Tình hình và triển vọng phát triển du lịch Hà Giang trong tiến trình hội nhập

Cùng với sự kiện cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là công viên địa chất toàn cầu, trong

những năm gần đây, du lịch Hà Giang được biết đến là điểm du lịch đầy mới lạ. Song song với

việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa loại hình du lịch, khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch

sẵn có, du lịch Hà Giang đã đạt được những thành quả nhất định trong quá trình phát triển. Các chỉ

tiêu hoạt động ngành như: nguồn khách, doanh thu, lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật, đều tăng

trưởng cả về số lượng và chất lượng. Vấn đề đặt ra đối với tỉnh là cần xây dựng một hệ thống các

giải pháp thiết thực và đồng bộ để phát huy tối đa lợi thế của mình nhằm tăng sức hấp dẫn đối với du

khách, chắp cánh cho du lịch Hà Giang đủ sức vươn lên trong xu thế hội nhập.

pdf 7 trang kimcuc 21360
Bạn đang xem tài liệu "Tình hình và triển vọng phát triển du lịch Hà Giang trong tiến trình hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình và triển vọng phát triển du lịch Hà Giang trong tiến trình hội nhập

Tình hình và triển vọng phát triển du lịch Hà Giang trong tiến trình hội nhập
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH 
HÀ GIANG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP 
 Nguyễn Thị Phương Nga1, Nguyễn Xuân Trường2* 
 1Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc, 2Đại học Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
 Cùng với sự kiện cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là công viên địa chất toàn cầu, trong 
 những năm gần đây, du lịch Hà Giang được biết đến là điểm du lịch đầy mới lạ. Song song với 
 việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa loại hình du lịch, khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch 
 sẵn có, du lịch Hà Giang đã đạt được những thành quả nhất định trong quá trình phát triển. Các chỉ 
 tiêu hoạt động ngành như: nguồn khách, doanh thu, lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật,đều tăng 
 trưởng cả về số lượng và chất lượng. Vấn đề đặt ra đối với tỉnh là cần xây dựng một hệ thống các 
 giải pháp thiết thực và đồng bộ để phát huy tối đa lợi thế của mình nhằm tăng sức hấp dẫn đối với du 
 khách, chắp cánh cho du lịch Hà Giang đủ sức vươn lên trong xu thế hội nhập. 
 Từ khóa: Hà Giang, du lịch, hội nhập. 
ĐẶT VẤN ĐỀ* Lũng Cú - Đồng Văn, cảnh quan đẹp và hùng 
Cùng với sự kiện cao nguyên đá Đồng Văn vĩ của sông Nho Quế và đèo Mã Pì Lèng; chợ 
được công nhận là công viên địa chất toàn vùng cao Hà Giang, chợ tình Khâu Vai, 
cầu, trong những năm gần đây, du lịch Hà những khối núi đất hùng vĩ với những thửa 
Giang được biết đến là điểm du lịch đầy mới ruộng bậc thang nối tiếp nhau ở những huyện 
lạ. Được đánh giá là vùng đất nguyên sơ, miền Tây (Hoàng Su Phì, Xín Mần), đặc biệt 
thuần khiết, còn nhiều bí ẩn thôi thúc sự khám là cao nguyên đá Đồng Văn đã được 
phá của du khách, tỉnh Hà Giang đã bước đầu UNESCO công nhận là Công viên địa chất 
khơi dậy tiềm năng của địa phương và đặt toàn cầu vào ngày 03/10/2010. Từ đây, hình 
 ảnh du lịch Hà Giang đã được quảng bá ra thế 
mục tiêu với nhiều kỳ vọng cho việc phát 
 giới và trong nước. 
triển ngành kinh tế du lịch nơi địa đầu Tổ 
quốc. Với những bước đi ban đầu, cùng với - Sức hấp dẫn của một vùng văn hóa đậm đà 
chính sách đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, bản sắc của cộng đồng các dân tộc. Hà Giang 
đa dạng hóa loại hình du lịch, khai thác hiệu là nơi hội tụ của 22 dân tộc anh em như 
quả tài nguyên du lịch sẵn có, du lịch Hà Mông, Dao, Pu Péo, Tày, Nùng, Pu Péo, Cờ 
Giang đã đạt được những thành quả nhất định Lao, La Chí, Bố Y Những nét văn hóa đặc 
 sắc, hoàn toàn khác biệt so với nhiều địa 
trong quá trình phát triển của mình. Các chỉ 
 phương khác trong vùng cũng như trong cả 
tiêu hoạt động ngành như: nguồn khách, 
 nước, đặc biệt là văn hóa thích ứng và ứng xử 
doanh thu, lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật  
 với môi trường tự nhiên vùng cao nguyên đá 
đều tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. 
 của đồng bào dân tộc. 
