Tư liệu về Việt Nam - Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Việt Nam học
Tiếp tục truyền thống này, các
hướng nghiên cứu về Việt Nam hiện đại
bằng nguồn thư tịch tiếng Nhật cũng
rất phong phú. Nhiều học giả đã thành
danh trong sự nghiệp nghiên cứu Việt
Nam học. Từ năm 1986 đến 2011, các
công trình về Việt Nam bằng tiếng Nhật
đã công bố, theo thống kê của một tác
giả đã đạt tới con số 562 bài báo khoa
học và 128 đầu sách chuyên khảo. Có
thể sự chính xác của số liệu này còn cần
phải kiểm tra, nhưng nhu cầu hiểu biết
sâu hơn về Việt Nam, phát triển mạnh
hơn nữa quan hệ mọi mặt với Việt
Nam là điều có thể khẳng định.
Trong 10 năm gần đây, số lượng các
bài báo khoa học, công trình nghiên cứu
về Việt Nam của các học giả Nhật Bản
còn tăng hơn trước. Các học giả người
Nhật còn trực tiếp thực hiện những cuộc
khảo sát trên đất Việt Nam, chẳng hạn
như ở Hội An (Quảng Nam), Làng Vạc
(Nghệ An), Bách Cốc (Nam Định), Cổ
Loa (Hà Nội), v.v. Kết quả của các công
trình này được giới nghiên cứu đánh giá
là có giá trị về nhiều phương diện, kể
cả ở phương diện tư vấn chính sách cho
Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ
Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư liệu về Việt Nam - Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Việt Nam học
T− liệu về Việt Nam - Cách tiếp cận và ph−ơng pháp nghiên cứu Việt Nam học Hồ sĩ quý(*), Phùng diệu anh(**) Lời tòa soạn: Từ 26-28/11/2012, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ t− do Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội đồng tổ chức. Đây là diễn đàn lớn, có uy tín đ−ợc tổ chức 4 năm một lần, quy tụ các nhà nghiên cứu Việt Nam học trên toàn thế giới. Tham dự Hội thảo lần này có hơn 1.000 nhà khoa học đến từ 36 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã có gần 400 tham luận đ−ợc trình bày và khoảng 1 nghìn ý kiến trao đổi, thảo luận tại 15 tiểu ban tập trung vào một số chủ đề lớn nh−: - Phát triển bền vững là nội dung trọng tâm xuyên suốt tại phần lớn các tiểu ban về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi tr−ờng, luật pháp, văn hóa, nghệ thuật, dân tộc và tôn giáo, giáo dục và khoa học - công nghệ, đô thị, nông thôn, quan hệ quốc tế, v.v - Hội nhập quốc tế là chủ đề bao trùm tại các tiểu ban về các vấn đề khu vực và sự hội nhập quốc tế của Việt Nam. - Sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng của ngành Việt Nam học, thể hiện trong các nghiên cứu về lịch sử, dân tộc, văn hóa... của các nhà Việt Nam học trên thế giới. Trong số 15 tiểu ban tại Hội thảo, Tiểu ban 15 “T− liệu về Việt Nam - cách tiếp cận và ph−ơng pháp nghiên cứu Việt Nam học” đã thu hút đ−ợc sự tham gia và đóng góp rất có ý nghĩa của nhiều học giả trong và ngoài n−ớc. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc Báo cáo tổng kết của Tiểu ban 15 tại phiên toàn thể ngày 28/11/2012. rong số 53 tham luận mà tiểu ban 15 nhận đ−ợc, có 23 tham luận đã đ−ợc trình bày trong ba ngày Hội thảo, trong đó có 9 tham luận của các học giả n−ớc ngoài. Trong 6 phiên, các chủ đề thảo luận đ−ợc đánh giá là thú vị và hấp dẫn. Những vấn đề đ−ợc nêu t−ơng đối chuyên cho lĩnh vực Việt Nam học. Các tham luận đã trình bày đều nhận đ−ợc sự quan tâm, phản biện; có chia sẻ, nh−ng cũng có tranh luận, thậm chí tranh cãi sôi nổi. ∗Có tham luận nhận đ−ợc tới 5-6 ý kiến chất vấn và phản hồi. ∗ (∗) GS.TS., Viện tr−ởng Viện Thông tin KHXH, Tr−ởng Tiểu ban 15. (∗∗) ThS., Viện Thông tin KHXH, Th− ký Tiểu ban 15. t 4 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2012 Sau đây chúng tôi xin điểm lại những kết quả chính của các phiên thảo luận này. 1. Về tình hình nghiên cứu Việt Nam học ở n−ớc ngoài Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu tiếng Nhật về Việt Nam, một số tác giả đã đánh giá ý nghĩa của việc nghiên cứu đó và tìm hiểu về quá trình hình thành ngành Việt Nam học tại Nhật Bản. Một tham luận kết luận rằng, ngành Việt Nam học tại Nhật Bản gắn liền với tên tuổi nhà nghiên cứu Matshumoto Nobujhiro (松本信広) bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ tr−ớc. D−ới ảnh h−ởng của các nhà dân tộc học ng−ời Pháp tại Paris và tại Hà Nội, Matshumoto đã khởi x−ớng xu h−ớng nghiên cứu một đối t−ợng mới là Việt Nam và xu h−ớng này từ đó đã để lại nhiều sản phẩm có giá trị. Tiếp tục truyền thống này, các h−ớng nghiên cứu về Việt Nam hiện đại bằng nguồn th− tịch tiếng Nhật cũng rất phong phú. Nhiều học giả đã thành danh trong sự nghiệp nghiên cứu Việt Nam học. Từ năm 1986 đến 2011, các công trình về Việt Nam bằng tiếng Nhật đã công bố, theo thống kê của một tác giả đã đạt tới con số 562 bài báo khoa học và 128 đầu sách chuyên khảo. Có thể sự chính xác của số liệu này còn cần phải kiểm tra, nh−ng nhu cầu hiểu biết sâu hơn về Việt Nam, phát triển mạnh hơn nữa quan hệ mọi mặt với Việt Nam là điều có thể khẳng định. Trong 10 năm gần đây, số l−ợng các bài báo khoa học, công trình nghiên cứu về Việt Nam của các học giả Nhật Bản còn tăng hơn tr−ớc. Các học giả ng−ời Nhật còn trực tiếp thực hiện những cuộc khảo sát trên đất Việt Nam, chẳng hạn nh− ở Hội An (Quảng Nam), Làng Vạc (Nghệ An), Bách Cốc (Nam Định), Cổ Loa (Hà Nội), v.v... Kết quả của các công trình này đ−ợc giới nghiên cứu đánh giá là có giá trị về nhiều ph−ơng diện, kể cả ở ph−ơng diện t− vấn chính sách cho Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ Việt Nam. Đó là ý kiến của TS. Petra Karlova, Đại học Waseda; GS. Imai Akio, Đại học Ngoại ngữ Tokyo; NCS. Sato Thụy Uyên, Đại học Kansai; và NCS. Đào Thu Vân, Đại học Kanazawa. 