Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc

Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn

nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối

tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn

Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên

135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt

Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam

đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000

cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại

học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt

Nam học. Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và

Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất

cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ

là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm

ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những

người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam

tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa,

tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với

con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ

Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm

2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ

hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem

đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng

mới.

pdf 11 trang kimcuc 6460
Bạn đang xem tài liệu "Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc

Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 70 
Tình hình đào tạo tiếng Việt 
và Việt Nam học tại Hàn Quốc 
 Lê Thị Hồng Minh 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
 Lee Kang Woo 
Trường Đại học Chungwoon, Hàn Quốc 
TÓM TẮT: 
Sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao 
Việt-Hàn, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn 
nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối 
tác đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn 
Quốc đầu tư lớn nhất. Hiện có khoảng trên 
135.000 người Hàn đang sinh sống tại Việt 
Nam, và trong số 123.000 người Việt Nam 
đang sống và làm việc tại Hàn, có gần 40.000 
cô dâu Việt. Hiện, Hàn Quốc có 4 trường đại 
học có khoa hoặc bộ môn tiếng Việt hoặc Việt 
Nam học. Tỉ lệ sinh viên ngành Tiếng Việt và 
Việt Nam học ra trường tìm được việc làm rất 
cao. Cung không đủ cầu. Tiếng Việt không chỉ 
là nhu cầu đối với những người Hàn Quốc làm 
ăn sinh sống ở VN, nhu cầu đối với những 
người quản lý và sử dụng nhân công Việt Nam 
tại Hàn Quốc, mà trong tương lai không xa, 
tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ đối với 
con em hàng chục nghìn gia đình Hàn-Việt. Bộ 
Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ năm 
2014, tiếng Việt là một trong 8 ngoại ngữ thứ 
hai thi vào đại học. Chủ trương này đã đem 
đến cho tiếng Việt những cơ hội và triển vọng 
mới. 
Từ khóa: đào tạo, tiếng Việt, tại Hàn Quốc, nhu cầu, triển vọng 
1. Mở đầu 
Sau hơn 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao 
Việt - Hàn1, Hàn Quốc trở thành nước đầu tư lớn 
nhất vào Việt Nam, còn Việt Nam trở thành đối tác 
đứng thứ tư trong số các quốc gia mà Hàn Quốc đầu 
tư lớn nhất. Hiện có trên 135.000 người Hàn đang 
sinh sống tại Việt Nam, và trong số 123.000 người 
Việt Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc, có 
gần 40.000 cô dâu Việt2. Số cô dâu những năm gần 
1 Chúng tôi tính từ khi Đại Hàn dân quốc và Cộng hòa Xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam thiết lập quan hệ đầy đủ ở cấp đại sứ tháng 
12 năm 1992. Còn nếu tính cả quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc 
với riêng Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) trước đó, từ 
tháng 10/1955 đến 1975, thì thời gian này đã là hơn 40 năm. 
2 Trên trang web của Bộ Ngoại giao Việt Nam tại Hàn Quốc, tính 
đến cuối năm 2013, số người Hàn đang sống tại Việt Nam là 
135.000 người. Một thông tin khác cho biết, tính đến đầu năm 
2015, con số này đã tăng lên gần 140.000. Theo thống kê của Bộ 
tư pháp Hàn Quốc tại thời điểm ngày 26/3/2015, số người Việt 
