Tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị

Trước hết là ảnh hưởng của Đạo giáo phù thủy từ Trung Quốc truyền sang,

du nhập vào Việt Nam, phát triển trong thời kỳ Bắc thuộc và thịnh đạt trong thời

kỳ phong kiến độc lập.

Từ thần điện của Đạo giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị Việt Nam chỉ tiếp

thu thần vị: Quan Thánh đế quân và Tam giới Thánh mẫu.

Nhưng ảnh hưởng chính là từ phương thuật cầu cúng, hành lễ của đạo sĩ, pháp

sư như lên đồng, dùng bùa chú yểm tà ma, trị bệnh bằng phương thuật phù thủy.

Yếu tố nguồn gốc thứ hai là quá trình tiếp thu tín ngưỡng thần Mẹ Xứ Sở Po

Yan Inư Nagar của cư dân Chàm, diễn ra từ thuở đầu của dân Việt vào định cư ở

châu Hóa, cho đến các đời vua Nguyễn việc chuyển hóa thần nữ Chăm thành thần

nữ Việt càng cao.

pdf 12 trang kimcuc 5040
Bạn đang xem tài liệu "Tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế

Tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế
3Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU VÀ CHƯ VỊ 
Ở THỪA THIÊN HUẾ*
 Trần Đại Vinh**
Có một tín ngưỡng dân gian mà cả nam lẫn nữ đều có nghĩa vụ tham dự 
bình đẳng nếu không nói là số lượng phụ nữ còn đông đảo hơn nam giới. Đó là tín 
ngưỡng thờ Mẫu và chư vị hay còn gọi theo phương thức hành lễ là tín ngưỡng 
đồng bóng, vừa kế thừa truyền thống, vừa có phần đặc thù của Huế.
1. Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị
Trước hết là ảnh hưởng của Đạo giáo phù thủy từ Trung Quốc truyền sang, 
du nhập vào Việt Nam, phát triển trong thời kỳ Bắc thuộc và thịnh đạt trong thời 
kỳ phong kiến độc lập. 
Từ thần điện của Đạo giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị Việt Nam chỉ tiếp 
thu thần vị: Quan Thánh đế quân và Tam giới Thánh mẫu.
Nhưng ảnh hưởng chính là từ phương thuật cầu cúng, hành lễ của đạo sĩ, pháp 
sư như lên đồng, dùng bùa chú yểm tà ma, trị bệnh bằng phương thuật phù thủy...
Yếu tố nguồn gốc thứ hai là quá trình tiếp thu tín ngưỡng thần Mẹ Xứ Sở Po 
Yan Inư Nagar của cư dân Chàm, diễn ra từ thuở đầu của dân Việt vào định cư ở 
châu Hóa, cho đến các đời vua Nguyễn việc chuyển hóa thần nữ Chăm thành thần 
nữ Việt càng cao.
Thuở ban đầu, cư dân Việt chỉ kế tục việc thờ cúng nữ thần một cách đơn 
giản. Hằng năm, đầu xuân dâng cúng, mở hội đua trải để cầu mưa, tại đoạn sông Ô 
Lâu thuộc địa phận làng Trạch Phổ (xã Phong Bình) trước đền. Nhưng trong sinh 
hoạt cúng tế, cũng đã hình thành nghi thức chầu văn.(1)
Dần dần các chúa Nguyễn đã phong tặng sắc thần, chính thức hóa việc phụng 
thờ nữ thần. Đến đời Gia Long, việc ban sắc cho các làng thờ cúng diễn ra phổ 
biến. Sự tích nữ thần bắt đầu được nho sĩ đương thời biết rõ qua bài văn “Cổ tháp 
linh tích” của một vị quan viết năm 1801.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua lại cho trùng tu ngôi đền tại làng Hải Cát 
(xã Hương Thọ), có chính điện thờ Tiên chúa, có miếu thờ Thủy thần.
* Trích kết quả nghiên cứu đề tài KHCN cấp tỉnh: “Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Văn hóa” 
được ngân sách nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư. 
