Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường

Tuổi trẻ và niềm đam mê chế tạo

vũ khí

Trần Đại Nghĩa có tên là Phạm

Quang Lễ. Ông sinh ngày 13-9-1913

trong một gia đình nhà giáo nghèo tại xã

Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh

Long. Thủa niên thiếu, ông là cậu bé

ham học và thông minh nổi tiếng. Mặc

dù hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, lại

mồ côi cha từ khi mới 7 tuổi, song với

tư chất thông minh và sự chăm chỉ, chịu

khó, cậu bé Lễ luôn luôn đạt kết quả học

tập xuất sắc toàn diện, nhất là toán và

các môn tự nhiên. Năm 1926, Phạm

Quang Lễ thi đỗ hạng ưu vào trường

Trung học đệ nhất cấp Mỹ Tho, được

nhận học bổng trong 4 năm học (1926 -

1930). Năm 1930, Phạm Quang Lễ thi

đỗ vào Trường Petrus Ký (nay là

Trường chuyên Lê Hồng Phong, TP Hồ

Chí Minh) và được học bổng 3 năm liền.

Năm 20 tuổi (1933), Phạm Quang Lễ đã

trở thành thủ khoa cả tú tài bản xứ và tú

tài Tây. Nhưng Phạm Quang Lễ không

ra Hà Nội để học tiếp mà đi làm ở Tòa

sứ Mỹ Tho, hy vọng sẽ du học để thực

hiện hoài bão còn đang ấp ủ. Tình cờ,

Phạm Quang Lễ nhận được sự giúp đỡ

của ông Vương Quang Ngưu - một nhà

báo Việt kiều yêu nước từ Pháp về. Ông

Ngưu đã vận động để Phạm Quang Lễ

được nhận một năm học bổng của Hội Ái

hữu Trường Chasseloup Laubart (Pháp).

Nếu thi đậu đại học sau một năm học tại

đây, Chính phủ Pháp sẽ tiếp tục cấp học

bổng(2). Tháng 9-1935, Phạm Quang Lễ

sang Pháp du học khi tròn 22 tuổi.

pdf 9 trang kimcuc 4080
Bạn đang xem tài liệu "Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường

Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 104
TRẦN ĐẠI NGHĨA - NHÀ KHOA HỌC KIỆT XUẤT, 
VỊ TƯỚNG KHIÊM NHƯỜNG 
ĐỖ THỊ THẢO* 
Tóm tắt: Trần Đại Nghĩa (1913 - 1997) là một nhà khoa học kiệt xuất(1), 
được mệnh danh là cha đẻ của ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Trải 
qua hai cuộc kháng chiến cứu nước, tên tuổi ông trở thành một huyền thoại đối 
với nhiều thế hệ người Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế. Những đóng góp 
của ông đối với công cuộc cách mạng Việt Nam vô cùng to lớn, nhưng cuộc 
đời ông lại hết sức bình dị, khiêm nhường. 
Từ khóa: Giáo sư Trần Đại Nghĩa, nhà khoa học kiệt xuất, giải thưởng Hồ 
Chí Minh. 
1. Tuổi trẻ và niềm đam mê chế tạo 
vũ khí 
Trần Đại Nghĩa có tên là Phạm 
Quang Lễ. Ông sinh ngày 13-9-1913 
trong một gia đình nhà giáo nghèo tại xã 
Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh 
Long. Thủa niên thiếu, ông là cậu bé 
ham học và thông minh nổi tiếng. Mặc 
dù hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, lại 
mồ côi cha từ khi mới 7 tuổi, song với 
tư chất thông minh và sự chăm chỉ, chịu 
khó, cậu bé Lễ luôn luôn đạt kết quả học 
tập xuất sắc toàn diện, nhất là toán và 
các môn tự nhiên. Năm 1926, Phạm 
Quang Lễ thi đỗ hạng ưu vào trường 
Trung học đệ nhất cấp Mỹ Tho, được 
nhận học bổng trong 4 năm học (1926 - 
1930). Năm 1930, Phạm Quang Lễ thi 
đỗ vào Trường Petrus Ký (nay là 
Trường chuyên Lê Hồng Phong, TP Hồ 
Chí Minh) và được học bổng 3 năm liền. 
Năm 20 tuổi (1933), Phạm Quang Lễ đã 
trở thành thủ khoa cả tú tài bản xứ và tú 
tài Tây. Nhưng Phạm Quang Lễ không 
ra Hà Nội để học tiếp mà đi làm ở Tòa 
sứ Mỹ Tho, hy vọng sẽ du học để thực 
hiện hoài bão còn đang ấp ủ. Tình cờ, 
Phạm Quang Lễ nhận được sự giúp đỡ 
của ông Vương Quang Ngưu - một nhà 
báo Việt kiều yêu nước từ Pháp về. Ông 
Ngưu đã vận động để Phạm Quang Lễ 
được nhận một năm học bổng của Hội Ái 
hữu Trường Chasseloup Laubart (Pháp). 
Nếu thi đậu đại học sau một năm học tại 
đây, Chính phủ Pháp sẽ tiếp tục cấp học 
bổng(2). Tháng 9-1935, Phạm Quang Lễ 
sang Pháp du học khi tròn 22 tuổi. 
(*) Thạc sĩ, Viện Quan hệ quốc tế, Học viện 
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 
(1) Nguyễn Văn Đạo (chủ biên) (2006), Ba nhà 
khoa học kiệt xuất (Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang 
Bửu, Lê Văn Thiêm), Nxb Lao động, Hà Nội. 
(2) Lê Bảo Trung, "Ông vua" vũ khí Việt Nam 
Trần Đại Nghĩa,  
Sukien/phongsu/Ong-vua-vu-khi-Viet-Nam-
Tran-Dai-Nghia-1/2007/12/210749.vip 
Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường 
 105
"Ít ai biết rằng, từ nhỏ Phạm Quang 
Lễ đã nuôi mộng... chế tạo vũ khí"(3). 
Nghiên cứu lịch sử nước nhà, ông nhận 
ra rằng muốn tổ chức lực lượng đánh 
thắng kẻ thù thì vũ khí là yếu tố hết sức 
quan trọng. Những cuộc khởi nghĩa giai 
đoạn trước đó thất bại phần lớn là do 
chúng ta chưa trang bị đủ vũ khí, lại vừa 
quá thô sơ. Vì thế, Phạm Quang Lễ có 
một niềm đam mê và nung nấu ước mơ 
sẽ chế tạo vũ khí phục vụ sự nghiệp giải 
phóng đất nước. 
Cơ hội du học đã thành hiện thực, 
nhưng lúc bấy giờ, ngành học này chỉ 
dành cho sinh viên người Pháp. Sau này 
ông kể lại: "Công việc chẳng phải là 
giản đơn. Không một nước nào trên thế 
giới lại ngớ ngẩn công bố các tài liệu kỹ 
thuật quân sự. Đế quốc Pháp đâu phải là 
điên đến mức để cho một người Việt 
Nam, kể cả những kẻ đã vào "làng Tây", 
được đến học ở các trường dạy về vũ 
khí hay vào làm ở các viện nghiên cứu, 
các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì thế, 