NỘI DUNG 
 - Môi trường sống an toàn và ổn định, người 
Những lợi thế của du lịch Hà Giang dân thân thiện. Cộng đồng các dân tộc vùng 
Hà Giang có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát cao đa dạng, đa bản sắc văn hóa, hiếu khách, 
triển du lịch so với cả nước nói chung, các trung thực cùng với sự hấp dẫn của cảnh quan 
tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng, đó là: thiên nhiên tạo nên một môi trường sống thỏa 
- Sức hấp dẫn, mời gọi của địa danh du lịch mái và thư giãn đối với du khách. 
mới trên bản đồ du lịch Việt Nam: Cột cờ - Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Trung ương 
 và địa phương đến phát triển du lịch Hà 
* Tel: 0914 765087 Giang. Theo quy hoạch phát triển du lịch Việt 
 199 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
Nam tầm nhìn đến năm 2030, để tập trung ưu 188.091 lượt khách, năm 2009 đón 250.532 
tiên phát triển các khu du lịch quốc gia, từ lượt khách, năm 2010 đón 301.330 lượt 
năm 2013 đến năm 2015, Tổng cục Du lịch khách, năm 2011 đón gần 330.000 lượt khách 
phối hợp với các địa phương sẽ lập quy và năm 2012 đón 417.809 lượt khách. [3]. 
hoạch cho 10 khu du lịch trọng điểm quốc Khách du lịch quốc tế 
gia, trong đó có Công viên Địa chất Đồng Khách du lịch quốc tế đến Hà Giang du lịch 
Văn (Hà Giang). với mục đích thăm quan vãn cảnh trên cao 
Với điều kiện về tài nguyên du lịch sẵn có, Hà nguyên đá, du lịch mạo hiểm (leo núi, đi 
Giang có nhiều thuận lợi để đa dạng hóa các xuồng cao su khám phá hẻm vực sông Nho 
sản phẩm du lịch, tạo ra các sản phẩm đặc Quế), du lịch nghiên cứu (khám phá cảnh 
thù. Một số sản phẩm du lịch tiêu biểu của Hà quan nguyên sinh, thăm thú hang động), du 
Giang hiện có: (i) Sản phẩm du lịch văn hóa lịch văn hoá (tìm hiểu nếp sống văn hoá bản 
lễ hội gắn với các di tích lịch sử văn hóa, các địa, văn hóa làng bản, chợ vùng cao)... Các 
đặc trưng văn hóa của các dân tộc ít người; năm 2011, 2012, khách du lịch quốc tế tăng 
(ii) Sản phẩm du lịch sinh thái (khu bảo tồn nhanh và đột biến. Số liệu cho thấy, năm 
như Tây Côn Lĩnh, Phong Quang, Du Già, 2000 khách quốc tế đạt 13.796 lượt khách; 
Bát Đại Sơn, Bắc Mê, Khau Ca, rừng nguyên năm 2005 đạt 31.868 lượt khách; năm 2010 
sinh đèo Gió - thác Tiên; các danh thắng như đạt 48.030 lượt khách, chiếm xấp xỉ 20% tổng 
núi Cô Tiên, cổng trời Quản bạ); (iii) Sản số du khách đến Hà Giang; năm 2012 đạt 
phẩm du lịch nghỉ dưỡng gắn với các nguồn 126.859 lượt khách, chiếm hơn 30% trong 
nước khoáng (suối khoáng Thượng Sơn, suối tổng số khách du lịch. 
