Trung Quốc học ở Việt Nam ngày nay - Những gì đang có và những gì cần có

Hàng loạt triết gia thuộc nhiều nền văn hóa,

văn minh khác nhau ngay từ thời cổ đại xa xưa

đã giành nhiều tâm trí, thậm chí có người giành

cả cuộc đời chỉ để “loay hoay” đi tìm ý nghĩa và

phương thức tồn tại cho riêng mình hay cho mỗi,

cho từng cá thể mà rốt cuộc những đáp án tìm

được cho tới nay vẫn chưa đủ để “tự dỗ dành”

được chính bản thân. Vậy nên cho tới tận tuổi

xế chiều, một trong những bậc hiền triết – nhà

thông thái bậc nhất của châu Âu mở ra thời đại

Khai minh là René Descarte vẫn thốt lên những

lời lẽ đượm vẻ chán chường: “Hãy biết sắp xếp

lại mơ ước của bản thân mình thì tốt hơn là hy

vọng thay đổi trật tự của thế giới”. Một triết gia

khác, nếu không nhầm thì là La Rochefoucault,

còn quyết liệt một cách thê thảm hơn: “Cuộc đời

chỉ vô nghĩa đối với những ai nhăm nhe đi tìm ý

nghĩa của nó!”. Còn triết lý dân gian thì nói gọn

lỏn: “Ngu si hưởng thái bình”, bởi “Biết lắm thì

khổ nhiều”

pdf 6 trang kimcuc 9840
Bạn đang xem tài liệu "Trung Quốc học ở Việt Nam ngày nay - Những gì đang có và những gì cần có", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trung Quốc học ở Việt Nam ngày nay - Những gì đang có và những gì cần có