trong 11 năm đằng đẵng ấy, tôi chỉ có 
thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, 
đơn độc và bí mật hoàn toàn..."(4). Bởi 
vậy, ông phải đi con đường vòng là 
chọn học ở các trường khoa học kỹ 
thuật, có những ngành liên quan đến 
hoài bão của mình. Sau một năm học dự 
bị, ông thi đỗ xuất sắc vào Trường Đại 
học Cầu đường Pari và được học bổng 
toàn phần của Chính phủ Pháp. Cùng 
thời gian đó, ông còn học thêm ở 
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Paris và 
Trường Đại học Sorbonne. 
Ngoài thời gian đi nghe giảng ở các 
lớp, Phạm Quang Lễ tham gia tất cả các 
giờ thực nghiệm, điền dã của trường, các 
dịp thực tập ở xí nghiệp, nhà máy... Toàn 
bộ thời gian còn lại ông dành để đi thư 
viện tìm đọc sách, nghiên cứu tài liệu về 
thiết kế, chế tạo vũ khí. Tuy nhiên, ngay 
cả ở Pháp, tài liệu về lĩnh vực này cũng 
rất hiếm. Vì vậy, ông tự học tiếng Đức để 
có thể đọc tài liệu, tìm hiểu thêm về vũ 
khí của Đức - nước có nền công nghiệp 
khoa học kỹ thuật quân sự phát triển nhất 
thời đó. Sau này, ông tiếp tục tự học và 
thông thạo thêm 3 ngoại ngữ khác là 
Anh, Nga, Trung Quốc. Với sự thông 
minh bẩm sinh và niềm say mê khoa học, 
Phạm Quang Lễ đều đạt kết quả xuất sắc 
các môn học ở các trường.(3) 
Năm 1940, Phạm Quang Lễ đã nhận 
gần như cùng một lúc ba bằng: Kỹ sư 
cầu đường, Kỹ sư điện và Cử nhân toán. 
Sau đó, ông còn học tiếp và nhận thêm 
ba bằng kỹ sư khác ở các ngành: Hàng 
không, Mỏ - Địa chất và Chế tạo máy. 
Ông đã làm việc tại Hãng điện khí 
Thomson rồi Viện Nghiên cứu chế tạo 
máy bay và vũ khí của Pháp năm 1939. 
Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong 
Xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên 
cứu vũ khí, kỹ thuật hàng không. Sau đó 
ông trở lại Pháp làm việc ở một hãng 
nghiên cứu chế tạo máy bay của Pháp, 
rồi ở Công ty Sud Avion. Thời gian này 
(3) Vân Thiên, Chuyện chưa kể về Giáo sư, viện 
sĩ Trần Đại Nghĩa, Phunutoday.vn - 24/01/2012 
04:39 
(4) Giáo sư Viện sĩ Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học 
của nhân dân, www.hanoiparis.com/construct.php? 
page...23... Cached Translate this page 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 106
ông bắt đầu tham gia Hội Việt Nam ái 
hữu. Suốt 11 năm bền bỉ, âm thầm 
nghiên cứu, thông qua các mối quan hệ 
trong quá trình làm việc ở các nơi như 
Viện Nghiên cứu vũ khí, xưởng chế tạo 
vũ khí, máy bay... ở Pháp và ở Đức, ông 
lặng lẽ tìm kiếm các bí mật quân sự, các 
bản thiết kế vũ khí. Kết quả của sự lao 
động miệt mài đó là hơn 30.000 trang tài 
liệu ghi chép về chế tạo vũ khí, hầu hết 
là "tuyệt mật"(5). 
2. Nhà khoa học trẻ tài năng và 
uyên bác 
Tháng 9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
sang Pháp với mục đích thương thuyết 
Bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet. 
Được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông 
đề đạt nguyện vọng theo Người về nước 
để thực hiện ước mơ ấp ủ, biến những 
kiến thức mà ông đã tích lũy được trong 
11 năm ở xứ người thành hiện thực để 
phục vụ sự nghiệp cứu nước của dân 
tộc. Nguyện vọng ấy được chấp thuận. 
Tài sản, của cải của ông tích cóp hơn 
mười năm trời ở nước ngoài ông mang 
theo khi trở về Tổ quốc là "một tấn sách 
và tài liệu được đóng hòm, dán nhãn 
"ngoại giao"(6). 
Tháng 12 năm 1946, ông được Chủ 
tịch Hồ Chí Minh giao cho trọng trách: 
Cục trưởng Cục Quân giới - Bộ Quốc 
phòng (nay là Tổng cục Công nghiệp 
Quốc phòng Việt Nam) kiêm Giám 
đốc Nha nghiên cứu Quân giới - Bộ 
Tổng Tư lệnh Quân đội (nay là Viện 