nước nóng Quảng Ngần (huyện Vị Xuyên), Khách du lịch quốc tế đến Hà Giang đến từ 
suối nước nóng Quảng Nguyên (huyện Xín nhiều nước khác nhau, đông nhất là thị trường 
Mần),(iv) Sản phẩm du lịch cộng đồng (các khách Trung Quốc. Lượng khách từ thị 
bản dân tộc thiểu số với bản sắc văn hóa đặc trường Trung Quốc luôn chiếm từ 89 - 95,5% 
trưng kết hợp môi trường cảnh quan, nghề thủ (năm 2013 khách Trung quốc chiếm hơn 
công truyền thống tạo thành nguồn tài nguyên 97%) ; thị trường truyền thống châu Âu chiếm 
giá trị để phát triển du lịch cộng đồng tỉnh Hà từ 2,5 - 4%; thị trường Úc chiếm 0,3 - 0,4% ; 
Giang); (v) Sản phẩm du lịch mạo hiểm (leo Bắc Mỹ từ 0,1 - 0,23%, ngoài ra còn thị trường 
núi Tây Côn Lĩnh, đi thuyền vượt thác hẻm Trung Đông, Đông Nam Á và các thị trường 
vực sông Nho Quế,...). khác chiếm số lượng không đáng kể. [4] 
Tình hình phát triển du lịch tỉnh Hà Giang Khách du lịch nội địa 
giai đoạn 2000 - 2012 Khách du lịch nội địa đến Hà Giang theo xu 
Thu hút khách du lịch hướng chung tăng nhanh với tốc độ tăng 
Trong hơn 10 năm trở lại đây (2000 - 2012), trưởng trung bình giai đoạn 2000 - 2012 đạt 
hoạt động du lịch Hà Giang bước đầu đạt kết 27%/năm, trong đó nếu chỉ tính cho giai đoạn 
quả đáng khích lệ, đặc biệt là sau năm 2010 2000 - 2010 đạt 34,1%. Số liệu cho thấy, năm 
khi cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận 2000 du lịch Hà Giang đón được 16.440 lượt 
là Công viên địa chất quốc tế đầu tiên ở Việt khách nội địa, năm 2005 đạt 37.450 lượt, năm 
Nam. Lượng khách du lịch đến Hà Giang 2010 đón 253.300 lượt và năm 2012 đón 
không ngừng tăng với tốc độ tăng trưởng được 290.950 lượt. [4] 
khách trung bình năm khá nhanh. Số liệu Mặc dù tốc độ tăng trưởng của lượng khách 
thống kê qua các năm cho thấy năm 2000, Hà du lịch cao trong hơn 10 năm, song so với 
Giang đón được 30.236 lượt khách, năm 2005 một số tỉnh, lượng khách đến Hà Giang bằng 
đón 69.408 lượt khách, năm 2008 đón 1/2 lượng khách của Lào Cai, 1/5 lượng 
200 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
khách của Lạng Sơn (năm 2012). Cả 3 địa Giang thì giai đoạn 2000 - 2012, chi tiêu của 
phương trên cùng là địa phương giáp biên, khách du lịch quốc tế tăng từ 150.000 VND 
tuy nhiên số khách quốc tế đến Lạng Sơn cao (tương đương 10 USD) năm 2000, lên 
hơn gấp hơn 5 lần của Hà Giang, Lào Cai 200.000 VNĐ (tương đương 12 USD) năm 
cũng cao hơn gấp đôi. Điều này cho thấy, khả 2005 và khoảng 500.000 VNĐ (25 USD) năm 
năng thu hút khách của Hà Giang còn lớn, 2010, hiện nay ở mức 650.000 – 730.00 
thúc đẩy ngành du lịch cần có định hướng VNĐ.[2]. Khách du lịch nội địa chi tiêu trong 
 khoảng 80.000 đồng/ngày (năm 2000) lên 
quảng bá, xây dựng các sản phẩm du lịch độc 
 200.000 đồng (năm 2005) và hiện nay khoảng 
đáo, hấp dẫn. 