Nam đang sống và làm việc tại Hàn Quốc là 122,744 người và số 
cô dâu Việt là 39,647 người (số liệu do Tổng Lãnh sự quán Hàn 
đây trung bình mỗi năm tăng 7.000 người. Từ 2012, 
Bộ Lao động Hàn Quốc chủ trương tuyển dụng 
thêm mỗi năm 15.000 lao động mới từ Việt Nam 
sang. Như vậy, theo tình hình chung, về cơ bản, số 
công dân của Việt Nam ở Hàn Quốc mỗi ngày mỗi 
tăng và số công dân Hàn Quốc ở Việt Nam cũng là 
một con số rất lớn. Nhịp cầu nối các mối quan hệ 
chính trị, kinh tế, ngoại giao và cả tình cảm, đó 
chính là ngôn ngữ. 
Tiếng Việt không chỉ là nhu cầu đối với những 
người Hàn làm ăn, sinh sống ở Việt Nam mà còn là 
Quốc tại Tp. Hồ Chí Minh cung cấp). Tuy nhiên, theo thông báo 
chính thức của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc ngày 
08/12/2012, khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình 
Minh sang thăm Hàn Quốc, thì số cô dâu người Việt vào thời 
điểm đó đã là gần 50.000 người. Có sự khác nhau giữa 2 con số, 
theo chúng tôi, là do tiêu chí thống kê, bởi có một sự thực là, có 
một số cô dâu sau khi qua Hàn, đã li dị. Một số khác, nay đã có 
quốc tịch Hàn. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 71 
nhu cầu đối với những người quản lý và sử dụng 
nhân công Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong tương lai 
không xa, tiếng Việt sẽ là một nhu cầu không nhỏ 
đối với con em hàng chục nghìn gia đình Hàn - 
Việt, mà số trẻ em ra đời trong những gia đình này 
tính đến cuối năm 2012 đã lên tới con số 35.000. 
Quá trình đào tạo tiếng Việt và ngành Việt Nam 
học ở Hàn Quốc đã có một lịch sử gần 50 năm, 
nhưng có không nhiều bài viết về vấn đề này. Bài 
đầu tiên mà chúng tôi được biết là bài của GS TS. 
Kim Ki Tae “Về việc dạy và học Tiếng Việt tại Hàn 
Quốc” đăng trên Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 /1996, 
của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc 
gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. Bài viết là một 
sự khảo sát khá tỉ mỉ về việc dạy và học tiếng Việt 
tại Hàn trong quá trình hơn 30 năm – từ khi lớp 
tiếng Việt đầu tiên ra đời (1965) cho đến thời điểm 
tác giả viết bài (1996). “Quá trình đó chịu sự chi 
phối khá mạnh của mối quan hệ giữa hai 
nước”(Kim Ki Tae) [2, tr. 60]. Dẫu chỉ dài 3 trang, 
bài viết của giáo sư Kim đã trình bày cặn kẽ về sự 
hình thành các lớp, các khoa tiếng Việt đầu tiên ở 
Hàn với thời gian, không gian, địa điểm, số lượng 
sinh viên, họ tên, học hàm, học vị của đội ngũ giáo 
sư, giảng viên tại Hàn cũng như các giáo sư, giảng 
viên được mời từ Việt Nam qua, và tình hình biên 
soạn giáo trình dạy tiếng Việt ở Hàn Quốc từ 1966 
đến 1996 mà chủ yếu là từ sau năm 1992. 
Bài viết thứ hai ra đời 10 năm sau đó, dài 16 
trang của TS. Nguyễn Văn Phúc và GS. TS. Song 
Jeong Nam “Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn 
Quốc”, đăng trong “Việt Nam học và tiếng Việt”, 
Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Khoa tiếng Việt và Văn 
hóa Việt Nam cho người nước ngoài, Đại học Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và 
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt cho người nước 
ngoài, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006. 
Ngoài phần kế thừa công trình của người đi trước, 
bổ sung thêm một cách chi tiết về tình hình các khoa 
tiếng Việt tại Hàn trong 10 năm kế tiếp (1996-2006), 
bài viết của giáo sư Song và tiến sĩ Phúc còn cung cấp 
một cái nhìn toàn diện, khái quát về quá trình hơn 40 
năm hình thành, phát triển của ngành Việt Nam học và 
tiếng Việt tại Hàn với 3 giai đoạn: trước 1975, từ 
1975-1992 và từ 1992 đến thời điểm bài viết ra đời 
(2006), quy mô, đội ngũ đào tạo, đặc biệt là nội dung 
và phương pháp đào tạo ngành Việt Nam học và tiếng 
Việt của các trường đại học. Đây thực sự là một bài 
viết công phu với sự khảo sát toàn diện cùng những 
nhận xét, đánh giá khá xác đáng về mỗi giai đoạn 
thăng trầm của quá trình đào tạo và phát triển của 
ngành Việt Nam học và tiếng Việt tại Hàn Quốc, trong 
mối quan hệ khắng khít với tình hình phát triển quan 
hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị giữa 2 quốc gia. 
Bài viết của chúng tôi là sự kế thừa 2 bài viết 
trên, đồng thời bổ sung thêm những diễn biến trong 
quá trình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam học tại 
Hàn từ năm 2006 đến nay. Do quá trình phát triển 
40 năm đầu tiên đã có bài viết khá đầy đủ và chi 
tiết, đầy tâm huyết và giá trị khoa học của các giáo 
sư Kim Ki Tae, Song Jeong Nam và TS. Nguyễn 
Văn Phúc, nên chúng tôi không đi sâu vào giai đoạn 
đó, mà chủ yếu phản ánh về thực trạng và triển 
vọng của tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam 
học trong bối cảnh hiện nay ở Hàn Quốc, với những 
sự kiện tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển 
của ngành học này. 
Bài này được chúng tôi thực hiện như một câu 
trả lời cho câu hỏi: “Trong khi mối quan hệ giữa 
Hàn Quốc và Việt Nam phát triển vượt bậc trên tất 
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, văn 
hóa, xã hội thì việc đào tạo tiếng Việt ở Hàn 
Quốc có những chuyển biến gì?” 
Để viết bài, ngoài tham khảo những tài liệu liên 
quan, chúng tôi còn thực hiện phỏng vấn các giáo 
sư của Khoa tiếng Việt Trường Đại học Ngoại ngữ 
Hàn Quốc (Hankuk University of Foreign Studies - 
HUFS) và Trường Đại học Ngoại ngữ Pusan (Pusan 
University of Foreign Studies - PUFS), Trường Đại 
học Chungwoon (Chungwoon University - CWU) 
cũng như các giáo viên của Khoa tiếng Việt Trường 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 72 
Trung học phổ thông Ngoại ngữ Chungnam. Chúng 
tôi cũng tiến hành phát phiếu thăm dò ý kiến đối với 
các sinh viên của Khoa Tiếng Việt Trường Đại học 
Ngoại ngữ Hàn Quốc và Khoa Việt Nam học của 
Trường Đại học Chungwoon. Ngoài ra, để có những 
tài liệu chi tiết của các khoa tiếng Việt và các 
trường đại học, chúng tôi còn tham khảo website 
Daehakalimi của Trung tâm Thông tin Đại học 
thuộc Hội Giáo dục và Đào tạo Đại học Hàn Quốc 
và homepage internet của các khoa và các trường. 
2. Tình hình đào tạo tiếng Việt và Việt Nam 
học tại Hàn Quốc 
2.1. Sự ra đời của các Khoa Tiếng Việt, Khoa 
Việt Nam học và tình hình dạy và học tiếng Việt 
tại Hàn 
 Từ tháng 12 năm 1966, Hàn Quốc đã bắt đầu có 
Khoa Tiếng Việt, thành lập tại trường Đại học 
Ngoại ngữ Hàn Quốc ở Seoul3, khai giảng khóa 
đầu tiên tháng 3/1967 với 20 sinh viên. Trong 6-7 
năm tiếp theo, mỗi năm, khoa tuyển được 50 người. 
Số sinh viên được tuyển vào khoa tăng nhanh là bởi 
có sự tham chiến của lực lượng binh sĩ Hàn Quốc 
tại Nam Việt Nam. 
Khi Việt Nam có những biến động lớn về tình 
hình chính trị, “năm 1973, Hiệp định Paris được ký 
kết, quân đội và các xí nghiệp Hàn Quốc rời khỏi 
Nam Việt Nam, Khoa Tiếng Việt HUFS gặp nhiều 
khó khăn trong việc đào tạo”(Kim Ki Tae) [5, tr. 
61], việc học tiếng Việt không còn được chú ý 
nhiều nữa. 
3 Khi đó, trường Ngoại ngữ Hàn Quốc còn đang là trường cao 
đẳng. 
Nếu tính chính xác thì, theo GS TS. Kim Ki Tae, Hàn Quốc đã 
có lớp tiếng Việt đầu tiên từ tháng 1/1965 do Cơ quan Tình báo 
Quân đội Hàn Quốc (MIG) tổ chức cho 5 sĩ quan cấp úy, nhằm 
đào tạo họ trở thành giảng viên dạy tiếng Việt cho những quân 
nhân có nhiệm vụ phân tích tình hình chiến tranh ở Việt Nam. 
Cũng trong năm 1965, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) Hàn 
Quốc mở lớp đào tạo giảng viên tiếng Việt. Tháng 9/1966, 
Trường Huấn luyện CIA Hàn Quốc chính thức mở Khoa Tiếng 
Việt, khóa đầu (9/1966-3/1967) có khoảng 20 học viên, là nhân 
viên CIA và các sĩ quan quân đội thuộc nhiều binh chủng khác 
nhau. Khoa đào tạo được 2 khóa thì kết thúc hoạt động vào 
tháng 12 /1967 [5, tr. 60]. 
Năm 1975, Việt Nam thống nhất. Do khác biệt 
về hệ thống chính trị, quan hệ Việt Nam - Hàn 
Quốc đã bị đóng băng. Từ năm 1975, mỗi năm, 
trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc (ĐHNN Hàn 
Quốc) chỉ còn tuyển được 20 sinh viên. 
Chỉ khi quan hệ 2 nước bắt đầu ấm dần lên, 
tiếng Việt mới được chú ý trở lại. Tháng 3/1991, 
tức 25 năm, kể từ ngày Hàn Quốc có Khoa tiếng 
Việt đầu tiên, thì Khoa Tiếng Việt thứ hai mới được 
thành lập tại trường Đại học Ngoại ngữ Pusan 