Khoa học và Công nghệ Quân sự). 
Cũng từ đây, cái tên Trần Đại Nghĩa 
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh. 
Người nói: “Việc của chú làm đây là 
việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên 
cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí 
danh này còn là để giữ bí mật cho chú 
và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở 
trong Nam”. Người giải thích ý nghĩa 
của việc đặt tên: “Một là, họ Trần là họ 
của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, 
Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến 
nhiệm vụ của mình với nhân dân, với 
đất nước. Đại Nghĩa còn là chữ của 
Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo"(7). 
Từ đó, cái tên Trần Đại Nghĩa đã gắn 
với ông trọn đời. 
Ước mơ, hoài bão tưởng như lãng 
mạn thời trai trẻ đã trở thành hiện thực. 
Những kiến thức mà ông âm thầm 
nghiên cứu, tích lũy giờ được trải 
nghiệm. Điều đáng nói ở đây là ước mơ, 
hoài bão đó được thực hiện trong hoàn 
cảnh vô cùng khó khăn, khắc nghiệt của 
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm 
của dân tộc. Phương tiện trong tay là 
con số không. Để nghiên cứu chế tạo vũ 
khí, ông sử dụng vũ khí thu được của kẻ 
thù, những vũ khí đó trên thế giới cũng 
chỉ mới xuất hiện một, đôi lần ở một vài 
nước. Hơn thế, việc sản xuất thử nghiệm 
những vũ khí hiện đại trong điều kiện 
vật chất hết sức nghèo nàn, đơn giản, 
thô sơ. Ví dụ: lớp vỏ đồng của đầu đạn 
(5) Hàm Châu, Trần Đại Nghĩa - nhà bác học, vị 
tướng, người anh hùng, Sài Gòn giải phóng, 
21/8/2005. 
(6) Như trên. 
(7) Gia Huy, "Trần Đại Nghĩa - Người đặt nền 
móng công nghiệp quốc phòng Việt Nam", Báo 
Công an nhân dân, ngày 10/02/2011. 
Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường 
 107
được thay bằng thép do công nhân ta 
tiện trên máy tiện thô sơ, thuốc phóng 
của Mỹ được thay bằng thuốc đạn đại 
bác của Pháp... Nhưng càng trong gian 
khó, tài năng về chế tạo vũ khí của Trần 
Đại Nghĩa càng sáng tỏa. 
Đầu năm 1947, dưới sự chỉ đạo kỹ 
thuật của ông, xưởng quân giới của ta 
đóng ở Phú Lương (Thái Nguyên) đã 
chế tạo thành công Súng Bazoka có sức 
công phá lớn. Đây là một loại vũ khí 
chủ yếu dùng đánh xe tăng, tàu chiến 
thời đó, đã làm cho quân địch bàng 
hoàng, sửng sốt. Sau này, Bazoka còn 
được bộ đội ta sử dụng để phá hủy lô 
cốt, ôtô và dùng thay thế lựu đạn ở 
những tập trung đông lực lượng địch. 
Năm 1949, ông cùng với các cộng sự 
(như Nguyễn Minh Tiếp, Hoàng Đình 
Phu, Bùi Minh Tiêu, Phạm Đồng Điện...) 
nghiên cứu và chế tạo thành công Súng 
SKZ (súng không giật) 50mm, đầu đạn 
cỡ 160mm. Đây là loại súng rất nhẹ, có 
thể vác trên vai nhưng sức công phá rất 
lớn dùng để bắn vào những pháo đài 
kiên cố, đầu đạn xuyên thủng lớp bêtông 
dầy hàng mét. Cũng trong năm này, loại 
vũ khí tiêu biểu thứ ba mà ông nghiên 
cứu và chế tạo thành công là Đạn bay 
(hay Bom bay), chỉ nặng 30kg nhưng có 
thể đánh phá các mục tiêu ở cách xa 
4km. Ngoài ra còn các loại đạn chống 
tăng AT chuyên dùng để bắn xe bọc 
thép; đạn súng cối cỡ 40mm (kiểu của 
Nhật sản xuất), đạn súng cối cỡ 50,8mm 
(kiểu của Anh sản xuất). Ngoài ra còn 
có các loại súng lớn, súng phóng bom, 
các loại mìn nổ chậm, v.v.. Những vũ 
khí với thương hiệu “made in Vietnam”, 
“made by Tran Dai Nghia” đã gây cho 
kẻ thù biết bao sửng sốt, bất ngờ, khiếp 
vía, kinh hoàng... Dư luận trong giới vũ 
trang, quân sự quốc tế cũng vô cùng 
ngạc nhiên, thán phục. Bởi trong lịch sử 
chiến tranh thế giới, súng bazoka mới 
chỉ xuất hiện lần đầu tiên ở Thế chiến 