2. T− liệu về các vấn đề văn hóa và giao l−u văn hóa Tại tiểu ban 15 có 2 tham luận nghiên cứu về t− t−ởng Hồ Chí Minh. Trong đó một nghiên cứu từ góc độ chính trị học so sánh. Theo tác giả Cheng Grace, cách tiếp cận này cho phép làm lộ ra những nét độc đáo, đặc thù của lãnh tụ Hồ Chí Minh so với các nhà t− t−ởng, chính trị ph−ơng Tây. ở Hồ Chí Minh, t− t−ởng về tự do mang đậm tính chất nhân văn và gắn liền với quá trình đấu tranh giành độc lập và m−u cầu hạnh phúc cho dân tộc. Đây là cách tiếp cận nhận đ−ợc sự quan tâm chú ý của nhiều học giả. Trên cơ sở khảo cứu các nguồn t− liệu tiếng Phạn, một số nhà nghiên cứu đã phác họa mối quan hệ giữa Iran và Việt Nam thời đầu Công nguyên thông qua việc buôn bán giao l−u giữa triều đại Sassanid của Ba T− với v−ơng quốc Chăm Pa từ năm 226 đến năm 651. Những dấu vết của mối quan hệ này, ngày nay vẫn có thể tìm thấy qua văn tự ở chính Iran, cũng nh− phía Nam Trung bộ Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề thú vị này đòi hỏi phải đ−ợc nghiên cứu sâu hơn. T− liệu về Việt Nam, cách tiếp cận 5 Trên cơ sở nghiên cứu văn bản “Di Tê Loạn cổ” của Hàn Quốc, một tác giả đã b−ớc đầu phân tích quá trình biến động ngữ âm của 123 từ tiếng Việt thế kỷ XVIII. Công việc theo h−ớng này hứa hẹn sẽ mang lại ý nghĩa đáng kể cho việc khảo cứu ngữ âm học tiếng Việt, nói riêng, và quan hệ văn hóa Việt Nam - Triều Tiên trong lịch sử, nói chung. So sánh những đặc điểm của các hiện vật khảo cổ thuộc văn hóa Đông Sơn với các hiện vật khảo cổ của khu vực Quảng Tây, Trung Quốc, một học giả đã nhấn mạnh, ngay từ giai đoạn hậu kỳ đá cũ, khu vực Bắc Việt Nam và vùng Quảng Tây đã có mối quan hệ rất đặc biệt. ở đây có sự t−ơng đồng giữa văn hóa Ng−ờm với văn hóa Sơn Vi. Sự t−ơng đồng này cho phép đặt các giả thuyết mới về sự lan tỏa văn hóa. Đó là ý kiến của PGS.TS. Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học; PGS.TS. Đỗ Thu Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Park Ji Hoon, Đại học Hà Nội; GS. Thành Duy, Viện KHXH Việt Nam; và PGS.TS. Cheng Grace, Đại học Hawaii. 3. Các vấn đề văn hóa xã hội qua khảo sát các t− liệu Hán Nôm, Châu bản Nghiên cứu Châu bản triều Nguyễn để tìm hiểu những dấu vết, những nội dung, những quan niệm về Phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX là một h−ớng nghiên cứu có thể coi là mới, độc đáo, khả thi mà tr−ớc nay ch−a mấy ai thực sự quan tâm. Tại Tiểu ban 15, một tác giả đã b−ớc đầu chỉ ra những hiểu biết sâu hơn, phong phú hơn về phong trào Đông Du và về hai Chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh qua nguồn t− liệu Châu bản. Mặc dù ch−a hài lòng với kết quả đã nghiên cứu, nh−ng các học giả coi đây là một cách tiếp cận đáng quan tâm trong nghiên cứu Việt Nam học. Tìm hiểu 24 nhân vật hiếu thảo theo quan niệm của Nho giáo Việt Nam thông qua khảo sát văn bản “Bổ chính nhị thập tứ hiếu truyện” (văn bản chữ Hán và Nôm), trong so sánh với các văn bản chữ Hán khác, là một nghiên cứu công phu của NCS. Sato Thụy Uyên. Kết quả b−ớc đầu này đã góp phần làm rõ đặc thù của tính chất nhân văn trong văn hóa Việt Nam và một số đặc điểm chữ Nôm cuối thế kỷ XIX. Trên cơ sở khảo sát các văn bản Hán Nôm về nhật ký của các sứ thần triều Nguyễn đi sứ Nhà Thanh, một tham luận đã phác họa quan hệ bang giao Việt - Trung trong thế kỷ XIX. T− liệu Hán Nôm về chủ đề này đ−ợc coi