 500.000 đồng (tương đương 25USD). Khách 
Doanh thu du lịch du lịch chủ yếu chi tiêu nhiều cho các dịch vụ 
Theo số liệu thống kê của ngành du lịch Hà lưu trú (dao động từ 50% - 55%) và ăn uống 
Giang, tổng thu từ du lịch của tỉnh những năm (tỷ lệ này dao động 24% - 25%). [2] 
qua đã có sự tăng trưởng đáng kể. Năm 2000 Nguyên nhân của vấn đề trên là do cơ sở vật 
mới đạt 17 tỷ đồng, năm 2005 đạt 95 tỷ đồng; 
 chất kĩ thuật phục vụ du lịch còn hạn chế, 
năm 2010 đạt 308 tỷ đồng, năm 2012 đạt 327 tỷ 
 chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được nhu 
đồng đạt mức tăng trưởng xấp xỉ 30%/năm. [2] 
 cầu của khách du lịch. Ở một số điểm du lịch, 
Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng với 
 hoạt động dịch vụ gần như không có hoặc 
mức 327 tỷ đồng năm 2012, du lịch Hà Giang 
 hoạt động không có hiệu quả, dẫn đến thời 
chưa khai thác được nhiều mức chi tiêu từ du 
khách. Đến nay, do hoạt động lữ hành và vận gian lưu trú của khách không dài, làm giảm 
chuyển du lịch trên địa bàn Hà Giang còn hạn nguồn thu của ngành. 
chế, nên hầu hết nguồn thu từ hoạt động du Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch 
lịch được thu từ các cơ sở lưu trú du lịch. Căn Trong giai đoạn 2000 - 2012, hệ thống cơ sở 
cứ trên các số liệu tổng thu từ khách du lịch, lưu trú tỉnh Hà Giang đã phát triển với tốc độ 
sau khi trừ chi phí trung gian (lưu trú: 10 - 
 khá nhanh. Năm 2000, cả tỉnh chỉ có 32 cơ sở 
15%; ăn uống: 60 - 65%; vận chuyển du lịch: 
 lưu trú với 264 buồng, thì đến năm 2005 số 
20 - 25%; bán hàng lưu niệm: 5 - 7%; dịch vụ 
khác: 15 - 20), thì khả năng đóng góp GDP cơ sở lưu trú tăng lên 69 cơ sở với 810 buồng, 
của ngành du lịch Hà Giang năm 2000 đạt năm 2010 toàn tỉnh có 100 cơ sở với 1.340 
xấp xỉ 11 tỷ đồng, năm 2005 đạt 62 tỷ, năm buồng, năm 2012 có 111 cơ sở với 1.669 
2010 đạt 200 tỷ và năm 2012 đạt gần 215 tỷ buồng [3]. Tốc độ tăng trưởng trung bình cho 
đồng.[3]. giai đoạn 2000 - 2012 về cơ sở lưu trú du lịch là 
Về chi tiêu của khách du lịch, theo thống kê 11%/năm, về số buồng là 16,6%/năm. Điều đó 
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà chứng tỏ quy mô cơ sở lưu trú ngày càng lớn. 
 Bảng 1: Số lượng khách du lịch của Hà Giang và so sánh với một số địa phương 
 trong vùng giai đoạn 2000 - 2012 (Đơn vị: Lượt khách) 
 Tỉnh Khách du lịch 2000 2003 2005 2007 2010 2012 
 Quốc tế 13.796 23.502 31.868 44.780 48.030 126.859 
 Nội địa 16.440 27.500 37.450 121.060 253.300 290.950 
 Hà Giang Tổng số 30.236 51.002 69.408 165.840 301.330 417.809 
 Quốc tế 60.000 68.000 85.000 85.000 250.000 247.900 
 Nội địa 120.000 475.000 850.000 1.307.000 1.650.000 1.760.660 
 Lạng Sơn Tổng số 180.000 543.000 935.000 1.392.000 1.900.000 2.008.560 
 Quốc tế 141.200 135.000 180.000 223.000 389.007 375.530 
 Nội địa 69.300 245.000 330.000 409.000 499.390 573.080 
 Lào Cai Tổng số 210.500 380.000 510.000 632.000 888.397 948.610 
 Nguồn: Tổng hợp từ [2 ], [3 ] 
 201 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
 Bảng 2: Số cơ sở lưu trú ở Hà Giang và so sánh với một số địa phương 
 trong vùng giai đoạn 2005 – 2012 
 2005 2009 2010 2012 
 Tỉnh Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng Cơ sở Buồng 
 Hà Giang 69 810 98 1.317 100 1.340 111 1.669 