Trung Quốc học ở Việt Nam ngày nay - Những gì đang có và những gì cần có
trung QuỐC hỌC ở Việt nam ngÀY naY – 
nhỮng gÌ Đang CÓ VÀ nhỮng gÌ CẦn CÓ
trần ngọc Vương*
Từ mỗi cá thể rồi mở rộng dần ra các quần 
thể, các cộng đồng từ nhỏ tới lớn để tồn tại và 
phát triển đều phải thường xuyên và liên tục hội 
được những điều kiện từ cần đến đủ, điều kiện 
cần là cho sự tồn tại và điều kiện đủ là cho sự 
phát triển. 
Hàng loạt triết gia thuộc nhiều nền văn hóa, 
văn minh khác nhau ngay từ thời cổ đại xa xưa 
đã giành nhiều tâm trí, thậm chí có người giành 
cả cuộc đời chỉ để “loay hoay” đi tìm ý nghĩa và 
phương thức tồn tại cho riêng mình hay cho mỗi, 
cho từng cá thể mà rốt cuộc những đáp án tìm 
được cho tới nay vẫn chưa đủ để “tự dỗ dành” 
được chính bản thân. Vậy nên cho tới tận tuổi 
xế chiều, một trong những bậc hiền triết – nhà 
thông thái bậc nhất của châu Âu mở ra thời đại 
Khai minh là René Descarte vẫn thốt lên những 
lời lẽ đượm vẻ chán chường: “Hãy biết sắp xếp 
lại mơ ước của bản thân mình thì tốt hơn là hy 
vọng thay đổi trật tự của thế giới”. Một triết gia 
khác, nếu không nhầm thì là La Rochefoucault, 
còn quyết liệt một cách thê thảm hơn: “Cuộc đời 
chỉ vô nghĩa đối với những ai nhăm nhe đi tìm ý 
nghĩa của nó!”. Còn triết lý dân gian thì nói gọn 
lỏn: “Ngu si hưởng thái bình”, bởi “Biết lắm thì 
khổ nhiều”.
Nếu lấy điểm khởi đầu là cá nhân, cá thể, coi 
đó là đơn vị tọa độ gốc, thì trong khung khổ loài 
người, xét theo góc nhìn đối với những sinh thể 
tự nhiên, cho tới nay có thể xác định những cấp 
độ quần thể và quần thể hóa cơ bản là gia đình, 
gia tộc, dòng họ, tộc người, hệ tộc (tiểu chủng), 
chủng tộc (đại chủng). Những cá thể lai (mé-
tisses) làm thành “ranh giới mềm” giữa các cấp 
độ quần thể hiện thực, và cần lưu ý thêm rằng 
bộ phận này trong thế giới ngày nay đang có xu 
hướng càng ngày càng đông đảo.
Theo góc nhìn xã hội – lịch sử và xã hội hóa 
– lịch sử hóa, song song với trục quy chiếu đó là 
thực tế địa vực hóa, lãnh thổ hóa, lần lượt xuất 
hiện các thực thể xã hội – hành chính, từ làng 
xã, huyện, tỉnh, khu, miền, (cùng các biến thể ở 
từng cấp) quốc gia, khối – vùng quốc gia, châu 
lục, và cuối cùng là thế giới. Các cộng đồng 
cũng vận động phân hóa thành các tổ chức, đoàn 
thể, nhóm xã hội, theo hướng càng tiến tới thời 
hiện đại thì các loại tập hợp xã hội hóa đó càng 
đa dạng về hình thức và càng phong phú, phức 
tạp về nội dung.
Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa trên thế 
giới từng khẳng định sự tồn tại của hàng chục 
nền văn minh lớn trong lịch sử nhân loại ở các 
châu lục (trừ ở châu Nam cực), nhưng phần lớn 
các nền văn minh ấy đều có vận mệnh lịch sử 
thăng trầm dữ dội, cho tới ngày nay thì phần 
đông các học giả hàng đầu của chuyên ngành 
lịch sử văn hóa, văn minh đều khá thống nhất 
trong nhận định rằng chỉ có hai nền văn minh 
lớn của nhân loại, tuy cũng trải qua nhiều bước 
thăng trầm, nhưng trên tổng thể, được coi là tồn 
tại liên tục từ lúc hình thành đến nay, không bị 
đứt gãy đến thành rời rạc, không bị sụp đổ đến 
mức không thể gượng dậy được, đó là văn minh 
Ấn Độ và văn minh Trung Hoa. Do vị trí đặc thù 
đó, mà hai nền văn hóa, văn minh này thu hút sự 
chú ý từ lâu của rất nhiều học giả trên thế giới.
1. những gì từng có và đang có
Để có thể tồn tại liên tục không bị sự đứt 
gãy lớn như thế, dĩ nhiên mỗi nền văn minh ấy 
phải được thiết định bởi những nguyên lý và 
cách thức nào đó, đủ sức “sống sót” qua vô vàn 
biến cố lịch sử lớn nhỏ, trong đó bao gồm rất 
nhiều những biến cố mang tính phá họai và hủy 
diệt. Một trong những thách thức hàng đầu của 