thứ hai, vào năm 1943, là loại vũ khí 
đáng sợ đối với nhiều đơn vị quân đội(8); 
súng không giật SKZ là loại vũ khí tối 
tân, mới xuất hiện lần đầu trong trận 
quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa (Nhật 
Bản) cuối Chiến tranh Thế giới thứ 
hai(9); còn đạn bay (hay bom bay) của 
Việt Nam là một loại vũ khí mới, có tên 
gọi khiêm nhường nhưng có sức công 
phá khủng khiếp, vượt trội cả loại bom 
V1, V2 của Đức sản xuất trong Chiến 
tranh thế giới thứ II. Một đất nước vừa 
thoát khỏi cảnh thuộc địa nửa phong 
kiến như Việt Nam bấy giờ mà đã chế 
tạo thành công những loại vũ khí hiện 
đại này; đó quả thật là điều không thể 
ngờ đến của thực dân Pháp nói riêng, 
của giới quân sự thế giới nói chung. Nó 
đã đánh dấu mốc son trong ngành Quân 
giới và trở thành huyền thoại lịch sử 
Việt Nam. 
Những công trình khoa học kỹ thuật 
chế tạo vũ khí trên đây thực sự là những 
kỳ tích của Trần Đại Nghĩa và các cộng 
sự của ông. Các công trình này đã đóng 
(8) Lê Bảo Trung, "Ông vua" vũ khí Việt Nam 
Trần Đại Nghĩa, tài liệu đã dẫn. 
(9) Hàm Châu, Trần Đại Nghĩa - nhà bác học, vị 
tướng người anh hùng, tài liệu đã dẫn. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 108
góp vào việc giải quyết lý thuyết và thực 
nghiệm các vấn đề về cơ khí, mang tính 
sáng tạo cao, phù hợp với điều kiện vật 
chất và kỹ thuật của Việt Nam lúc bấy 
giờ, góp phần quan trọng vào việc tăng 
cường hoả lực cho bộ binh của ta. Điều 
đó đã góp phần làm lay chuyển cục diện 
tình hình chiến sự, tạo đà cho những 
thắng lợi vang dội. Sau này, trong cuốn 
sách "Chiến tranh Đông Dương" xuất 
bản tại Paris năm 1963, ký giả Lucien 
Bodart viết: "Cái thứ gây khó khăn cho 
chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bêtông 
dày 60cm là những quả đạn SKZ. Chỉ 
cần vài quả là đã tiêu diệt được lôcốt 
của chúng tôi"(10). Các công trình nghiên 
cứu của ông được quốc tế đánh giá cao, 
được ứng dụng rộng rãi trong Quân đội 
Nhân dân Việt Nam và luôn là nỗi kinh 
hoàng của đối phương. 
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu 
nước, Trần Đại Nghĩa đã góp phần 
không nhỏ trong việc tìm biện pháp 
chống nhiễu của máy bay B-52 và nâng 
cấp độ bay cao của tên lửa CAM-2 để tổ 
chức phòng không hiệu quả nhất. Ông 
cũng có công rất lớn trong việc tìm biện 
pháp phá hệ thống thủy lôi của địch và 
chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho 
bộ đội đặc công. Ông còn góp phần 
không nhỏ trong việc cải tiến thành 
công nhiều vũ khí quan trọng khác, phù 
hợp với điều kiện chiến trường của ta 
như: dàn hỏa tiễn Cachiusa của Liên Xô 
từ nặng, cồng kềnh, phải có xe kéo 
thành gọn nhẹ, từng người có thể mang 
vác được nhưng vẫn đảm bảo công 
năng. Bên cạnh đó, ông cùng các đồng 
nghiệp không ngừng nghiên cứu, chế tạo 
được nhiều loại vũ khí, khí tài đặc biệt 
phục vụ những hoạt động chiến đấu hết 
sức phức tạp của Binh chủng Đặc công 
khi phải chiến đấu với tàu chiến của 
địch ngoài khơi như vũ khí chống cá 
mập, tia hồng ngoại, ra đa, siêu âm, thủy 
lôi Aps, rồi các biện pháp chống bom từ 
trường, chống bom bi, bom lade, mìn lá, 
"cây nhiệt đới", lựu đạn vi điện tử... Đặc 
biệt, loại xe phóng từ trường từ xa của 
ông ra đời đã chấm dứt tình trạng những 
đoàn xe vận tải chi viện cho chiến 
trường miền Nam bị phá hủy bởi bom từ 
trường của Mỹ, việc vận chuyển được 
an toàn hơn, giảm được rất nhiều thiệt 
hại cho quân và dân ta.(10) 
Với những đóng góp to lớn của ông 
cho ngành quân giới nước nhà, Đại 
tướng Võ Nguyên Giáp tặng ông danh 