 Cao Bằng 38 597 56 754 66 869 100 1288 
 Lào Cai 235 3.477 335 3.877 348 4.112 369 4.640 
 Vùng TDMNBB 1.281 18.026 1.707 21.765 1.889 24.148 2.298 29.309 
 Nguồn: Tổng hợp từ [3] 
Trong số các cơ sở lưu trú, chủ yếu là cơ sở lao động trong giai đoạn 2000 - 2012 là 
được xếp hạng 1 sao, 2 sao, các khách sạn 3 19,6%. [3] 
sao trở lên chưa có. Năm 2007, Hà Giang có Nguồn nhân lực làm việc du lịch có trình độ 
1 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao, đến năm đại học và trên đại học ở mức độ thấp (Năm 
2012, có 2 khách sạn 2 sao, 8 khách sạn 1 sao. 2000 chiếm 7,5% năm 2005 chiếm 2,3%, năm 
Như vậy, xét về chất lượng cơ sở lưu trú còn 2012 chiếm 5,3% trên tổng số lao động). Lao 
tăng chậm, chủ yếu là các nhà nghỉ với quy động có trình độ cao đẳng và trung học năm 
mô vừa và nhỏ. Số lượng các nhà nghỉ, khách 2000 chiếm 12,5%, năm 2005 chiếm gần 5%, 
sạn còn ít so với nhu cầu của khách, đặc biệt là năm 2012 chiếm xấp xỉ 10%. Số lao động 
chất lượng các cơ sở này còn hạn chế, làm ảnh chưa qua đào tạo nghiệp vụ còn cao, trình độ 
hưởng đến số ngày lưu trú của khách du lịch. nghiệp vụ sơ cấp chiếm số lượng lớn.[2] 
Công xuất sử dụng phòng bình quân đạt 65 - Số lượng lao động được tăng lên hàng năm 
70 %. Tuy nhiên, các cơ sở lưu trú phân bố song chất lượng chuyên môn lại chưa được 
không đồng đều chủ yếu tập trung ở khu vực cải thiện, trình độ ngọai ngữ còn rất thấp, 
thành phố Hà Giang, ở các huyện số lượng chưa đáp ứng yêu cầu của ngành. Số lượng 
còn ít, quy mô nhỏ nên thường xuyên thiếu hướng dẫn viên được cấp thẻ còn thấp, năm 
phòng cho khách du lịch vào các ngày cuối 2012 có 6 hướng dẫn viên được cấp thẻ, trong 
tuần hoặc các ngày lễ hội như các huyện đó có 2 hướng dẫn viên cấp thẻ quốc tế, 4 
Đồng Văn, Mèo Vạc... Trên thực tế, hoạt hướng dẫn viên cấp thẻ nội địa. Như vậy, số 
động du lịch của Hà Giang tập trung vào một hướng dẫn viên có nghiệp vụ đáp ứng được 
số thời điểm nhất định chủ yếu vào tháng 10 yêu cầu còn rất ít, ảnh hưởng lớn đến chất 
đến tháng 3 năm sau. Vào những thời điểm này, lượng dịch vụ du lịch. 
lượng khách du lịch đến Đồng Văn khá đông, Đầu tư phát triển du lịch 
dẫn đến việc thiếu nhà nghỉ cho khách, những 
 Nhờ những chính sách đúng đắn, Hà Giang đã 
thời gian còn lại số phòng trống khá nhiều. 
 huy động được một nguồn vốn ngày càng 
Nhân lực hoạt động trong lĩnh vực du lịch 
 tăng của Nhà nước và tư nhân đầu tư vào phát 
Lao động trong du lịch bao gồm lao động trực triển du lịch, đặc biệt là đầu tư vào các điểm 
tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp du lịch tiềm năng của tỉnh. Năm 1999, tổng số 
là số lao động làm việc trong các công ty lữ vốn đầu tư vào phát triển du lịch là 42,4 tỷ 
hành, khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch 
 đồng, trong đó đầu tư vào các điểm du lịch 
vụ khác. Ở Hà Giang, lao động trực tiếp trong 
 37,5 tỷ đồng (chiếm 88,0% tổng số vốn đầu 
ngành du lịch còn hạn chế chiếm tỷ lệ thấp. 
 tư); năm 2010, tổng số vốn đầu tư vào phát 
Theo số liệu thống kê, năm 2000 cả tỉnh có 
120 lao động trong ngành du lịch, đến năm triển du lịch là 566,0 tỷ đồng, đầu tư vào các 
2005 có 613 lao động, năm 2010 có 1.032 lao điểm du lịch chiếm 90,0% tổng số vốn đầu tư. 