những nhà Ấn Độ học hay Trung Quốc học là 
* gs.ts, trường Đh khxh&nV hà nội
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
10 SỐ 05 - THÁNG 11/2014
phải hướng tới việc tìm kiếm lời giải cho câu đố 
đầu tiên này.
Những phác thảo đầu tiên – cho đến nay 
chỉ có thể khẳng định ở mức độ như vậy – cho 
lời đáp đối với “sự thách đố” của hai nền văn 
hóa, văn minh này, là chúng được thiết định bởi 
những nguyên lý và cách thức khác biệt nhau! 
Về phần mình, tôi cho rằng lực lượng nòng 
cốt duy trì và phát triển văn minh Trung Hoa 
là những nhóm xã hội theo đuổi mục tiêu một 
nền văn minh đế chế hóa, còn lực lượng chủ yếu 
kiến tạo và bảo trì nền văn minh Ấn Độ là những 
nhóm xã hội khát vọng hướng tới một nền văn 
minh vũ trụ hóa theo cách thức tâm linh và siêu 
việt. Hẳn rằng đây là một nhận định gây ngạc 
nhiên và chắc chắn cũng gây tranh cãi, nhưng 
không phải là trọng tâm của bài viết này.
Từ điểm nhìn của người hiện đại, các nền 
văn hóa, văn minh có lịch sử hàng ngàn năm 
đều hàm chứa những bí mật riêng có để tồn tại 
và phát triển, tuy nhiên việc phát hiện ra những 
yếu tố mang tính đặc trưng ấy trong bối cảnh 
toàn cầu hóa và thế giới “đã trở nên phẳng” như 
ngày nay là một công việc hoàn toàn không dễ 
dàng. Văn minh phương Đông nói chung, văn 
minh Trung Quốc nói riêng ngay từ thời điểm 
tiếp xúc, giao thoa có hệ thống ban đầu cũng đã 
dần dà thu hút sự chú ý, và càng ngày càng gây 
chú ý cao độ, của nhiều học giả phương Tây, và 
ở nhiều quốc gia Âu Mỹ, ngành Trung Quốc học 
đã có lịch sử riêng hàng ba thế kỷ. Như đối với 
bất kỳ lĩnh vực nào khác của nghiên cứu khoa 
học, khi hiểu biết càng tăng lên thì những “mặt 
khuất” chưa được biết tới cũng càng giãn nở 
rộng ra, nói theo lối “biện chứng” là “càng hiểu 
biết nhiều càng thấy sự ngu dốt của chính mình 
to thêm mãi”. Dẫu vậy, bất chấp những gì không 
biết, chưa biết, đối tượng nghiên cứu vẫn ngày 
một trở nên minh bạch hơn, rõ ràng hơn. Trung 
Quốc học trên thế giới ngày nay đang bùng nổ 
với quy mô và chiều sâu chưa từng thấy, tương 
ứng với vị trí và vai trò ngày càng “nặng ký” của 
Trung Quốc trên trường quốc tế, dù theo nghĩa 
khẳng định hay theo nghĩa tiêu cực.
Như mọi người đều có thể biết, cư dân thuộc 
cộng đồng Việt ngày nay vốn mang nhiều đặc 
điểm chứng tỏ mối liên quan gần gũi với cộng 
đồng cư dân địa vực Nam Trung Quốc, trước 
hết là về phương diện nhân chủng. Về mặt địa 
văn hóa, sự giải thể “cơ tầng Đông Nam Á cổ” 
đã diễn ra đối với cộng đồng Bách Việt trên lưu 
vực sông Dương Tử và những vùng đất vùng 
người kề cận với “Trung Nguyên” để bị “thu 
hút” vào “cơ cấu đế chế” mà cộng đồng cư dân 
trên lưu vực sông Hoàng Hà, dù sao chăng nữa, 
ít nhất từ thời Thương – Chu trở đi, đã đóng vai 
trò là hạt nhân và trục tập hợp. Khi quỹ đạo đế 
chế hóa ở “Trung Nguyên” chính thức được xác 
lập (Tần), thì đại diện lớn nhất của “cộng đồng 
Nam Man xưa” là nước Sở vẫn tỏ ra là “trung 
tâm đề kháng” mạnh mẽ nhất, nhưng rồi thất bại 
của Hạng Vũ trước Lưu Bang đã chính thức đặt 
dấu chấm hết cho nỗ lực tự lập tự cường của 
cả vùng đất mênh mông làm nên gần một nửa 
của cái “Trung Nguyên mới”. Bốn thế kỷ đế chế 
Hán thông qua vô số nhân vật và sự kiện lịch sử 
đã “làm nốt”, “kiện toàn” cái cốt lõi của quốc 
gia – đế chế này. Ba thế kỷ rưỡi “suy thoái đế 
chế” từ thời Tam Quốc. Qua Ngụy Tấn Nam Bắc 
triều (220 – 581) cho thấy tình trạng tái cát cứ 
trên quy mô lớn và kéo dài sẽ còn là một “tiết 
tấu mang tính điệp khúc” sẽ còn lặp lại nữa, bất 
chấp sự thật là nhìn trên tổng thể, nhà Tùy đã tấu 
lên khúc dạo đầu của “đế chế tân trào”, để tiếp 
đó là một đế chế Đại Đường hùng cường hoa 