hiệu "Ông Phật làm súng". Chủ tịch Hồ 
Chí Minh, trong một bài báo ký tên C.B, 
đã viết: "Anh hùng lao động Trần Đại 
Nghĩa là một đại trí thức, mang một lòng 
nhiệt thành về phụng sự Tổ quốc, phục 
vụ kháng chiến". 
Ngày 20/11/1948, ông được phong 
quân hàm Thiếu tướng trong đợt đầu 
tiên, khi ấy ông 35 tuổi. Năm 1952, tại 
Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua 
toàn quốc lần thứ nhất, ông là đại biểu 
trí thức được phong danh hiệu Anh hùng 
lao động đợt đầu tiên của Việt Nam. Đó 
cũng chính là năm ông được bầu là Viện 
sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - 
(10) Vân Thiên, Chuyện chưa kể về Giáo sư, viện 
sĩ Trần Đại Nghĩa, tài liệu đã dẫn. 
Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường 
 109
danh vị cao nhất của những người làm 
công tác khoa học. Năm 1996, Giáo sư, 
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã vinh dự được 
nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về 
Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo 
kỹ thuật chế tạo (Bazoca, súng không 
giật SKZ, đạn bay) trong thời kỳ kháng 
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). 
Ông còn được trao tặng Huân chương 
Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công 
hạng nhất... 
Ngày 30-4-1975, ngày giải phóng 
hoàn toàn miền Nam, ông ghi vào sổ tay 
của mình: "Nhiệm vụ của Bác giao cho 
tôi và tập thể các nhà khoa học Việt 
Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa 
học quân sự trong hai cuộc kháng chiến 
đã được hoàn thành. Từ nay đến hàng 
nghìn năm sau chúng tôi xin bàn giao lại 
nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc cho thế hệ 
ngày nay và thế hệ mai sau"(11). 
Khi giữ cương vị Viện trưởng Viện 
Khoa học Việt Nam, Trần Đại Nghĩa 
đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi 
dưỡng, phát hiện tài năng khoa học và 
phát triển đội ngũ khoa học, xây dựng 
cơ sở vật chất để không ngừng phát triển 
Viện. Nguyên tắc mà ông đưa ra để 
thành lập một đơn vị nghiên cứu là: phải 
có nhiệm vụ và đề tài nghiên cứu; có 
cán bộ đầu ngành; có trang thiết bị cần 
thiết và có cơ sở vật chất. Từ nguyên tắc 
đó, căn cứ nhu cầu nghiên cứu thực tế, 
nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học 
trong Viện đã được thành lập, các lĩnh 
vực nghiên cứu ngày càng được mở 
rộng, phong phú, đa dạng, tạo tiền đề để 
Viện có những bước phát triển ngày 
càng mạnh mẽ và quy mô. Bên cạnh đó, 
trong chỉ đạo nghiên cứu khoa học, ông 
luôn đề cao nguyên tắc bảo đảm tính 
ứng dụng. Theo ông, nghiên cứu khoa 
học phải nhằm phục vụ cuộc sống và sự 
phát triển của xã hội, trước mắt tập 
trung phục vụ sản xuất, trong đó, sản 
xuất nông nghiệp là chủ đạo. Giữa năm 
1980, với tư cách là Chủ tịch Ủy ban 
Nghiên cứu vũ trụ Việt Nam phối hợp 
với Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, 
Trần Đại Nghĩa cùng với Nguyễn Văn 
Hiệu đã trực tiếp nghiên cứu, xây dựng 
chương trình khoa học cho chuyến bay 
vào vũ trụ của Phạm Tuân, đưa Việt 
Nam trở thành quốc gia đầu tiên của 
Châu Á và là nước thứ 8 trên thế giới có 
người bay vào vũ trụ, có khả năng tiếp 
cận với khoa học vũ trụ hiện đại.(11) 
Có thể thấy, từ năm 1975 đến năm 
1983, Trần Đại Nghĩa cùng với tập thể 
lãnh đạo Viện đã có những nỗ lực to 
lớn, lãnh đạo Viện Khoa học Việt Nam 
vượt lên những khó khăn, tổn thất 
chung của đất nước khi vừa trải qua 
cuộc chiến tranh, đạt được không ít 
thành tựu nghiên cứu khoa học, không 
ngừng xây dựng và phát triển để trở 
thành trung tâm nghiên cứu khoa học 
lớn nhất đất nước. 