(ĐHNN Pusan), hàng năm tuyển 40 sinh viên. 
Riêng giai đoạn 2003-2010 tuyển 50 em4. Cũng từ 
năm 1991, số lượng sinh viên tuyển hàng năm của 
ĐHNN Hàn Quốc đã tăng lên là 30 người. 
Năm 1992, Việt Nam và Hàn Quốc chính thức 
nối lại quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ, các quan hệ 
song phương không ngừng được thúc đẩy, phát 
triển, đặc biệt là các quan hệ kinh tế và văn hóa. Vì 
vậy, chỉ trong vòng 6 năm, đã có sự ra đời của Bộ 
môn Tiếng Việt ở Đại học Youngsan, thành phố 
Pusan với số sinh viên ban đầu là 30 – năm 1995, 
và Khoa Việt Nam học của Đại học Chungwoon, ở 
Chungnam với 40 sinh viên – năm 19985. 
Như vậy, từ năm 1998, Hàn Quốc đã có 4 
trường đại học có Khoa Tiếng Việt hoặc Khoa Việt 
Nam học hay Bộ môn tiếng Việt đào tạo sinh viên 
chính quy. Giáo viên của các trường đào tạo tiếng 
Việt hoặc Việt Nam học chính quy hiện nay hầu hết 
đều có học hàm học vị giáo sư, phó giáo sư hoặc 
tiến sĩ. Đội ngũ giáo viên thỉnh giảng, ít nhất, cũng 
có bằng thạc sĩ. 
4 Các thông tin về HUFS và PUFS do giáo sư Jeon Hye Kyung, 
Trưởng Khoa Tiếng Việt, ĐHNN Hàn Quốc và giáo sư Bae 
Yang Soo, Trưởng Khoa Tiếng Việt, ĐHNN Pusan cung cấp. 
5 Tiền thân của Bộ môn tiếng Việt ở Trường Đại học Young san 
là Khoa tiếng Việt của Trường Cao đẳng Ngoại ngữ Sungsim. 
Trường cao đẳng này sau sát nhập vào trường Đại học 
Youngsan, chuyển thành hệ 4 năm. Theo GS TS. Song Jeong 
Nam và TS. Nguyễn Văn Phúc, Khoa Tiếng Việt của Sungsim 
được thành lập tháng 12/ 1993, sau đổi tên thành Khoa Thương 
mại khu vực Việt Nam, mỗi năm tuyển sinh 80 sinh viên, thời 
gian đào tạo là 2 năm. Còn Khoa Việt Nam học của Đại học Xí 
nghiệp Chungnam có quyết định thành lập tháng 12/1997 và khai 
giảng khóa đầu tiên vào tháng 3/1998 [7, tr. 366]. Trường đại 
học này nay gọi là Đại học Chungwoon. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 73 
Bảng 1. Tình hình các Khoa tiếng Việt và Việt 
Nam học tại Hàn Quốc hiện nay 
 ĐHNN 
HànQuốc 
ĐHNN 
Pusan 
ĐH 
Youngsan 
ĐH 
Chungwoon 
Khoa Khoa 
TiếngViệt 
Khoa 
Tiếng 
Việt6 
Bộ môn 
Tiếng Việt 
Khoa 
Việt Nam 
học 
Năm 
thành 
lập 
1967 1991 1995 1998 
Vị trí Seoul Tp. 
Pusan 
Tp. Pusan Tỉnh 
Chungnam 
Số 
sinh 
viên 
30 40 30 40 
Giáo 
viên 
3 Hàn 
2 Việt 
3 Hàn 
2 Việt 
1 Hàn 
1 Việt 
4 Hàn 
1 Việt 
(Tham khảo website của 4 trường) 
Ngoài các trường trên, còn có trường ĐH Liên 
hiệp ASIA, trong Khoa ASIA học, cũng có lớp dạy 
tiếng Việt với hình thức đào tạo không chính quy, 
số lượng sinh viên không ổn định [7, tr. 367-368]. 
Hiện nay, tại ĐH Quốc gia Seoul (Seoul National 
University) có một lớp học tiếng Việt. Rải rác tại 
một số trường đại học khác, chẳng hạn ĐH Goryeo 
(Korea University), cũng có lớp học môn tiếng Việt 
như một bộ môn tự chọn. Một số trường đại học của 
Pusan, trong khối đại cương, có môn tiếng Việt là 
môn tự chọn, nhưng việc tổ chức dạy ở các trường 
này không thường xuyên, năm có lớp, năm không, 
một phần do tuyển sinh, phần khác do không có đội 
ngũ giáo viên ổn định, vì các trường yêu cầu giáo 
sư giảng dạy phải là tiến sĩ. Còn ở ĐH Chosun thì 
có một số sinh viên Khoa Tiếng Anh chọn học tiếng 
Việt như ngoại ngữ thứ hai, và ở ĐH Kyungsung 
cũng có một nhóm sinh viên học tiếng Việt, chủ yếu 
với mục đích qua Việt Nam thực tập trong các công 
ty thương mại. 
6 Trước đây, Khoa Tiếng Việt của Đại học Ngoại ngữ Pusan là 
một khoa độc lập. Nhưng từ đầu năm 2015, Khoa Tiếng Việt đã 
gộp chung với các khoa tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Campuchia, 
tiếng Myanmar, tiếng Malaysia-Indonesia thành Khoa Đông 
Nam Á học (Faculty of Southest Asian Studies), trong đó, tiếng 
Việt gộp với tiếng Campuchia thành một ngành của khoa này. 
Trong bài viết, chúng tôi vẫn gọi là “Khoa Tiếng Việt” do các cứ 
liệu được sử dụng cho bài này đều được lấy từ khi khoa còn 
mang tên là Khoa Tiếng Việt. 
Bên cạnh hệ chính quy, Trường ĐHNN Hàn 
Quốc ở cả cơ sở 1 (tại Seoul) và cơ sở 2 (tại 
Yongin) đều có các lớp dạy tiếng Việt cho nhân 
viên các công ty Hàn Quốc theo đơn đặt hàng của 
các công ty. Các lớp này hoạt động quanh năm. Mỗi 