phát, đưa xứ sở này vượt lên trình độ cao nhất 
thế giới trong ba thế kỷ tiếp theo.
Nhưng như đã biết, “kịch bản lịch sử” tiếp 
theo là “điệp khúc suy bại, cát cứ” tái diễn. Sự 
tái lập “thiên triều đế chế” dưới cả hai thời Bắc 
và Nam Tống đều không phục hưng được vẻ 
huy hoàng độc đáo của thời Đại Đường, trên 
thực tế Nam Tống chỉ là triều đại tượng trưng 
cho cả một “Trung Quốc đa sở hữu” mà ngày 
nay, các nhà nước Liêu, Kim, cả Tây Hạ nữa, 
đang được các sử gia đương đại Trung Quốc, 
và cả những người làm phim cổ trang nữa, “cho 
phép gia nhập sâu” vào thành những trang lịch 
sử chính thống.
Nguyên, Minh, Thanh tiếp tục là những nhà 
nước đế chế, nhưng lại vẫn cần lưu ý rằng “khúc 
đầu” và “khúc cuối” của những đế chế này là 
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
11SỐ 05 - THÁNG 11/2014
những “trang sử rách” được viết bởi rất nhiều 
thế lực cát cứ lớn nhỏ, và chính những chủ thể 
sáng lập nên các đế chế này vốn cũng “trưởng 
thành lên” từ những thế lực cát cứ đó, hơn thế, 
và điều đặc biệt đa nghĩa, hai trong ba đế chế 
ấy được dựng nên bởi bàn tay của các thế lực 
“Hung Nô, Di Địch, ngoại nhân”. Nhân vật khai 
sáng đế chế thứ ba – Chu Nguyên Chương, Thái 
tổ Hoàng đế nhà Minh, là người duy nhất trong 
thập đại đế vương có nguồn gốc phương Nam, 
nghĩa là cũng “Nam Man một nửa”. Nhưng từ 
góc nhìn khác, phải nhận rằng chính ba triều 
đại đế chế này, bằng những cách thức có thể rất 
khác nhau, đã lần lượt đưa thêm những vùng đất 
vùng dân cư sáp nhập vào bản đồ đế chế của 
“quốc gia ở giữa”, và sự mở rộng cương vực 
đế chế ấy rút lại đã “xóa sổ” hàng loạt các quốc 
gia từng tồn tại và phát triển độc lập trong hàng 
ngàn năm trước đó. Nhà nước Nam Chiếu – Đại 
Lý là trường hợp điển hình của một sự bị thôn 
tính như thế, và điều đó diễn ra dưới tay của một 
“kẻ chinh phục” khá nổi tiếng và tai tiếng người 
Mông Nguyên – Thoát Hoan, người lần đầu tiên 
khuất phục được cả vùng Vân Nam cho đế chế 
của cha mình rồi nhờ thế mà vẽ vĩnh viễn vùng 
đất này vào bản đồ Trung Hoa nhưng lại từ Đại 
Việt trở về theo “con đường ống đồng”!
Mối quan hệ lâu đời giữa một cộng đồng đất 
và người Việt Nam với một thực tế nhiều triều 
đại nhưng hoàn toàn có thể nhìn nhận là có tính 
liên tục theo chiều nhất thể hóa trên đất Trung 
Hoa như vậy từng diễn ra với rất nhiều tông 
điệu, cung bậc và sắc thái, không ít khi tỏ ra 
mâu thuẫn và nghịch phách, lỗi nhịp. Không bàn 
ở đây lịch sử những mối quan hệ của các “Thiên 
triều” Trung Hoa với các cộng đồng phương 
Bắc, phương Tây và phương Đông của họ, chỉ 
xét riêng những tác động qua lại giữa các triều 
đình này với các cộng đồng phương Nam (gồm 
cả Đông Nam và Tây Nam), thì có thể khẳng 
định rằng duy chỉ ở Việt Nam, rốt cuộc, tồn tại 
được và phát triển được một vùng đất vùng cư 
dân đạt tới định chế độc lập, tự khẳng định như 
một “quốc gia đầy đủ” dù đã phải trải qua hàng 
chục cuộc xâm lăng và chiếm đóng lớn nhỏ của 
các thế lực thiên triều ấy.
Tình thế bất tương đẳng truyền kiếp trải qua 
hàng hơn hai ngàn năm giữa hai thực thể (nếu 
chỉ tính từ mốc tín sử cho phép nói là bắt đầu 
có biết đến sự tồn tại của nhau) khiến cho trong 
suốt cả thời gian dằng dặc ấy, xuất hiện không ít 
những “phương thức ứng xử” đa trị và đa nghĩa 
giữa những thế lực vừa thống trị mà cũng vừa 
đại diện cho cộng đồng Việt với các triều đại đế 
chế trên đất Trung Hoa. 
So với các quốc gia – dân tộc khác trong 
nhóm các quốc gia được định danh là “đồng 
văn” trên nền “Hán tự văn hóa quyển” là Triều 
Tiên và Nhật Bản, có thể nêu lên một nhận xét 
khái quát bao hàm một nghịch lý: Việt Nam là 