** Thành phố Huế.
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
4 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Các am bà trong dân gian cũng được tái thiết với cơ ngơi hoàn chỉnh sau 
chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn. Chùa chiền cũng thiết án thờ Mẫu, kèm với việc thờ 
Quan Thánh. Các ông hoàng, bà chúa, quan lại, mệnh phụ lui tới lễ bái ngày càng 
đông đúc, cho tới triều Đồng Khánh, sự tin tưởng của vua vào Thánh Mẫu lại càng 
mãnh liệt. Trong dòng văn đề bức chân dung của mình, ông viết: “Ta vốn là người 
cõi Tiên, là con thứ của Long cung, ngày Thượng nguyên đã kính vâng mệnh, thân 
ngồi xe ngọc, đầu đội mũ vàng, đầu thai vào Bùi quý phi của Kiên Thái Vương để 
sinh ra đời”. 
(Dư nãi thanh dương chi nhân, Long cung thứ tử, Thượng nguyên thời phụng 
mệnh, thân thùy ngọc lộ, thủ chính kim quan, đầu vu Kiên Thái Vương Bùi quý phi 
sinh hạ).(2)
Vừa lên ngôi, vua đã cho tôn tạo, đổi tên đền Ngọc Trản làm điện Huệ Nam. 
Đại Nam thực lục đã ghi: “Vua khi còn ẩn náu, thường chơi xem núi ấy, mỗi khi đến 
cầu khẩn phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: Đền Ngọc Trản 
thật là núi Tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử 
uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy thờ được linh khí đắc nhất, 
cứu người độ đời, giáng cho phúc lộc hằng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đổi 
đền ấy làm điện Huệ Nam, để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”.(3)
Vua nói rõ như vậy, quan lại, quý tộc tha hồ xây am, lập điện riêng tại phủ đệ 
mình để thờ cúng Thánh Mẫu. Dân gian nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, chết chóc lại 
càng tin theo cầu cúng.
Ngoài ra, còn có ảnh hưởng tín ngưỡng thờ cúng Đức Thánh Trần và Liễu 
Hạnh công chúa từ miền Bắc du nhập vào theo bước chân của quan viên về triều 
nhận chức.
Tất cả những hạt giống đó, được gieo trên một mảnh đất màu mỡ là tình trạng 
khốn khổ của nhân dân cả nước nói chung, xứ Huế nói riêng vào thế kỷ XIX. Dịch 
bệnh lan tràn, giết hàng vạn người. Mồ vô chủ nhan nhản khắp nơi. Còn có tình 
trạng hữu sinh vô dưỡng, nhà nào cũng không thiếu trẻ con chết non, và thai nhi 
sa sẩy, dân gian tin rằng rất linh hiển, nam thì gọi là ông Trạng, ông Quận, nữ thì 
gọi là Cô, được Thánh Thần Tiên Phật cho làm thị tùng bộ hạ, theo hầu nơi thượng 
giới, thỉnh thoảng đêm rằm, mồng một mới trở về thăm viếng cha mẹ, nên phải làm 
những am, miếu nhỏ thờ trước sân nhà, cứ rằm, mồng một hương khói phụng thờ.
Nửa sau thế kỷ XIX, tình hình đất nước đen tối, Nam Bộ bị rơi vào tay thực 
dân Pháp, Hà Nội và mấy tỉnh miền Bắc cũng hai lượt bị tấn công, chiếm đóng. 
Một loạt tỉnh trung du tiếp giáp vùng biên giới Trung Hoa lại bị dư đảng Thái Bình 
Thiên Quốc từ Trung Hoa tràn sang nhiễu loạn. Ngay tại kinh kỳ, cửa ngõ Thuận 
An bị Pháp đánh, rồi kinh đô lại bị giặc phản công chiếm lấy. Ngai vàng Nam triều 
5Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
từ đời Đồng Khánh trở đi chỉ là hư vị. Quyền lực hoàn toàn nằm trong tay Khâm 