cơ sở có 2 giáo viên người Việt tham gia giảng dạy. 
Học viên cơ sở 2 phần lớn là nhân viên của Tập 
đoàn Samsung. Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam 
Á của Đại học Sokang hiện nay cũng có lớp dạy 
tiếng Việt, chương trình ngắn hạn 12 tuần 1 khóa. 
Ngoài các trường đại học, hiện, tại Seoul có ít 
nhất 6 trung tâm ngoại ngữ của tư nhân có lớp dạy 
tiếng Việt: Usimedu, Eurasia, Romongtu (2 cơ sở), 
LABS, Shin Jung Seong tập trung nhiều nhất ở 
khu Kangnam và Jungro. Pusan có vài trung tâm. 
Một số nơi khác, chẳng hạn Cheonan, trong Trung 
tâm giáo dục Shishajulkang, cũng có lớp tiếng 
Việt Các trung tâm này thường mời học viên cao 
học người Việt tham gia giảng dạy. Học viên ở mỗi 
trung tâm có từ vài người đế ... 96 quốc gia đang đầu tư vào 
Việt Nam. Đến đầu năm 2015, Hàn Quốc đã vươn 
lên vị trí dẫn đầu, với 3920 dự án đầu tư của doanh 
nghiệp Hàn Quốc được cấp phép vào đầu tư tại Việt 
Nam, và số vốn là 372 tỉ USD. Hàn Quốc hiện cũng 
là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam (sau 
Trung Quốc, Mỹ, Nhật). Và, “Theo Cục đầu tư 
nước ngoài, hầu hết các tập đoàn doanh nghiệp lớn 
của Hàn Quốc đã đầu tư và kinh doanh có hiệu quả 
tại Việt Nam, như Samsung, Kumho, GS, Posco, 
LG,CJ”(Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online , ngày 
6/6/2012). Thị trường Việt Nam đang được xem là 
điểm đến đầu tư hấp dẫn. Tập đoàn Samsung có 8 
nhà máy trên thế giới thì 2 trong số đó được xây 
dựng ở Việt Nam, Tập đoàn Daekwang có 3 nhà 
máy lớn Và, như trên đã nói, số người Hàn Quốc 
đang sống và làm việc tại Việt Nam hiện đã trên 
135 nghìn người. Số người Hàn qua lại Việt Nam 
hàng năm từ nửa triệu đã tăng lên 600 nghìn, rồi 
780.000. Năm 2014 vừa qua là khoảng 860.000. 
Không chỉ các công ty có địa bàn hoạt động ở Việt 
Nam cần mà các công ty tuyển dụng người lao động 
Việt Nam tại Hàn Quốc cũng rất cần người biết 
tiếng Việt, am hiểu về văn hóa Việt. Ngoài nhu cầu 
cho các ngành kinh tế, thương mại, văn hóa, giáo 
dục, ngoại giao tiếng Việt còn là nhu cầu cho một 
số nhà hoạt động xã hội. Bởi lẽ Hàn Quốc đang có 
40 nghìn cô dâu người Việt nên có một số vấn đề xã 
hội nảy sinh, cần được xử lý, mà phần lớn là do bất 
đồng ngôn ngữ và khác biệt văn hóa. Ngoài ra, các 
nhà quản lý và hoạt động xã hội còn phải giải quyết 
một vấn đề nan giải là hiện có hơn 15 nghìn người 
lao động Việt Nam bỏ trốn khỏi các hợp đồng, đang 
sống bất hợp pháp trên đất nước Hàn và hiện có một 
số băng nhóm, tội phạm xã hội là người Việt. 
Tiếng Việt không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp thiết 
của việc đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa hiện tại 
mà còn là một bước đón đầu của chính phủ Hàn 
Quốc. Hàng chục nghìn cô dâu người Việt, người 
Philipin, người Trung Quốc với hàng chục ngàn 
gia đình đa văn hóa sẽ là một nguyên nhân xã hội 
có thể đưa đến hiện tượng song ngữ hoặc đa ngữ 
trong tương lai. Một ngày không xa, việc dạy tiếng 
Việt sẽ phải hướng tới đối tượng là con em các gia 
đình Hàn - Việt, mà con số các cháu bố Hàn mẹ 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 77 
Việt hiện đã là 35.000, và còn tiếp tục tăng lên mỗi 
ngày. Chính sách giáo dục ngoại ngữ của chính phủ 
sẽ là một “bà đỡ” đối với các gia đình này. Nó 
không chỉ giúp cho trong mỗi gia đình, mẹ con có 
thể hiểu nhau, mẹ có thể dạy con, giúp giảm thiểu 
những những vấn đề xã hội khi đứa trẻ trưởng 
thành, mà còn giúp cho những đứa con, khi chọn 
tiếng Việt làm ngoại ngữ, thì việc học tập cũng sẽ 
thêm phần thuận lợi. Chính những đứa trẻ này, rất 
có thể, trong tương lai sẽ là một trong những nhịp 
cầu nối quan hệ giữa hai nước thêm phần bền chặt. 
Điều này, hẳn các nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã có 
kinh nghiệm từ các nhà lãnh đạo Mỹ với sự tư vấn 
của các nhà ngôn ngữ học xã hội từ những năm 60 
[6, tr. 16]. 
Nhu cầu cần người biết tiếng Việt lớn như thế, 
nhưng mỗi năm, 4 trường Đại học ở Hàn Quốc có 
số lượng sinh viên đầu vào chỉ là 140 em, và đầu ra 
có thể ít hơn một chút. Như vậy, tổng số sinh viên 