quốc gia trên thực tế chịu đựng họa xâm lăng 
và nô dịch của các đế chế Trung Hoa liên tục 
nhất, dai dẳng nhất, khốc liệt nhất, có thời gian 
bị nội thuộc kéo dài nhất (trong khi Nhật Bản 
“chưa một ngày bị Trung Quốc cai trị”!) nhưng 
giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ được các nhà 
Đông phương học định danh là “thế giới Hán 
hóa” (le monde sinisé), Việt Nam lại là quốc gia 
chịu ảnh hưởng của “nền văn hóa Thiên triều” 
chính thống ít sâu đậm nhất! Khẳng định này có 
thể gây tranh cãi và giải thích điều này hoàn toàn 
không dễ dàng. Nhưng có thể đề nghị các nhà 
khoa học đang cộng tác làm các bộ sách kinh 
tạng với các học giả thuộc bốn trường đại học 
lớn của bốn nước chứng thực phần nào cho điều 
vừa nói, thậm chí chỉ cần căn cứ vào số lượng 
quyển của bộ Nho tạng có được ở Việt Nam so 
với số lượng quyển có được từ nguồn thư tịch 
Triều Tiên và Nhật Bản. Tình hình chung cho 
cả tam giáo hay rộng hơn, cho cả bách gia chư 
tử, có lẽ cũng không khác mấy, thậm chí tôi ngờ 
rằng còn có thể “hoang vắng” hơn!
Chúng tôi đã có dịp nhận xét rằng trong các 
loại hình nhà nho cơ bản (hiển nho), thì ở Việt 
Nam thưa thớt loại triết nho – nhà nho nhà tư 
tưởng, cũng hiếm nhà nho học giả. Hai mẫu nhà 
nho phổ biến hơn cả ở Việt Nam trước kia là nhà 
nho ông quan và nhà nho nghệ sĩ. Nhiều nhà 
nghiên cứu có thẩm quyền chuyên môn bậc nhất 
trong giới khoa học xã hội nước ta mấy chục 
năm qua dù muốn dù không đều buộc phải thừa 
nhận một thực tế: cha ông ta không có nhiều 
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
12 SỐ 05 - THÁNG 11/2014
truyền thống học thuật nói chung, lý luận nói 
riêng.
Có thể và cần thiết tạo nên nhiều cơ hội khác 
để bàn kỹ, bàn sâu về chủ đề này. Điều tôi cần 
nói ở đây chỉ là một nhận xét vắn tắt: hàng ngàn 
năm chung đụng với nền văn hóa Trung Hoa, 
cha ông ta quả có chịu ảnh hưởng nhiều, thậm 
chí rất nhiều, nhưng rút cuộc, hiểu nền văn hóa 
đó một cách sâu sắc, toàn diện và hệ thống thì 
khó có thể khẳng định. Bộ phận “ưu tú” hơn 
cả trong giới nhà nho đương nhiên theo truyền 
thống hình dung phải là các bậc đại khoa, nhưng 
giữa ba ngàn tên tuổi đỗ đại khoa còn lưu lại 
trong sử sách hay trên bảng vàng bia đá, thật khó 
đếm số học giả nổi trội đủ mười đầu ngón tay. Dĩ 
nhiên, hoàn toàn có thể nói thêm rằng không chỉ 
có các bậc đại khoa mới trở nên học giả tầm cỡ, 
nhưng đã vậy, lại phải nói thêm nữa rằng những 
trường hợp như thế chắc chắn là những ngoại lệ.
Thứ kiến thức xuất phát từ nền văn hóa, học 
thuật Trung Hoa mà nhà nho Việt Nam biết 
nhiều nhất trước kia là văn và sử. Tụng Bắc sử 
để quyết khoa đó đã là “học bệnh” của cả ngàn 
năm. Nhưng có thực nhà nho ta có ai đó đã kịp 
đọc đủ, dù chỉ một lần, những pho sử chính thức 
của các sử gia Trung Quốc, thứ được biên soạn 
lần hồi trong khoảng 2500 năm? Tôi không tin 
như thế. Ngay bộ sử nổi tiếng nhất – Sử ký Tư 
Mã Thiên – thì cũng chỉ thấy nhà nho ta “nằm 
lòng” những phần “Bản kỷ”, “Thế gia”, một 
phần “Liệt truyện”, còn phần “Thư” và “Biểu” 
thì thấy rất ít người nhắc tới. Học vấn của nhà 
nho Việt Nam về “Trung Quốc học” lại chỉ thiên 
mạnh mẽ về thời cổ đại. Có thể nói cho tới tận 
thế kỷ XVIII rất ít nhà nho Việt Nam có điều 
kiện và chịu khó “cập nhật thông tin” về nền 
học thuật Trung Quốc từ đời Tống trở đi. Thứ 
nhà nho biết nhiều và có thể kèm cả sự say mê là 
văn chương, nhưng trong số những tác giả được 
xếp vào danh sách bát đại gia Đường – Tống, 
thì người được biết tới nhiều nhất có lẽ chỉ là 
Tô Đông Pha, thứ đến là Hàn Dũ, Liễu Tông 
Nguyên và Âu Dương Tu được đề cập thưa thớt 