động và năm 2012 có 1.038 lao động trực tiếp Bên cạnh đó, Hà Giang còn đang đầu tư xây 
trong ngành. Tốc độ tăng trưởng trung bình dựng một số công trình vui chơi, giải trí hiện 
202 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
đại có quy mô lớn như: Công viên nước Hà Long - Hà Nội (Hà Nội)Phối hợp với các 
Phương, khu du lịch núi Cấm, khu du lịch Công ty, các tập đoàn du lịch tổ chức xây 
Suối Tiên, Khu vui chơi Thạch Lâm Viên,... dựng sản phẩm du lịch, quảng bá hình ảnh và 
Nhiều điểm du lịch đã được các thành phần con người Hà Giang đến với khách du lịch 
kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư xây dựng, châu Âu. Tăng cường các nội dung quảng bá 
nâng cấp. Tuy nhiên với nguồn vốn còn hạn hình ảnh du lịch về danh lam thắng cảnh, di 
chế cùng với việc thiếu các dự án quy hoạch tích, bản sắc dân tộc Hà Giang trên website 
cụ thể cho từng khu, điểm du lịch nên thực tế của ngành du lịch và website của Công viên 
các điểm du lịch đó chưa được xây dựng hoàn địa chất Đồng Văn. 
chỉnh và chưa khai thác được tiềm năng du Những hạn chế trong phát triển du lịch 
lịch ở đó. Một khâu không kém phần quan 
 - Xuất phát điểm du lịch của Hà Giang quá 
trọng và đang được đầu tư chưa hợp lý chính 
 thấp, cơ s ở vật chất nơi đây vẫn khá nghèo nàn, 
là Hà Giang chưa chú trọng vào xây dựng một 
 chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu t ư , 
số cơ sở sản xuất các mặt hàng lưu niệm như: 
 làm giảm hiệu quả hoạt động của ngành. 
lanh, lụa, tơ tằm, thổ cẩm,... vốn là một trong 
những thế mạnh sẵn có của tỉnh. - Việc quy hoạch và đầu tư du lịch chưa được 
 thực hiện bài bản, vẫn còn mang tính chất 
Công tác Maketing và xúc tiến du lịch 
 phong trào và chưa có chiều sâu, điển hình 
Cùng với Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch, như việc đầu tư xây dựng dàn trải các làng 
trong thời gian qua các cơ quan chức năng và (thôn, bản) văn hóa du lịch tại các huyện, việc 
chính quyền địa phương của tỉnh Hà Giang đã đầu tư các khu vui chơi giải trí ở thành phố 
chú trọng và có nhiều nỗ lực trong công tác Hà Giang rơi vào tình trạng đình đốn. 
Maketing và quảng bá du lịch ở trong nước 
 - Du lịch Hà Giang chưa tạo được bản sắc 
cũng như ở nước ngoài. 
 riêng của mình, sản phẩm du lịch còn nghèo. 
Trong giai đoạn 2006- 2011, ngành du lịch Công tác xúc tiến du lịch chưa được đầu tư 
tỉnh đã tổ chức và tham gia tổ chức các hội đúng mức, hình thức quảng bá chưa phong 
thảo làm việc với cán bộ ngành Trung ương, phú, thiếu tính chuyên nghiệp. Thương hiệu 
các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong và ngoài du lịch cũng chưa được chú trọng xây dựng 
tỉnh nhằm tuyên truyền các chính sách của đúng mức để du khách có ấn tượng. 
tỉnh, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư 
 - Nguồn nhân lực cho ngành du lịch còn thiếu 
vào lĩnh vực hoạt đông kinh doanh du lịch 
 và yếu, chưa thực sự tâm huyết với nghề. 
trên địa bàn tỉnh. Tổ chức được nhiều đoàn 
 Chất lượng đội ngũ làm du lịch còn thấp. 