tốt nghiệp môn tiếng Việt hoặc ngành Việt Nam học 
ở các trường đại học nói trên trong 12 năm – từ 
2002 đến 2014 – chỉ khoảng 1.820 người. Nếu tính 
thêm cả các sinh viên học tiếng Việt rải rác trong 
các trường đại học khác, thì con số này cũng chỉ 
khoảng trên dưới 2000 người. Làm một phép so 
sánh nhỏ, cũng có thể thấy là cung không đủ cầu, 
mặc dù tại Việt Nam, hàng năm đã có hàng nghìn 
người Hàn Quốc, trong đó có hàng trăm sinh viên, 
học viên Hàn, đang học tiếng Việt và Việt Nam 
học. 
Tình hình chung của các trường đại học là 
những năm gần đây, tỉ lệ sinh viên ra trường tìm 
được việc làm ở Khoa Tiếng Việt và ngành Việt 
Nam học chiếm vị trí rất cao so với tỉ lệ chung của 
toàn trường. Ví dụ: năm 2011, tỉ lệ sinh viên trường 
ĐHNN Hàn Quốc tìm được việc làm sau khi tốt 
nghiệp là 62% (trong đó đã bao gồm cả Khoa Tiếng 
Việt), trong khi đó, sinh viên Khoa Tiếng Việt được 
nhận vào làm việc chiếm 78,3%, vượt tỉ lệ chung là 
16,3%. Tương tự như vậy, sinh viên ĐHNN Pusan 
có 46,4% tìm được việc làm thì sinh viên Khoa 
Tiếng Việt có việc làm chiếm 68,1%, vượt 22,3%. 
Sinh viên ĐH Chungwoon 59,7 % tìm được việc 
làm thì sinh viên Khoa Việt Nam học chiếm 69,6%, 
vượt tỉ lệ chung là 9,9%7. 
Bảng 3. Tỉ lệ SV tìm được việc làm của các 
khoa tiếng Việt 
so với tỉ lệ chung của toàn trường năm 2011 
Trường 
ĐHNN 
Hàn Quốc 
Trường 
ĐHNN 
Pusan 
Trường 
ĐH 
Chungwoon 
Khoa 78,3% 68,7% 69,6% 
Trường 62,0 % 46,4% 59,7% 
Vượt tỉ 
lệ chung 
16,3% 22,3% 9,9% 
(tham khảo Daehakalimi, tác giả thực hiện) 
Với tình hình chung là cung không đủ cầu như 
đã nói trên nên một số sinh viên tuy mới đang học 
năm thứ 3, thứ 4 nhưng đã được các công ty nhận 
vào làm việc. Các sinh viên khá, giỏi gần như chỉ 
cần sắp ra trường hoặc vừa ra trường, chưa kịp có 
tấm bằng đại học trong tay là đã có các công ty 
chào mời vào làm việc ngay. Đơn cử là liên tục 
trong các năm 2012, 2013, các sinh viên giỏi của 
ĐH Chungwoon đang học năm thứ 4 đã được một 
số công ty lớn của Hàn Quốc mời tới phỏng vấn và 
lập tức nhận vào làm việc với mức lương khởi điểm 
25.000 USD/ năm nếu làm tại Hàn. Còn nếu sang 
Việt Nam thì sẽ được hưởng thêm 60%, tức là 
40.000 USD/năm (trên 3.330 đô-la/tháng). Trong 
tình hình kinh tế thế giới đang khủng hoảng, công 
ăn việc làm đang khó khăn như hiện nay, và 
Chungwoon chưa phải là một trường đại học danh 
tiếng, mà sinh viên chưa ra trường đã được tuyển 
dụng với mức lương khởi điểm như vậy thì đó là 
một tín hiệu đáng mừng cho đầu ra của ngành Việt 
Nam học. Năm 2012, lớp năm thứ 4 của ĐH 
Chungwoon, 1 tháng trước khi kết thúc năm học đã 
có 13/21 em có việc làm, 3 em chờ kết quả phỏng 
7 Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học thuộc Hội Giáo dục 
và Đào tạo Đại học Hàn Quốc, 
(Bảng 3) 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 78 
vấn. Trên lớp chỉ còn 5 sinh viên tiếp tục đi học. 
Sau khi tốt nghiệp không lâu, tất cả đều có việc làm. 
Năm 2013, số sinh viên được nhận vào làm việc 
trước khi nhận bằng tốt nghiệp tuy có thấp hơn, 
nhưng không phải là do các công ty không tiếp 
nhận, mà chủ yếu là do các em muốn học hoàn 
chỉnh chương trình trước khi bước ra xã hội. 
Kết quả sinh viên ra trường tìm được việc làm 
đã có ảnh hưởng rõ rệt đến công tác tuyển sinh. Tỉ 
lệ đầu vào của các khoa tiếng Việt đều đang tiếp tục 
tăng lên. Nhờ đó mà chất lượng ngày một được cải 
thiện. 
Năm 2012-2013, một cuộc thăm dò nhỏ đối với 
sinh viên ĐHNN Hàn Quốc và ĐH Chungwoon đã 
được tiến hành, phần lớn các em cho biết các em 
chọn Khoa Tiếng Việt hay ngành Việt Nam học là 
do ngành này dễ kiếm việc làm. Một số em thấy 
ngành này có khả năng có triển vọng lớn. Lý do kế 
tiếp là do các em thích Việt Nam hoặc thích tiếng 
Việt, hay do gia đình muốn các em học khoa này. 
Khoảng 11 -12% là do thi vào khoa khác không đủ 
điểm nên xin chuyển khoa. Một số sinh viên 
Chungwoon chọn cùng lúc 2-3 lý do7. Trong số 
36,6% chọn lý do vì ý muốn của gia đình thì 9,7% 
có thêm lý do ra trường dễ tìm việc làm: 
Bảng 4. Lý do học Khoa Tiếng Việt/ Việt Nam 
học của các sinh viên 
