
nội dung cốt lõi nhất về tƣ tƣờng Chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh. Đây là sự sáng tạo 
độc đáo, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và 
một cống hiến lớn của Hồ Chí Minh. 
Chiến tranh nhân dân là một giai đoạt phát triển quan trọng trong cách mạng giải phóng 
dân tộc mà nhân dân ta đã tiến hành dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ 
Chí Minh. Những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 
nói chung, trong cuộc chiến tranh nhân dân nói riêng là nhờ sự soi sáng của tƣ tƣ tƣởng về 
Chiến tranh nhân dân, về Cách mạng giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh đã xây dựng và 
phát triển. 
Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc, yêu cầu bảo vệ chủ quyền 
và toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh hiện nay, việc thấm nhuần, quán triệt và vận dụng sáng 
tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, về cách mạng giải phóng dân tộc càng đặt 
ra cấp thiết. 
17 
Tiếp tục học tập và nâng cao nhận thức về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh việc giáo 
dục tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong nhà trƣờng là yêu cầu đặt ra cấp thiết. Khắc phục lối truyền 
đạt áp đặt một chiều, cần tổ chức cho học sinh tìm hiểu, khai thác các tác phẩm Hồ Chí Minh 
trong học tập. Đó là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học lịch sử, góp 
phần giáo dục tƣ tƣởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008). Sách Giáo khoa Lịch sử 12. Nhà xuất bản Giáo dục, 
Hà Nội. 
[2] Trần Bá Đệ (2002) Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, 
Hà Nội. 
[3] Phan Ngọc Liên (2008). Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông. Nhà xuất bản Hà Nội. 
[4] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập (Tập 1). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, 
Hà Nội. 
[5] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập (Tập 4). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, 
Hà Nội. 
HO CHI MINH IDEOLOGY ABOUT THE PEOPLE'S WAR THROUGH 
THE “CALL TO NATIONAL RESISTANCE” 
Nguyen Quoc Phap 
Tay Bac University 
Abstract: By clarifying the historical context, the article analyzed the basic contents of Ho Chi Minh 
ideology about the people's war through the “Call to national resistance”; Basing on that, it helps contribute to 
clarify Ho Chi Minh thoughts about the national liberal revolution, particularly his contributions to the theory of 
national liberal revolution. 
Keywords: Ho Chi Minh ideology, Democratic national revolutionary People, People's war. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_chien_tranh_nhan_dan_qua_loi_keu_goi.pdf