Famtrip đến khảo sát du lịch tại Hà Giang, 
 Ngoài ra, khả năng ngoại ngữ của đội ngũ lao 
tăng cường xúc tiến du lịch với tỉnh Vân Nam 
 động còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc 
(Trung Quốc). Tích cực tham gia nhiều hội 
 thu hút khách du lịch nước ngoài. 
chợ quảng bá du lịch trong và ngoài nước. 
Năm 2009, tham gia gian hàng quảng bá tại - Việc liên kết phát triển du lịch giữa các địa 
Đồng Mô, trung tâm triển lãm Giảng Võ (Hà phương, các tỉnh lân cận nhằm khai thác đồng 
Nội), hội chợ du lịch Sầm Sơn (Thanh Hóa); bộ các điểm, tuyến du lịch và phát huy thế 
Năm 2010, phối hợp với Trung tâm Văn hóa - mạnh của mỗi địa phương còn yếu, điều này 
Triển lãm tham gia gian hàng hội chợ du lịch ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch Hà 
tổ chức tại đền Hùng, tham gia gian hàng Giang nói riêng và các địa phương trong 
triển lãm Festival sinh viên các dân tộc thiểu vùng nói chung. 
số Việt Nam (Hà Nội), tham dự lễ hội văn - Hà Giang là tỉnh miền núi có nhiều dân tộc 
hóa ẩm thực thế giới Vũng Tàu - Việt Nam, anh em cùng nhau sinh sống, mức sống thấp, 
tham gia liên hoan du lịch quốc tế Thăng trình độ dân trí của đồng bào còn nhiều hạn 
 203 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
chế. Vì vậy nhận thức của đồng bào về du KẾT LUẬN 
lịch còn nhiều bất cập, chưa khai thác, kinh Hà Giang là địa phương có nhiều tiềm năng 
doanh được những sản phẩm du lịch sẵn có ở và lợi thế để phát triển du lịch. Vì thế để khai 
địa phương theo hướng du lịch cộng đồng. thác hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này cần 
TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN có một chiến lược phát triển du lịch. Vấn đề 
 đặt ra đối với tỉnh là cần xây dựng một hệ 
- Xu thế hội nhập quốc tế đem đến nhiều cơ thống các giải pháp thiết thực và đồng bộ để 
hội phát triển cho du lịch cả nước nói chung phát huy tối đa lợi thế của mình. Trong đó, 
và Hà Giang nói riêng. Lượng khách du lịch trước hết là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, 
quốc tế đến Việt Nam và Hà Giang ngày càng cơ sở lưu trú đáp ứng được yêu cầu của khách 
tăng mạnh. Việc gia nhập vào tổ chức WTO du lịch, đồng thời cần nâng cao chất lượng 
đem đến cho Việt Nam nói chung và Hà nguồn nhân lực du lịch; đa dạng hóa sản 
Giang nói riêng nhiều cơ hội tiếp cận với phẩm du lịch dựa trên nguồn tài nguyên du 
những thị trường tiềm năng để thu hút khách lịch. Rà soát và điều chỉnh lại quy hoạch và 
du lịch, đồng thời còn là yếu tố thuận lợi để quản lí quy hoạch du lịch. Tăng cường quảng 
thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực du lịch. bá du lịch để hình ảnh Hà Giang trở nên quen 
 thuộc với mọi người trong và ngoài nước. 