Lý do học Khoa 
Tiếng Việt/ Việt 
Nam học 
ĐHNN 
Hàn Quốc 
ĐH 
Chungwoon 
1 
Ra trường dễ tìm 
việc làm 
38,6% 40,2% 
2 
Thích Việt Nam 
hoặc thích tiếng Việt 
30% 36,6% 
3 Theo ý muốn của gia 
đình 
1% 36,6% 
4 
Thi vào khoa khác 
không đủ điểm 11,4% 12,2% 
Các lý do khác là vì bạn bè rủ, vì học khoa này 
dễ, vì các em cần có 1 tấm bằng đại học, vì có bố/ 
7 Một số sinh viên ĐH Chungwoon chọn 2, 3 lý do nên tỉ lệ phần 
trăm trong vượt hơn 100%. 
mẹ hoặc bạn thân sống ở Việt Nam, vì em thích học 
ngoại ngữ, vì muốn giúp đỡ những phụ nữ Việt 
Nam sống tại Hàn, vì khoa này có những tiêu chuẩn 
phù hợp với khả năng của em, v.v.. Các số liệu cho 
thấy tỉ lệ của mỗi lý do, sinh viên ĐHNN Hàn Quốc 
và ĐH Chungwoon phần lớn tương đương nhau. 
Chỉ nguyên nhân chọn trường vì gia đình là chênh 
lệch nhau rất lớn. Có lẽ các sinh viên giỏi thường có 
tính độc lập cao, ít phụ thuộc ý kiến của cha mẹ. 
Tại ĐH Chungwoon, 86% sinh viên trả lời khi 
ra trường muốn làm việc tại Hàn Quốc, trong đó, 
49% muốn được làm công việc có liên quan tới 
chuyên môn Việt Nam học. Số còn lại thì cho rằng 
công việc có liên quan hay không liên quan đến 
Việt Nam cũng không quan trọng, miễn là có việc 
làm. 14% muốn làm việc tại Việt Nam. Tại ĐHNN 
Hàn Quốc, 84% muốn làm việc tại Hàn, trong đó 
57% cho rằng làm ở công ty có liên quan đến Việt 
Nam hay không cũng không quan trọng. 16% muốn 
làm việc tại Việt Nam. 
Phần lớn sinh viên cho biết mặc dù nguyện vọng 
của các em là làm việc ở Hàn Quốc, nhưng trong 
thời buổi kinh tế khó khăn, sự cạnh tranh khá gay 
gắt như hiện nay, thì nếu có việc làm và được cử 
sang Việt Nam, các em vẫn rất sẵn sàng. Vì quan hệ 
Hàn Quốc - Việt Nam đang ngày càng tốt đẹp, Việt 
Nam là một nước đang phát triển, với dân số 90 
triệu người8, nên đây sẽ là một thị trường đầy tiềm 
năng. Hơn nữa, nếu các em sang Việt Nam thì luôn 
được các công ty cho hưởng chế độ lương ưu đãi. 
Với uy tín của nhà trường, các sinh viên ĐH 
Ngoại ngữ Hàn Quốc khi tốt nghiệp, thường làm 
việc ở cơ quan chính phủ, làm trong ngành ngoại 
giao, báo chí, truyền hình, giảng dạy ở các trường 
đại học, trung học, làm việc ở các ngân hàng hay 
các tập đoàn lớn như Samsung, LG, Postco, Hyun 
Dae, Lotte, Imark, CJ, v.v.. Các sinh viên ĐH 
Ngoại ngữ Pusan, khoảng 70% sau khi tốt nghiệp 
làm việc ở các tập đoàn, các công ty đang đầu tư 
vào Việt Nam, các nhà máy công nghiệp nhẹ, chủ 
8 Tổng cục Thống kê Việt Nam ( 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 79 
yếu là cho các ngành may mặc, giày da Một số 
làm cho công an đối ngoại, phòng xuất nhập cảnh, 
làm ở cơ quan ngoại giao, đại sứ quán, lãnh sự quán 
hay làm cho tập đoàn Samsung, Posco, Daekwang, 
Hansol Một số nữa thì làm cho các công ty vừa 
và nhỏ. Các sinh viên ĐH Chungwoon thì thường 
làm cho các công ty vừa và nhỏ đang đầu tư vào 
Việt Nam, một số làm cho Posco và Dorco Có 
thể nói, cánh cửa đầu ra của các Khoa Tiếng Việt và 
Việt Nam học ở Hàn Quốc hiện nay đang rộng mở. 
3. Kết luận 
Việt Nam hiện đang chủ trương phát triển và hội 
nhập bền vững với các nước trong khu vực và với 
thế giới. Quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Hàn hiện 
đang phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực với tư 
cách là đối tác hợp tác chiến lược. Tiếng Việt, trong 
bối cảnh giao tiếp liên văn hóa, là nhịp cầu không 
thể thiếu góp phần thúc đẩy mối quan hệ này ngày 
thêm khăng khít. Cùng với quan hệ kinh tế, văn 
hóa, chính trị, ngoại giao đang ngày càng được đẩy 
mạnh, tiếng Việt đang ngày càng được coi trọng 
trên đất nước Hàn. Trong tình hình khủng hoảng 
kinh tế thế giới, việc đào tạo tiếng Việt tại một số 
quốc gia như Pháp, Úc, Trung Quốc đang rơi vào 
cảnh sa sút, khó khăn9, thì việc đào tạo tiếng Việt và 
Việt Nam học tại Hàn Quốc giờ đây lại đang được 
9 Theo báo cáo của PGS.TS Hàm Man Tuyết, ĐH Bắc Kinh, 
Trung Quốc “Định hướng phát triển đào tạo Việt Nam học ở Đại 
học Bắc Kinh”, và TS. Thái Duy Bảo (ĐH Quốc gia Úc), “Việt 
Nam học và việc giảng dạy tiếng Việt ở Úc, thực trạng và triển 