là t−ơng đối phong phú. Khảo sát các nội dung đi sứ thời kỳ này nh− việc cầu phong, sắc phong, dụ tế, tiến cống, chúc thọ, các nhà nghiên cứu có thể thấy rõ hơn, quan hệ bang giao giữa hai n−ớc thời này không căng thẳng và cũng không trực tiếp có sự đối đầu nh− các triều đại tr−ớc đó. Thông qua việc sử dụng ngôn ngữ Hán Việt rất đặc thù của ng−ời Việt, một tác giả đã đ−a ra giả thuyết, ở Việt Nam, có một hệ thống chữ Hán của ng−ời Việt. Đây là khẳng định đ−ợc quan tâm chú ý và gây tranh cãi sôi nổi. Đó là ý kiến của ThS. Nguyễn Quang Hà, Trung tâm bảo tồn Di sản Hoàng Thành; ThS. Hoàng Ph−ơng Mai, Viện Nghiên cứu Hán Nôm; và NCS. Sato Thụy Uyên, Đại học Kansai; PGS.TS. V−ơng Toàn, Viện Thông tin KHXH; PGS.TS. Lê Văn Toan, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh 6 Thông tin Khoa học xã hội, số 12.2012 4. Về các nguồn tài liệu Việt Nam học và vai trò của tài liệu l−u trữ trong nghiên cứu Việt Nam học Có nhiều tham luận bàn về chủ đề này, và tại tiểu ban 15, đây là chủ đề đ−ợc tranh cãi sôi nổi. Các nhà khoa học, đặc biệt các nhà khoa học n−ớc ngoài nhấn mạnh, tài liệu cấp I, tức các tài liệu gốc trong các trung tâm l−u trữ có giá trị đặc biệt đối với việc tham khảo, nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu không rõ vì lý do gì lại không mấy quan tâm. Có không ít công trình khoa học, đáng ra rất có giá trị, nh−ng trên thực tế lại bị giảm uy tín, chỉ vì sử dụng t− liệu thứ cấp. Các tham luận đã chỉ ra những bộ hồ sơ cụ thể mà các kho l−u trữ có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu của giới nghiên cứu và của xã hội, nh−ng đến nay vẫn ch−a có cá nhân hoặc tổ chức nào tổ chức nghiên cứu một cách có bài bản. Chẳng hạn: - Bộ máy quản lý nền hành chính triều Nguyễn (1802-1945) với nhiều cơ chế rất đáng quan tâm nh− bổ nhiệm, bãi miễn quan lại, chế độ l−ơng bổng, kiểm tra, giám sát, th−ởng phạt, kể cả chế độ phụ cấp cho các viên chức đi tuần du quần đảo Hoàng Sa(*). - Chế độ và chính sách quản lý ruộng đất của các triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. - Về lịch sử quân sự thời kỳ thuộc địa, với nguồn t− liệu có trong tay thuộc loại đa dạng, phong phú, nh−ng cho đến nay hầu hết các nhà nghiên cứu không dùng tài liệu gốc mà nhiều lắm lại chỉ dùng cuốn “Lịch sử quân sự Đông (*) Xem thêm: Bulletin administratif de Annam. No.1. 1939. D−ơng thuộc Pháp của các học giả quân sự ng−ời Pháp xuất bản tháng 7/1930(*). - Về Tổ chức bộ máy hành chính của cả n−ớc và đặc biệt của thành phố Hà Nội, đứng đầu là Uỷ ban Thành phố và Tòa Đốc lý với những chức năng, cơ cấu qua từng thời kỳ lịch sử cùng hệ thống chân rết của nó ở cấp d−ới, hiện có nguồn t− liệu đặc biệt phong phú. - Một số thay đổi bộ máy hành chính của Pháp ở Hà Nội thời tạm chiếm (1947- 1954) và sự xuất hiện của Hội đồng An Dân rồi Thị chính ủy hội hỗn hợp Việt - Pháp (có khá nhiều tài liệu l−u trữ về nội dung này nh−ng hầu nh− các nhà nghiên cứu về Hà Nội đều bỏ qua). - Tổ chức