- Công viên đá Đồng Văn được Hội đồng Ngành du lịch cần đầu tư đa dạng hóa sản 
mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu thuộc phẩm du lịch, tăng cường xây dựng mới và 
UNESCO chính thức công nhận là thành viên nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch, đặc 
từ ngày 03/10/2010. Nhận thức của người dân biệt các dịch vụ làm tăng khả năng chi tiêu 
trong việc giữ gìn di sản thiên nhiên và bảo của khách. Thực hiện công tác liên kết phát 
tồn bản sắc văn hóa được nâng lên, hoạt động triển du lịch giữa Hà Giang và các tỉnh Lào 
du lịch, dịch vụ cũng tạo ra nhiều cơ hội việc Cai, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc 
làm và nguồn thu cho nhân dân. Từ đây, hình Kạn, Thái Nguyên. Đồng thời, cần phối hợp 
ảnh du lịch Hà Giang đã được quảng bá ra thế với các ngành liên quan, các doanh nghiệp, xã 
giới và trong nước. hội hóa hoạt động du lịch, tăng sức hấp dẫn 
 đối với du khách, chắp cánh cho du lịch Hà 
- Hà Giang có biên giới tiếp giáp với nước Giang đủ sức vươn lên cạnh tranh trong xu 
bạn Trung Quốc. Do tính chất về vị trí địa lí thế hội nhập. 
này nên Hà Giang có nhiều cửa khẩu như 
Thanh Thủy (đã quy hoạch thành khu kinh tế TÀI LIỆU THAM KHẢO 
cửa khẩu), Săm Pun, Phó Bảng, Xín 1. Đặng Văn Bào và nk (2011), Công viên địa chất 
MầnĐây là một thuận lợi để Hà Giang có cao nguyên đá Đồng Văn- khả năng khai thác cho 
thể mở rộng giao lưu kinh tế và thu hút nguồn phát triển kinh tế và bảo tồn. Kỷ yếu hội thảo 
 khoa học “Vì Hà Giang phát triển”, UBND tỉnh 
khách du lịch từ nước bạn (Trung Quốc). Hà Giang, 2011. 
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá 2. Cục thống kê Hà Giang, Niên giám thống kê Hà 
Đồng Văn cũng đã được Thủ tướng Chính Giang năm 2011,2012. 
phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể bảo tồn, 3. Trung tâm thông tin du lịch - Tổng cục du lịch 
 (2013), Số liệu thống kê chủ yếu ngành du lịch 
tôn tạo và phát huy giá trị giai đoạn 2012-
 giai đoạn 2000 -2012, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
2020 và tầm nhìn 2030” theo Quyết định số 4. UBND tỉnh Hà Giang (2013), Quy hoạch tổng 
310/QĐ-TTg ngày 7/2/2013. Các dự án đầu thể phát triển du lịch Hà Giang đến năm 2020, 
tư của quốc tế và nhà nước bảo tồn và phát định hướng 2030. 
huy giá trị Công viên địa chất Đồng Văn, quy 5. Nguyễn Xuân Trường (2012), Xây dựng chiến 
hoạch khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, các lược Marketing lãnh thổ nhằm thu hút du khách và 
 thúc đẩy phát triển du lịch tỉnh Hà Giang, Kỷ yếu 
làng văn hóa dân tộc, sự cải thiện của hệ Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ VI - 
thống đường giao thông là những cơ hội to Huế, 2012, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 
lớn của Hà Giang trong phát triển du lịch. Hà Nội. 
204 
 Nguyễn Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 199 - 205 
 SUMMARY 
 SITUATION AND PROSPECTS TOURISM DEVELOPMENT 
 OF HA GIANG IN INTEGRATION PROCESS 
 Nguyen Thi Phuong Nga1, Nguyen Xuan Truong2* 
 1Viet Bac High School, 2Thai Nguyen University 
 In recent years, with events Dong Van stone plateau is recognized as a global geological park, 
 tourism of Ha Giang is known to be full of new points. With these initial steps, with the innovation 
 path, complete infrastructure, diversify the types of tourism, exploitation of tourism resources 
 effectively available, tourism of Ha Giang has achieved certain results during its development. The 
 target sector activities such as tourists, revenue, labor, material and technical basis, ... are growing 
 both in number and quality. At issue is the need for the province to build a system of practical 
 solutions and synchronized to maximize their advantage in order to increase the attractiveness for 
 tourists, the tourism of Ha Giang enough rising competition in the integration trend . 
 Key words: Ha Giang, tourism, Integration 
Ngày nhận bài:26/4/2014; Ngày phản biện:27/5/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014 
Phản biện khoa học: ThS. Lê Tiến Dũng – Đại học Thái Nguyên 
* Tel: 0914 765087 
 205 

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_va_trien_vong_phat_trien_du_lich_ha_giang_trong_ti.pdf