vọng”, cùng các phát biểu của họ và ý kiến phát biểu của TS. 
Nguyễn Thị Hiệp, giáo sư dạy tiếng Việt tại ĐH Paris 7 (Pháp) 
tại tiểu ban 12, Hội thảo Quốc tế “Việt Nam học lần thứ IV”, Hà 
Nội (26-28/11/2012). Các bài báo cáo trên hiện chưa được in 
toàn văn. 
Chính phủ và Bộ Giáo dục Hàn Quốc quan tâm thúc 
đẩy mạnh và là một bức tranh mang màu sắc lạc 
quan. Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã ra chủ trương từ 
năm 2014, tiếng Việt là một trong những ngoại ngữ 
thứ hai thi vào đại học, bên cạnh tiếng Đức, Pháp, 
Nhật, Nga, Tây Ban Nha, Trung Quốc, và Ả Rập. 
Chủ trương này đã trao cho tiếng Việt những cơ hội 
và triển vọng mới. 
Sự phát triển quan hệ giữa hai nước là động lực 
thúc đẩy ngành Việt Nam học phát triển ngày càng 
mạnh ở Hàn, và hứa hẹn một tương lai tươi sáng 
cho bộ môn tiếng Việt và ngành Việt Nam học. Vị 
trí tiếng Việt đã được nâng cao. 
Trên đây là một vài nét phác họa của chúng tôi. 
Bài viết của chúng tôi mới chỉ dừng ở cấp độ miêu 
tả, cung cấp thông tin. Do điều kiện về thời gian, 
chúng tôi chưa có cơ hội tiếp xúc với các nhà tuyển 
dụng để có thêm chi tiết về yêu cầu của họ đối với 
ngành Tiếng Việt và Việt Nam học, cũng như chưa 
khảo sát kỹ tình hình xuất bản giáo trình tiếng Việt 
tại Hàn. Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ là một tài 
liệu tham khảo cho các nhà quản lý giáo dục hay 
hoạch định chính sách của Việt Nam và Hàn Quốc 
trong những chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, 
giáo dục, tăng cường hợp tác giữa hai quốc gia. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 80 
The reality of Vietnamese language teaching 
and Vietnamese Studies education in Korea 
 Le Thi Hong Minh 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Over 20 years of Korea-Vietnam 
relationship, Korea has become the biggest 
investor in Vietnam, and Vietnam the forth on 
the list of Korea’s most important partners. 
There are over 135,000 Koreans living in 
Vietnam and out of 123,000 Vietnamese living 
and working in Korea, there are 40,000 
Vietnamese wives to Korean husbands. 
Currently, in Korea there are 4 universities that 
have faculties or departments of the 
Vietnamese language or of Vietnamese 
Studies, with a large number of alumni who 
have successfully found jobs. Demand is 
higher than supply capacity. Vietnamese 
proficiency is not only essential to Koreans 
living and working in Vietnam and Korea-based 
companies with Vietnamese employees but 
also will be valuable to children of thousands of 
Korean-Vietnamese families in the coming 
years. The Ministry of Education of Korea has 
just announced a policy stating that the 
Vietnamese language will be one of the eight 
second languages in the national university 
entrance examination, which will bring to 
Vietnamese language teaching new 
opportunities and prospects. 
Keywords: teach, the Vietnamese language, in Korea, need, prospects 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Daehakalimi (Trung tâm thông tin đại học 
thuộc Hội Giáo dục và đào tạo đại học Hàn 
Quốc, 
?process=load). 
[2]. Homepage của Trường Đại học Chungwoon 
( 
[3]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ 
Pusan ( 
[4]. Homepage của Trường Đại học Ngoại ngữ 
Hàn Quốc ( 
[5]. Kim Ki Tae(1996), Về việc dạy và học tiếng 
Việt tại Hàn Quốc, Tạp chí “Ngôn ngữ”, số 2 
/1996, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân 
văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 
tr.60-62. 
[6]. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã 
hội – Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản 
Khoa học Xã hội. 
[7]. Nguyễn Văn Phúc, Song Jeong Nam (2006), 
Tiếng Việt và Việt Nam học tại Hàn Quốc, Kỷ 
yếu hội thảo Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb. 
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 362 - 377. 
[8]. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online 
(
B-KTSG/), số ra ngày 6/6/2012. 
[9]. Tổng cục Thống kê Việt Nam 
( 

File đính kèm:

  • pdftinh_hinh_dao_tao_tieng_viet_va_viet_nam_hoc_tai_han_quoc.pdf