sứ và Toàn quyền. Thời thế bế tắc ấy đã làm cho từ vua đến quan lại, dân gian chỉ 
còn niềm tin vào Thánh Thần Tiên Phật, may ra cứu đỡ gì chăng.
Tháng 3 năm Bính Tuất (1886), vua Đồng Khánh đã phán: “Nhà nước đương 
lúc vận hội khó khăn tất phải âm dương giúp đỡ mới có thể được việc nhanh chóng, 
nhưng điện ấy (tức điện Huệ Nam), từ trước chiếu lệ, thăng trật, cũng giống như bách 
thần, cho nên giữ nước giúp dân chưa được hiển ứng. Về ba vị thờ ở trên và sáu vị 
ở dưới về bên hữu, trẫm muốn tôn phong huy hiệu để mong sự linh diệu sau này.”(4)
Kết quả, nhà vua đã gia phong thần hiệu cho chư thần thờ tại điện Huệ Nam 
như sau:
- Ba vị ở trên:
1) Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Bảo Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Ngọc 
Trản Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Dực Bảo Trung Hưng thượng đẳng thần.
2) Trứ Linh Chương Ứng Mục Uyên Hoằng Bác Uông Nhuận Thủy Long 
Thánh Phi Dực Bảo Trung Hưng trung đẳng thần.
3) Diệu Phu Quảng Độ Linh Chương Ý Nhã Anh Bình Sơn Trung Tiên Phi 
Dực Bảo Trung Hưng trung đẳng thần.
- Sáu vị ở dưới:
1) Tiên Cung Thông Minh Thượng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
2) Tiên Cung Linh Minh Đại Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
3) Thủy Tinh Lực Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
4) Thủy Tinh Uy Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
5) Sơn Tinh Quả Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
6) Sơn Tinh Vũ Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
Ngay trước bàn thờ sáu vị tôn thần này, vua Đồng Khánh đã cho làm biển, 
đích thân vua ngự bút đề: “Âm Dương huynh đệ thất thánh nghĩa hội”, ý xem mình 
là huynh đệ, xếp hàng thứ 7.
Năm 1888, mẹ ruột vua là Kiên Thái vương phi Bùi thị, em vua là Kiên 
huyện công Ưng Đậu và em gái là Như Cư đã cùng đồng môn chú tạo một đại hồng 
chung dâng cúng lên Thánh Mẫu. Lời minh chuông ghi như sau: 
“Thượng Thánh Mẫu Cung Ngọc Trản Sơn Huệ Nam Điện tam tòa tứ phủ 
chứng minh.
“Sơ nguyện: Đế vị diên niên vĩnh truyền bách thế, nội an, ngoại trị, quốc sự 
tảo thành.
“Tái nguyện: Âm phò Thiên Thành cuộc vĩnh bảo chung linh”.
6 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Cơ ngơi điện Huệ Nam tại núi Ngọc Trản (dân gian quen gọi là điện Hòn 
Chén) vào đời vua Đồng Khánh đã bao gồm quy mô hoàn chỉnh:
Giữa là tòa thánh điện nóc cổ lầu, thờ hai tầng: Tầng trên thờ các thần hiệu 
nêu trên, với đủ nghi trượng cờ quạt, tàng lọng. Tầng dưới, ở giữa thiết án hội 
đồng, đằng sau là cửu trùng đài cao chín bậc, hai bên là kiệu, ngai, võng song loan. 
Hai gian tả hữu tùng tự thiết tượng thờ các vị triều quận, triều cô.
Bên tả chánh điện là miếu thờ Ngũ hành Tiên nương. Bên hữu là nhà trai để 
chuẩn bị cỗ cúng. Trước sân có hai ngôi đình bát giác và một am ở chính giữa, đều 
thiết trí án thờ.
Ở sườn núi phía nam, tức phía hữu của điện còn xây cất hai ngôi miếu lớn. 
Một thờ Quan Thánh đế quân và bộ hạ, một thờ bài vị nhân thần họ Lê vớt được 
ven bờ.
Dưới chân núi, sát bờ nước là miếu thờ Thủy Long tôn thần.