hơn, về Vương An Thạch thì có lẽ vì vừa là lãnh 
tụ phái Tân đảng vừa là người chủ trương xâm 
lược Việt Nam nên ít được nhắc tới, còn cơ hồ 
không có tác giả nào của Việt Nam từng “cố 
công tìm hiểu” về Tô Tuân, Tô Triệt và Tăng 
Củng.
Rất hiếm văn nhân người Việt trước đây có 
được một sự hiểu biết tương đối toàn diện về 
những thành tựu đỉnh cao của nền văn học Trung 
Quốc sau đời Đường. Bằng chứng là không thấy 
ai tỏ ra “lão luyện” về Tống từ, Nguyên khúc 
hay Minh – Thanh tiểu thuyết, mặc dù những 
loại sách vở ấy vẫn được các thương nhân Hoa 
Kiều “bằng con đường tiểu ngạch” đưa vào Việt 
Nam.
Trong tâm trạng bốc đồng vừa có sắc thái tự 
hào dân tộc chủ nghĩa pha màu tuyên huấn, vừa 
ẩn giấu cả mặc cảm tự ti, thi thoảng có những 
người Việt lớn tiếng khẳng định rằng một số 
nhân vật xuất sắc nào đó của giới trí thức nho 
gia Việt Nam từng đỗ “lưỡng quốc tiến sĩ”, thậm 
chí “lưỡng quốc trạng nguyên”. Với tất cả sự 
chú mục tìm hiểu, cá nhân tôi không khẳng định 
có ai đó từng là như thế. Có chăng, đó chỉ là 
những nhân vật hư cấu trong truyện Nôm bình 
dân!
Các chính thể chuyên chế ở Trung Quốc xưa 
có chủ trương nhất quán kìm hãm sự trưởng 
thành đích thực của trí tuệ người Việt, áp dụng 
một đường lối nặng thì diệt chủng văn hóa Việt 
mà nhẹ ra thì cũng ngăn cấm người Việt đạt tới 
một nền học vấn tiên tiến so với mặt bằng khu 
vực. Những “đặc chiếu” của Minh Thành Tổ về 
cách thức ứng xử với tất cả những gì là di sản 
văn hóa của chính người Việt và sự kiện quan lại 
Trung Quốc thu giữ tất cả những sách vở có nội 
dung ít nhiều rộng hơn tri thức khoa cử mà Lê 
Quý Đôn đã tự bỏ tiền riêng ra mua khi về qua 
của khẩu trong chuyến đi sứ của ông vào năm 
1762 chỉ là những ví dụ nổi bật.
Chủ trương “giáo hóa Nam nhân” của Trung 
Quốc chỉ được khuôn định trong khung khổ 
cho người Việt biết được và học theo, làm theo 
những gì họ muốn nhìn thấy ở “giống dân” ấy. 
Triều Nguyễn trên thực tế đã tạo được ít nhiều 
sự thay đổi có tính đột xuất và chủ động hơn 
các triều đại trước họ đối với lĩnh vực “Trung 
Quốc học”. Đó cũng sẽ là cả một câu chuyện dài 
không có điều kiện để bàn tới ở đây. Tuy nhiên, 
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
13SỐ 05 - THÁNG 11/2014
có thể nói vắn tắt rằng cho tới tận thời điểm trở 
thành thuộc địa của thực dân Pháp, những cố 
gắng đó của vua tôi nhà Nguyễn vẫn chưa thể 
đạt tới tầm mức tạo ra được một quán tính và 
vectơ chuyển động theo hướng khác.
Trên dưới một thế kỷ kể từ sau hàng ước 
Giáp Thân, nền văn hóa nói chung và nền học 
vấn nói riêng ở Việt Nam bị/ được “bẻ lái” theo 
đường hướng khác, thoát dần khỏi quỹ đạo khu 
vực truyền thống. Bản thân nền văn hóa và nền 
học vấn ở Trung Quốc cũng từng bước trở nên 
khác trước, dù muốn dù không cũng buộc phải 
tuân theo quỹ đạo hiện đại hóa và hiện đại. 
Nhưng định mệnh lịch sử, ít nhất là cả trên hai 
bình diện địa văn hóa lẫn địa chính trị, đã khiến 
cho hai quốc gia, hai dân tộc, hai cộng đồng cư 
dân vẫn duy trì những “hằng số của những quan 
hệ, những tính quy định”. Vậy mà, bất chấp tầm 
quan trọng của những mối quan hệ đa chiều và 
phức tạp giữa hai quốc gia, hai cộng đồng vẫn 
cứ đòi hỏi thậm chí đòi hỏi tăng cường mạnh mẽ 
hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau, Trung Quốc học ở 
Việt Nam tới thời điểm này có thể nói vừa thiếu 
vừa yếu, nghiêm trọng tới mức “không tin được 
dù đó là sự thật”.
2. trông người, mà ngẫm
Không bàn tới chuyện người Nhật Bản, 
người Hàn Quốc với tư cách là những quốc gia 
đồng văn đã nghiên cứu Trung Quốc thế nào, mà 
chỉ giới thiệu qua ở đây sự phát triển của ngành 
Trung Quốc học ở những quốc gia Âu Mỹ, ngõ 