Trong suốt cuộc đời cống hiến cho 
khoa học, ông luôn được Chủ tịch Hồ 
Chí Minh và Đảng đặc biệt tin tưởng, 
giao nhiều chức vụ quan trọng. Trong 
quân đội ông từng giữ các chức vụ: Cục 
trưởng Cục Quân giới, Cục trưởng Cục 
Pháo binh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục 
(11) Giáo sư Viện sĩ Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa 
học của nhân dân, tài liệu đã dẫn. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 110
Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ 
thuật. Khi chuyển sang lĩnh vực dân sự, 
ông giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ 
Công thương, Thứ trưởng Bộ Công 
nghiệp nặng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến 
thiết cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy 
ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, 
Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, 
Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học 
Bách khoa Hà Nội, Chủ tịch đầu tiên 
của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ 
thuật Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa 
II, III... Ở cương vị nào ông cũng làm 
tròn nhiệm vụ, thể hiện vai trò của của 
một nhà khoa học uyên bác, một người 
luôn học theo tấm gương đạo đức Hồ 
Chí Minh. 
3. Vị tướng bình dị, khiêm nhường 
Cuộc đời của Trần Đại Nghĩa là một 
tấm gương về lối sống giản dị, thanh 
bạch, đồng cam cộng khổ cùng cán bộ, 
chiến sĩ, đồng nghiệp và nhân dân. Ông 
đã cống hiến sức lực và trí tuệ cho 
ngành công nghiệp quốc phòng của Việt 
Nam; góp phần quan trọng vào sự 
nghiệp giải phóng, bảo vệ, xây dựng và 
phát triển đất nước. 
Trong thời kỳ kháng chiến chống giặc 
ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi 
trọng ngành chế tạo vũ khí. Vì vậy, 
Người dành cho Trần Đại Nghĩa đặc 
quyền: khi cần có thể gọi điện hoặc trực 
tiếp đến gặp Người mà không phải thông 
qua bất cứ ai. Người còn quan tâm đến 
cả những thói quen nhỏ của ông và dặn 
người phục vụ: "Chú Nghĩa nghiện thuốc 
lá. Phải nhớ chuẩn bị đủ thuốc lá cho chú 
ấy hút để chú ấy còn nghiên cứu"(12). 
Nhưng vốn rất giản dị, đúng như những 
lời hứa của ông với Hồ Chí Minh khi trở 
về Việt Nam theo cách mạng, ông không 
bao giờ lợi dụng sự quan tâm của Bác để 
mưu lợi cho bản thân. Cũng như việc ông 
không hề phải suy nghĩ, tính toán khi từ 
bỏ cương vị kỹ sư trưởng ở Hãng nghiên 
cứu chế tạo máy bay Concord của Pháp 
với mức lương 5.500 phrăng/tháng, 
tương đương 22 lạng vàng, để theo Bác 
Hồ về Tổ quốc, cống hiến trọn cuộc đời 
mình cho cách mạng. Ông tâm sự: "Đối 
với tôi, việc này rất dễ. Bởi vì tôi đã 
chuẩn bị từ lâu"(13). 
Bà Nguyễn Thị Khánh, phu nhân của 
Trần Đại Nghĩa, kể rằng: khi ông bà 
chuẩn bị tổ chức hôn lễ, "Ông cục phó 
Xuân có bảo anh Nghĩa là viết thư báo tin 
vui cho Cụ Hồ và Tướng Giáp để kiếm 
ít quà làm đám cưới. Nhưng anh Nghĩa 
gạt đi, nói "Người ta bận trăm công ngàn 
việc, chuyện nhỏ thì chớ có quấy rầy"(14). 
Bà còn kể, ông là con người của khoa 
học, "việc duy nhất tồn tại trong đầu ông 
là vũ khí và vũ khí". Có những lúc bà gọi 
ông ra ăn cơm, mà ông không nghe thấy 
gì, cứ ngồi đọc say sưa, mải mê một tài 
liệu hay. Cũng có lần, anh em trong đơn 
vị tìm ông cả ngày không thấy, đến lúc ra 
bờ suối thì thấy ông đang ngồi hý hoáy 
ghi chép, tính toán bên bờ suối quên cả 
thời gian. Là vợ, bà Khánh đã quen với 
(12) Lan Hương, Trần Đại Nghĩa - bỏ mức lương 
20 lạng vàng theo Bác Hồ, phunutoday.vn/.../ 
Tran-dai-Nghia-bo-muc-luong-20-l... Translate 
this page Sep 10, 2012 