Đây là ngôi điện chính của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị không những của 
Huế mà còn là của khu vực miền Trung. Từ khi triều Nguyễn chấm dứt, việc thờ 
cúng ở đây do bà Từ Cung, vợ vua Khải Định chủ trì, với chức vụ Hội chủ danh dự 
Hội Quý tế điện Huệ Nam. Thời gian này, Hội Quý tế đã tôn trí thêm thần vị của 
ba Thánh Mẫu Vân Hương đệ nhất, đệ nhị và đệ tam, tức là Liễu Hạnh công chúa, 
Quế Hoa công chúa và Thụy Hoa công chúa vào thần điện. Thế là Thánh Mẫu miền 
Trung đã hòa hợp với Thánh Mẫu miền Bắc.
Việc du nhập tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu 
Vân Hương không diễn ra sớm, tuy những tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu này đã phát 
triển ở miền Bắc từ thời Hậu Lê.
Riêng điện thờ Thánh Mẫu Vân Hương lớn nhất ở Huế là Phổ Hóa Cung do 
một vị quan triều Khải Định và Bảo Đại, quê ở Hà Tĩnh, từng phụng thờ Thánh 
Mẫu ở quê nhà, vào Huế nhậm chức đã phát tâm thiết lập nơi phụng thờ Thánh 
Mẫu từ năm 1925 ở gần bên trái chùa Báo Quốc. Năm 1939, dời về địa điểm hiện 
nay tại Phường Đúc (số nhà 185 đường Bùi Thị Xuân, Huế). Tiền đường thiết ba 
án thờ ba bà chúa, trước là án thờ Phật Di Lặc. Án tả tòng tự, thờ Ngũ hổ mãnh 
tướng, hai án hữu tòng tự thờ Táo Quân và Vân, Lôi nhị vị. Hậu điện chia làm 
thượng đường và hạ đường. Thượng đường tôn trí chân dung ba bà chúa, hạ đường 
thờ bửu kiếm.
Xung quanh Huế còn có nhiều điện thờ Thánh Mẫu Vân Hương, đáng kể là 
Phổ Tế Cung ở Lịch Đợi, Vân Phụng Điện ở ấp Ngũ Tây, Diệu Vân Điện ở Truồi...
2. Việc hành lễ của “con nhang đệ tử”
Trước khi thành lập Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo vào năm 1965 ở Huế 
và gần đây, mỗi am miếu thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị này tự túc sinh hoạt 
7Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
trong một đơn vị “phổ” với nhau, bao gồm “con nhang đệ tử” của từng phổ một, 
tập hợp chung quanh một vị chủ (thủ) am. Người chủ am, có thể là nam hay nữ, 
giữ trách nhiệm phụng thờ am, miếu hay điện mẫu của mình. Hằng tháng, cứ ngày 
14, rằm, ba mươi, mồng một, tín đồ đệ tử tùy tâm lui tới lễ bái.
Mỗi phổ có từ vài mươi đến cả trăm con nhang đệ tử, hầu hết là những người 
có “chân lính”, tức là những người bị ốm đau không rõ căn bệnh, cầu cúng ở am 
miếu mới lành, được xem như là hợp căn, hợp mạng. Mẫu và chư vị bắt làm “lính”, 
hầu đồng ở am, miếu. Có thể hằng tháng trong năm, họ không nhất thiết phải tới 
am chính, nếu không đau ốm, rủi ro gì. Nhưng vào dịp hai lễ “Khai bàn”, khoảng 
trung tuần tháng Hai âm lịch, và lễ “Tạ bàn” cuối năm khoảng vào hạ tuần tháng 
Chạp, tất cả con nhang đệ tử đều phải đến am hành lễ, dâng cúng, lên đồng đủ chín 
giá chủ yếu.
Đó là các giá đồng “Ngũ vị Thánh Bà” và “Lục vị Tôn Ông”. Trừ hai giá Tôn 
Ông đệ nhất và đệ lục khỏi phải hầu lên, vì tương truyền hai vị này đã đi tu, gọi là 
giá bỗng, đệ tử còn hầu chín giá chính.
Ngoài ra, còn phải hầu một vài giá khác, phù hợp với căn mạng của mình 
trong 12 giá phụ sau đây: 
- Giá cậu đệ nhị ngoại càn.
- Giá cậu đệ tam ngoại càn.
- Giá cậu đệ nhị khuôn viên.
- Giá cậu đệ tam khuôn viên.