hầu từ đó họa may có thể nhận ra đôi ba điều 
cảnh tỉnh gì chăng? Hợp lẽ hơn, trong khung khổ 
của bài viết này tôi chỉ muốn nhắc tới nền Trung 
Quốc học ở hai quốc gia mà tôi biết tương đối 
rõ, đó là Trung Quốc học ở Nga và Trung Quốc 
học ở Pháp. Với mỗi nền Trung Quốc học ở mỗi 
quốc gia ấy, cũng chỉ có thể lấy một trường hợp 
tương đối điển hình để “nêu ví dụ”.
2.1. trung Quốc học ở nga
Có thể nói rằng ngay từ thời Sa Hoàng, ngành 
Đông phương học nói chung và chuyên ngành 
Trung Quốc học nói riêng đã sớm được thiết kế 
như một lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu 
trong những hoạt động nghiên cứu khoa học xã 
hội Nga. Dễ hiểu rằng do đế chế Nga và đế chế 
Trung Hoa đều là những đế chế khổng lồ và hiếu 
đại, nhưng do hai khu vực hạt nhân của hai đế 
chế nằm rất xa nhau, với một “vùng đệm” mênh 
mông bao gồm cả Xi bê ri và hàng chục quốc gia 
Trung Á, lại do sự khác biệt cả về chủng tộc cả 
về truyền thống lịch sử, nên ngành Trung Quốc 
học của Nga vào những thế kỷ đầu tiên lại được 
xây dựng nên bởi những công trình nghiên cứu 
của giới học giả Nga về các tộc người và các nhà 
nước thuộc các tộc người thiểu số nằm ở vùng 
Bắc và Đông Bắc Trung Quốc ngày nay. Nói 
theo ngôn ngữ của vua chúa Trung Quốc xưa, 
thì người Nga biết và hiểu về họ trước hết là qua 
các tộc thuộc nhóm “Ngũ Hồ” (Bắc Địch) và 
nhóm “Đông Di”. Trong ngôn ngữ Nga cho đến 
nay, Trung Quốc vẫn là “Kitai” – một biến âm 
của tộc danh Khiết Đan. Vị trí địa lý và quy mô 
đế chế đã khiến cho những nhà hoạt động nhà 
nước thời các Sa hoàng nảy sinh tham vọng và 
tổ chức hiện thực hóa tham vọng làm bá chủ ít 
ra là một vùng lãnh thổ khổng lồ (và như đã biết, 
Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết, 
gọi tắt là Liên Xô, là quốc gia từng có lãnh thổ 
lớn nhất, chiếm tới 1/6 mặt địa cầu). Đến thời 
Liên bang Xô viết, thì ngành Đông phương học 
của quốc gia này mà bộ phận ưu tiên là Trung 
Quốc học đã thu hút vào bản thân nó những trí 
tuệ kiệt xuất bậc nhất của giới khoa học xã hội 
và nhân văn, dù là đảng viên hay không phải là 
đảng viên cộng sản. Với định hướng chiến lược 
tư duy toàn cầu, đặt ra và giải quyết những vấn 
đề chung nhất của toàn thế giới và toàn bộ lịch 
sử nhân loại, cùng với nỗ lực giữ vững địa vị 
“thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và phong 
trào cộng sản quốc tế”, vừa phải giúp đỡ toàn 
diện để làm hình thành nên một quốc gia “Trung 
Hoa đỏ”, vừa phải kiềm chế nó (và đã không 
thành công) sao cho “người khổng lồ mới” này 
không trở thành chủ thể mới tranh đoạt quyền 
lãnh đạo cả phe xã hội chủ nghĩa và phong trào 
cách mạng thế giới, nhà nước Liên Xô quả đã 
không tiếc sức người sức của đầu tư cho một 
chuyên ngành Trung Quốc học trở nên thực sự 
là ngành mũi nhọn. Một tư tưởng có tầm quan 
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
14 SỐ 05 - THÁNG 11/2014
trọng hàng đầu, tiên quyết những thành tựu của 
giới Trung Quốc học Nga nói riêng, Liên Xô 
nói chung là tư tưởng đòi hỏi giới khoa học này 
phải nghiên cứu “thế giới Trung Hoa” như một 
đối tượng của khoa học tự nhiên, nghĩa là như 
nó vốn và đang tồn tại chứ không như người 
Liên Xô mong muốn nó tồn tại. Chính nhờ vào 
sự định hướng chủ đạo như thế mà giới Trung 
Quốc học Nga cả một thời gian rất dài về cơ bản 
là thoát khỏi sự ám ảnh của vòng kim cô “lập 
trường chính trị” ngắn hạn nên thiển cận. (Cũng 
có một số nhà Đông phương học Nga bị xử lý, 
có người bị giết trong các cuộc thanh trừng vào 
các thập kỷ 30, 40, trong đó có những thiên tài 
như Iulian Konxtantinôvich Shuski, nhưng thực 