(13) Giáo sư Viện sĩ Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa 
học của nhân dân, tài liệu đã dẫn. 
(14) Vân Thiên, Chuyện chưa kể về Giáo sư, 
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, tài liệu đã dẫn. 
Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học kiệt xuất, vị tướng khiêm nhường 
 111
những đêm ông nằm ngủ mà miệng vẫn 
lẩm nhẩm chuyện vũ khí. Có đêm đang 
ngủ, chợt nghĩ ra một công thức nào đó, 
ông bật dậy lấy giấy bút viết lại. Thỉnh 
thoảng bà vẫn phàn nàn và âu yếm gọi 
ông là "ông Nghĩa gàn dở", vì tính ông 
cả đời chỉ biết cống hiến, không bao giờ 
nghĩ đến bản thân mình. 
Mặc dù được giao giữ nhiều chức vụ 
quan trọng, nhưng ông chẳng hề chú ý 
đến chế độ đãi ngộ. Sau kháng chiến 
chống Pháp, trở về Hà Nội, ông bà được 
phân một căn nhà tại số 56, phố Hàng 
Chuối, khá chật chội. Nhiều người muốn 
thắc mắc hộ, nhưng ông gạt đi: "Thế này 
là tốt lắm rồi. Có người còn không có 
nhà mà ở". Cuối những năm 1980, gia 
đình ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí 
Minh sinh sống. Thành phố cấp cho ông 
một căn nhà nhỏ, xây dựng từ trước thời 
kỳ 1975, trong con ngõ trên đường 
Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận. 
Năm tháng qua đi, những nhà xung 
quanh xây cao lên, xây to ra, có nhà bên 
cạnh còn lấn chiếm đất nhà ông, bà nhắc 
ông, ông bảo "kệ người ta, họ thích lấn 
thì cứ cho họ lấn, mình vẫn còn nhà để 
ở". Cũng có lúc bà than phiền với ông vì 
các nhà bên cạnh đều xây cao lên, nhà 
ông bà trở thành thấp hơn, nên mỗi khi 
trời mưa, nước lại ngập nhà, ông cũng 
tặc lưỡi: nhà ngập thì ta tát nước ra chứ 
sao, tát hết lại khô như thường. 
Khi ca ngợi ông, trong một bài báo 
với bút danh C.B, Hồ Chí Minh đã viết: 
"Là một đại trí thức, đi học ở Châu Âu 
đã nhiều năm, mang một lòng nhiệt 
thành về phụng sự Tổ quốc, phục vụ 
kháng chiến, đó là Anh hùng lao động 
trí óc Trần Đại Nghĩa. (...). Kỹ sư Nghĩa 
luôn luôn cố gắng làm đúng lời hứa: 
khắc phục mọi khó khăn, đào tạo nhiều 
cán bộ, đưa những học thức rộng rãi từ 
Châu Âu áp dụng vào điều kiện eo hẹp 
của nước ta. Đồng chí rất giỏi về khoa 
học máy, nhưng lúc thực hành thì không 
"máy móc". Kỹ sư Nghĩa có công to lớn 
trong việc xây dựng quan giới, luôn luôn 
gần gũi, giúp đỡ, dạy bảo và học hỏi anh 
em công nhân, đã thắt chặt được lý luận 
với thực hành"(15). 
Những năm 1990, ở quận Phú Nhuận 
(TP Hồ Chí Minh), người ta thường thấy 
một ông cụ nho nhã, bình dị, khiêm 
cung với một nụ cười hiền hậu, đi một 
chiếc xe đạp đơn sơ. Đó là Giáo sư, 
Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, một nhân vật 
huyền thoại "Ông Phật làm súng", "Ông 
''vua'' vũ khí" trong lịch sử, trái ngược 
với những kỳ tích vĩ đại ông đã làm 
được cho dân, cho nước... Tuy ông có 
vẻ ngoài giản dị, nhân hậu, khiêm 
nhường nhưng ẩn chứa trong ông là một 
nhân cách lớn, một bãn lĩnh, nghị lực 
và trí tuệ khoa học kiệt xuất. 
Ngày nay, ở nhiều nơi như Thủ đô Hà 
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố 
Đà Nẵng... đã có những con đường, con 
phố, con tàu, trường học mang tên Trần 
Đại Nghĩa. Đó là sự ghi nhận và tri ân của 
đất nước, của lịch sử đối với những đóng 
góp của ông cho Tổ quốc. Trần Đại Nghĩa 
sống mãi trong lịch sử kháng chiến vẻ 
vang của dân tộc Việt Nam. 
(15) Hồ Chí Minh, “Dân tộc anh hùng và anh 
hùng của dân tộc”, Báo Nhân dân, số ra ngày 
12-6-1952. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 112

File đính kèm:

  • pdftran_dai_nghia_nha_khoa_hoc_kiet_xuat_vi_tuong_khiem_nhuong.pdf