- Giá cô Năm ngoại càn, cô Ba ngoại cảnh, cô Ba thủy phủ, cô Ba chín suối, 
cô Cả Đèo Ngang.
- Giá cô Chín thượng ngàn, ông Chín thượng ngàn, ông Bảy thượng ngàn.
Các cô và các cậu này là hồn thiêng của các đồng nam, đồng nữ (chưa lập 
gia đình, còn đồng trinh), chết oan khuất đã hiển linh, được theo hầu Tứ phủ công 
đồng, đã được thờ phụng phổ biến và mặc nhiên thừa nhận trong tín ngưỡng thờ 
cúng của các am, miếu, điện Mẫu ở Huế.
Lên đồng là sự hóa thân vào một vai thần, thánh, hay ma quỷ linh thiêng 
trong hành lễ, tức là thần, thánh, ma quỷ đã ốp đồng vào người ngồi đồng, làm cho 
người đó phục trang như quỷ thần, mọi cử chỉ, hành vi, vũ đạo, ngôn ngữ y như 
quỷ thần, được người trần lễ bái, dâng rượu, dâng trầu.... Ngược lại vai đồng sẽ 
hoan hỷ ban phát lộc cho người trần, phán bảo chỉ dạy cho đệ tử. 
Trong nghi lễ lên đồng, trước hết phải có lễ cúng với đầy đủ vật phẩm, văn 
sớ tuyên đọc, có cung văn hát hầu văn và đệm đàn, sênh, phách.... Lời hát hầu văn, 
tiếng nhạc phụ thuộc theo vũ đạo và cử chỉ, động thái của vai đồng đang lên. Vai 
8 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
đồng múa quạt thì cung văn hát bài múa quạt, vai đồng múa kiếm thì cung văn 
chuyển qua bài múa kiếm, vai đồng phi ngựa thì cung văn hát bài tẩu mã, vai đồng 
nhận rượu cúng thì cung văn hát bài dâng rượu...
Các “con nhang đệ tử” quan niệm rằng nếu mỗi năm vào ngày “Khai bàn” 
hay “Tạ bàn” mà không đến am, điện hành lễ và lên giá đồng thì sẽ đau ốm, rủi ro.
Ngoài hai dịp đó, quanh năm họ cũng làm ăn mưu sinh như mọi người. Có 
khác chăng là họ phải kiêng cữ một số thịt cá đặc biệt, như thịt chó, thịt trâu, cá 
gáy, cá lóc.... Một số người có điều kiện có thể thiết lập một am cô, hay am cậu 
ngoài sân nhà mình để phụng thờ hương khói mỗi khi sóc vọng.
Thỉnh thoảng, nếu trong gia đình có rủi ro gì, họ có thể tới am, điện chính của 
phổ để cầu cúng, và có thể lên các giá đồng bà cô, ông quận thân ruột của mình, 
hoặc các giá đồng hợp căn, hợp mạng để xin phán bảo. 
Mỗi năm, có hai lễ vía quan trọng tổ chức tại điện Hòn Chén: lễ vía húy nhật 
đức Vân Hương Thánh Mẫu (dân gian gọi là vía Mẹ) vào ngày 3 tháng Ba, và ngày 
lễ thu tế điện Huệ Nam vào hai ngày tốt trong thượng tuần tháng Bảy âm lịch, con 
nhang đệ tử còn có bổn phận đến nơi chiêm bái. Thỏa mãn những nghĩa vụ tế lễ 
đó, họ tự cho là thanh thản trong lòng, để lo làm ăn mưu sinh.
Người chủ am cũng thế, ngoài những ngày sóc vọng, ngày vía lớn, tổ chức dâng 
lễ, lên đồng, và hai ngày Khai bàn, Tạ bàn bận rộn cầu cúng, thường nhật họ vẫn lo 
làm ăn mưu sinh, và để có điều kiện vật chất lo phụng thờ, hương khói cúng kiến.
3. Những nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Huế
Tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị này đến năm 1965 được quy tụ thống nhất 
trong một Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo Trung Nguyên Trung Phần, đặt trụ sở 
tại 252 đường Chi Lăng, Huế. Trụ sở này được xem như một nơi thờ vọng Thánh 
Mẫu và chư vị, và nơi làm việc của Ban trị sự Tổng hội. Cách đặt tên Thiên Tiên 
Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, 
tức là thôn Vân Cát, làng An Thái huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) tỉnh Nam 
Định, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo 
thể hiện một nguyện vọng của Tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn 
giáo thiêng liêng. 
Trong giới nghiên cứu, tín ngưỡng này còn gọi là tín ngưỡng Tứ phủ, vì 
tín ngưỡng này quan niệm có thánh thần ở bốn cõi: Thượng thiên, Trung thiên, 
Thượng ngàn, Thủy phủ, tức gồm hai cõi trời, cõi núi rừng và cõi sông biển.
Tiên, thánh, thần bốn cõi đó đều liên kết nhau chi phối cõi người. Mỗi cõi đều 
có quyền lực như một triều đình: có đế vương, có thánh mẫu, có chư tiên, có các 
hoàng tử, công chúa, có khâm sai, giám sát, các vị quận chầu, cô chầu (triều quận, 
triều cô), có quan văn võ, như ngũ lôi, linh quan, ngũ hổ đại tướng, và âm binh bộ hạ. 
9Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Danh hiệu Tứ phủ công đồng này chưa được minh giải đầy đủ. Nó không rõ 
ràng như danh hiệu Tam phủ công đồng ở tín ngưỡng thờ Mẫu của dân gian miền 
Bắc: Thiên phủ, Địa phủ và Thủy phủ, tức cõi trời, cõi đất và cõi sông biển. 
Ở Huế, tín ngưỡng thờ Mẫu đã phân lập khái niệm Thiên phủ ra hai cõi: 
Thượng thiên và Trung thiên. Khái niệm Địa phủ lại được chuyển hóa thành khái 
niệm Thượng ngàn. Trung thiên được hiểu là cõi trời trung gian giữa cõi trời 
Thượng thiên và thế gian.
Xét theo văn sớ cầu cúng của tín ngưỡng Tứ phủ công đồng ở Huế thì mỗi cõi 
đều có một Thánh Mẫu cai quản: 
- Thượng thiên có Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thánh Mẫu.
- Thượng ngàn có Quản Cai Sơn Nhạc Cửu Châu Lê Mại Đại Vương. 
- Trung thiên có Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúa tiên.
- Thủy phủ có Thủy Phủ Long Cung Thánh Mẫu.
Mỗi cõi lại tổ chức như một triều đình phong kiến. Vẫn theo văn sớ cầu cúng, 
hệ thống thần điện mỗi cõi được phân lập như sau:
1) Thượng thiên:
- Thiên Y Thánh Mẫu. 
- Liễu Hạnh Thánh Mẫu.
- Bạch Hoa công chúa.
- Nhị vị Trạng nguyên tôn ông.
- Ngũ vị hoàng tử.
- Ngũ vị Khâm sai, hành sai tiên cô...
2) Trung thiên:
- Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúa tiên.
- Ngũ vị thánh bà.
- Hỏa phong thánh bà.
- Chư vị đức bà.
- Thiên tào bổn mạng... 
3) Thượng ngàn:
- Thượng ngàn Thánh Mẫu Lê Mại Đại Vương.
- Thượng ngàn chư vị công tử.
- Thập nhị thiên tướng.
- Ngũ hổ mãnh tướng.
- Ông Chín thượng ngàn.
10 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
- Cô Chín thượng ngàn.
- Ông Bảy thượng ngàn.
- Ngoại cảnh càn khôn, Ngũ hành, Lục động, Bạch thố, Kim tinh, Mộc tinh 
thánh nữ...
4) Thủy phủ:
- Thủy phủ chúa Động Đình Bắc Hải Đế Quân.
- Thủy phủ Long Cung Thánh Mẫu.
- Đệ nhất cung Xích Lân tiên nữ.
- Đệ nhị cung Thủy Tinh thánh nữ.
- Đệ tam cung Xích Lân tiên nữ, Bạch Ngọc hồ trung Thủy Tinh công chúa 
(cô Ba Thủy phủ).
- Đệ tứ đức triều Khâm sai thánh nữ.
- Thủy giới Long Cung chư vị thánh bà.
- Thập vị thủy tể tôn ông (cũng gọi 10 ông hoàng).
- Thủy phủ ngũ vị Xích Lân hoàng tử.
- Tam vị Phụ quốc Trạng nguyên tôn ông.
- Ngũ phương duyên lộ Hà Bá thủy quan.