bộ máy nhà n−ớc ở Việt Nam từ sau năm 1945 đến nay với rất nhiều biến động nh− “tách - nhập, nhập - tách” các cơ quan, các đơn vị hành chính, cũng là một nội dung mà kinh nghiệm chứa đựng trong các t− liệu l−u trữ ít đ−ợc khai thác. Về các nguồn tài nguyên Việt Nam học truyền thống, một số tham luận một lần nữa nhắc nhở giới nghiên cứu về giá trị của 191 bài thơ chữ Hán với 3.500 đơn vị thơ đ−ợc khắc trong Điện Thái Hòa ở Huế, về các bản truyện Nôm Lục Vân Tiên l−u giữ trong n−ớc và n−ớc ngoài, về hàng chục vạn hồ sơ, hàng trăm phông t− liệu quý hiếm và hàng chục loại kho t− liệu có một không hai của 4 trung tâm l−u trữ quốc gia, của Th− viện KHXH thuộc Viện KHXH Việt Nam. Qua các nguồn t− liệu này, rất nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, lịch sử thuộc đời sống xã hội quá khứ, đáng ra (*) Xem thêm: Histoire militaire de l’Indochine de l’Indochine franςaise des débuts à nos jours (juillet 1930). Imprimerie Extrême-Orient, 1930, 542 pages. T− liệu về Việt Nam, cách tiếp cận 7 đã đ−ợc giải đáp hoặc soi sáng, song tiếc rằng đến nay, việc giải mật để nghiên cứu, việc số hóa để phổ cập, việc khai thác một cách chuyên nghiệp và có bài bản, chúng ta ch−a làm đ−ợc bao nhiêu. T− liệu, chẳng hạn 160.000 hồ sơ về giáo dục và y tế giai đoạn 1861-1954 ở Trung tâm l−u trữ quốc gia I, hay những tập Bulletin về Triều Nguyễn, về Cố đô Huế, những tài liệu nói về công lao của các triều đại Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức trong việc trị thủy đồng bằng sông Hồng chắc chắn đó không chỉ là những tài liệu thông th−ờng, mà đó là những kinh nghiệm, những bài học, những chứng cứ, những chỉ báo trực tiếp phục vụ cho những nhu cầu nóng, cấp bách của việc bảo vệ chủ quyền(*) và xây dựng đất n−ớc trong điều kiện hiện nay. Đó là ý kiến của các học giả Nguyễn Khắc Thuần ở Đại học Bình D−ơng, của ThS. Nguyễn Ph−ớc Hải Trung ở Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, của TS. Vũ Thị Minh H−ơng ở Cục văn th− và l−u trữ nhà n−ớc, của ThS. Phạm Xuân Hoàng ở Viện Thông tin KHXH, của TS. Olivier Tessier ở Viện Viễn Đông bác cổ Hà Nội và của PGS.TS. Nguyễn Trần Cầu ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. * * * Trên đây là những nội dung chính đã diễn ra trong 6 phiên thảo luận ở tiểu ban 15. Tinh thần chung mà chúng tôi nhận đ−ợc phản hồi sau thảo luận là hầu hết các tác giả đều hài lòng với những gì mình kịp phát biểu. Tuy thế gần nh− tác giả nào cũng còn khá nhiều ý hay nh−ng do hạn hẹp về thời gian nên ch−a kịp trình bày. Điều đó - hy vọng sẽ đọng lại nh− một kích thích, gợi mở cho những nghiên cứu mới, sâu hơn, hay hơn khi các nhà khoa học gặp mặt ở lần Hội thảo sau. (*) Xem thêm: La Mémoire sur la Cochinchine de Jean Baptiste Chaigneau. Bulletin des Amis du Vieux Huê. - 4-6/1923, No 2, tome. X . - pp.253-283. ,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,, ,
File đính kèm:
- tu_lieu_ve_viet_nam_cach_tiep_can_va_phuong_phap_nghien_cuu.pdf