chất lại vì những nghi ngại chính trị ngoài khoa 
học). Trong khoảng thời gian trên dưới một 
thế kỷ, chuyên ngành Trung Quốc học ở Nga 
thực sự đã ở vào vị trí hàng đầu trong toàn cảnh 
ngành Trung Quốc học thế giới, với hàng loạt 
những tên tuổi xứng tầm quốc tế: Alêxeev Vaxili 
Mikhailôvich (1881-1951), Vaxiliev Vaxili Pav-
lôvich (1818-1900), Marr Nikolai Iakovlevich 
(1864-1934), Olđelburg Xergei Phêđôrôvich 
(1863-1934), Konrad Nikôlai Iôxivphôvich 
(1891-1970), Sherbatxkôi Phêđor Ippolitôvich 
(1866-1942), Shuski Iulian Konxtantinôvich 
(1897-1946), Vaxiliev Boris Alekxanđrôvich 
(1899-1946) cùng rất nhiều tên tuổi lớn khác. 
Một trong những tên tuổi lớn của giới Đông 
phương học Nga vừa qua đời gần đây là Riphtin 
Bôris Lvôvich (1832-1912), viện sĩ thông tấn 
Viện Hàn lâm khoa học Nga, người mà Tạp chí 
Nghiên cứu văn học số 11/2012 vừa ra một số 
chuyên đề với một tình cảm trân trọng dự định 
chúc mừng sinh nhật lần thứ tám mươi chẳng 
dè khi đang lên khuôn thì nhận được tin ông tạ 
thế. Sự lựa chọn và cách thức làm khoa học của 
Riphtin (xin xem toàn số 11 tạp chí Nghiên cứu 
văn học vừa qua) theo tôi nghĩ, không chỉ đơn 
giản khiến chúng ta suy nghĩ, mà có lẽ trước 
hết, buộc chúng ta xấu hổ biết bao khi tự nhìn 
lại mình! 
2.2. trung Quốc học ở pháp 
Là một “đế quốc thực dân đời cũ” điển hình, 
không khó giải thích vì sao lĩnh vực Đông 
phương học Pháp lại có được bề dày truyền 
thống đáng ngưỡng mộ đến vậy. Tôi sẽ không 
làm mất thêm thời gian của quý vị bằng việc 
lược thuật lại những thành tựu rất nổi trội của 
ngành Trung Quốc học ở quốc gia này, mà đơn 
giản chỉ khẳng định lại rằng với những tên tuổi 
như Marcel Granet (1884-1940), Pellio, anh 
em nhà Maspero, Levi, Edouard Chavann 
giới Trung Quốc học Pháp từ cuối thế kỷ XIX 
đến nửa đầu thế kỷ XX đã giành được sự kính 
trọng của các nhà Đông phương học thế giới, 
kể cả của các học giả lớn người Trung Quốc. 
Hậu duệ tinh thần của những nhà thông thái đó 
là cả một đội ngũ đông đảo vẫn tiếp tục được 
bổ sung không dứt tới nay. Tôi muốn đề cập tới 
một trong những khuôn mặt sáng giá bậc nhất 
hiện nay trong số họ: giáo sư Frencois Julien, 
nhà triết học đương đại, người đã công bố hàng 
vài chục chuyên luận về triết học, mỹ học và tư 
tưởng Trung Quốc trong hơn ba mươi năm gần 
đây. Ở Việt Nam, liên tiếp trong khoảng mười 
năm lại nay, đã có ngót một chục công trình của 
tác giả này được dịch và xuất bản, điều đó đã 
biến ông thành “nhà triết học được đọc nhiều 
nhất ở Việt Nam sau các nhà kinh điển của chủ 
nghĩa Marx” như trong lời giới thiệu một công 
trình của ông đã thông tin. Nói vắn tắt, thì cá 
nhân tôi, tiếp xúc với những công trình của nhà 
Trung Quốc học này, hầu như bao giờ cũng vừa 
đọc vừa giật mình thon thót.
Tôi có theo dõi và hệ thống hóa, dù “chẳng để 
làm gì”, dù “chả ích cho ai” đi nữa, cách thức mà 
người Pháp, từ trước tới nay, tìm hiểu (kỹ lưỡng) 
và ứng xử (rất mực thận trọng) đối với nhà nước 
Trung Quốc và cộng đồng người Hoa. Điều mà 
tôi tự nhủ, nhân dịp này xin nói ra lời, rằng sao 
một cộng đồng, một quốc gia có số phận lịch sử 
chằng buộc với Trung Quốc tự ngàn xưa và còn 
sẽ phải bị/ được chằng buộc “tới muôn sau” như 
Việt Nam, mà lại tự mình chấp nhận giới hạn sự 
hiểu biết của mình về người láng giềng khổng 
lồ “nông nổi” đến mức ấy? Chưa nói rằng, liên 
miên trong lịch sử còn thêm tình trạng “kẻ biết 
thì không làm mà kẻ làm thì không biết” diễn ra 
không phải là thi thoảng cho lắm!
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
15SỐ 05 - THÁNG 11/2014

File đính kèm:

  • pdftrung_quoc_hoc_o_viet_nam_ngay_nay_nhung_gi_dang_co_va_nhung.pdf