- Tào liêu, phán thuộc, sĩ tốt, lại binh...
Và cõi nào cũng có Thập nhị triều quận, Thập nhị triều cô (con số 12 này chỉ 
là một con số nhiều, chứ không có nghĩa cụ thể là 12), cùng các quan văn võ thần 
liêu, bao gồm khâm sai, giám sát, và bộ hạ theo hầu.
Trong số bốn cõi này, có hai cõi chi phối trực tiếp vận mạng con người: cõi 
Trung thiên nắm giữ bổn mạng, quy định thọ, yểu, cõi thủy phủ lại chi phối “căn” 
của con người, đặc biệt là nữ giới (mệnh tại thiên tào, căn vu thủy giới).
Do đó, Thánh Mẫu của hai cõi này, thường được dân gian thờ cúng trực tiếp 
tại nhà mình: Tây Cung Vương Mẫu, thờ thường xuyên tại trang bà, Thủy phủ 
Long Cung Thánh Mẫu (cùng các thủy thần khác) được dâng cúng trong lễ thành 
định kỳ 3 năm, 5 năm của phụ nữ.
Theo truyền thuyết Chăm và Việt, Thiên Y A Na Thánh Mẫu và Liễu Hạnh 
Thánh Mẫu vốn từ Thượng thiên đã thác sinh vào cõi trần gian.
Thiên Y A Na Thánh Mẫu thác sinh làm cô gái da ngâm đen ở vùng Đại An, 
Khánh Hòa sau này, vào thời thượng cổ Chăm, làm con nuôi ông bà lão trồng dưa, 
hóa thân sang biển Bắc làm vợ một hoàng tử Trung Hoa, rồi hóa thân trở lại quê 
nhà, hiển thánh giúp dân xong trở về thượng giới.
Liễu Hạnh Thánh Mẫu, theo thần tích thì xuống trần bốn lượt vào thời trung 
đại ở Việt Nam.
11Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
- Lần thứ nhất đầu thai vào nhà họ Phạm, sinh năm 1434, ở làng Trần Xá, 
huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, không lấy chồng, mất khi 40 tuổi.
- Lần thứ hai, năm 1557, đầu thai vào nhà họ Lê ở làng Vân Cát, huyện Vụ 
Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, được đặt tên là Giáng Tiên, 18 tuổi gả làm 
vợ Trần Đào lang, sinh được 1 trai 1 gái. Năm 21 tuổi không bệnh mà mất vào ngày 
mồng 3 tháng Ba âm lịch (1577).
- Lần thứ ba, cách ba năm sau ứng hiện xuống trần thăm lại chồng con, và đi 
vân du khắp nơi. 30 năm sau (1609) trở về làng Sóc Sơn ở Nghệ An, gặp lại hậu 
thân của Trần Đào lang là Mai Sinh, nối lại duyên xưa, sinh được 1 trai rồi trở về 
trời năm 1610.
- Lần thứ tư, sau thời gian công cán ở cung trời tương ứng 5 năm trần thế, 
năm 1615 lại xuống trần, đem theo hai công nương là Quế Hoa và Thụy Hoa, ứng 
hiện xuống vùng Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hóa, hiển linh tác oai tác 
phúc. Triều đình Lê Trịnh đem quân Vũ lâm tiễu trừ, nhưng gặp tai họa. Triều đình 
phải tái lập đền thờ, ban sắc phong gia tặng là “Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương”.
Nếu việc thờ tam phủ được P. Giran cho là “một sản phẩm đặc sắc Việt Nam” 
(trong Magie et religion Annamite(5)) thì việc thờ Tứ phủ ở Huế lại là một sản phẩm 
tinh thần đặc sắc của tín ngưỡng dân gian Huế.
 T Đ V
CHÚ THÍCH
(1)	 Dương	Văn	An.	Ô Châu cận lục,	Bùi	Lương	dịch.	Nxb	Văn	hóa	Á	Châu,	Sài	Gòn,	1961,	tr.43:	
“Việc	cúng	bái	thì	dùng	xôi	gà,	mở	cuộc	chầu	văn”.
(2)	 Ảnh	này	thờ	tại	điện	Ngưng	Hy,	lăng	Đồng	Khánh.
(3)	 Quốc	Sử	Quán	triều	Nguyễn	(2007).	Đại Nam thực lục,	bản	dịch	Viện	sử	học,	tập	9.	Nxb	Giáo	
dục,	Hà	Nội,	tr.	234.
(4)	 Đại Nam thực lục,	tập	9,	sđd,	tr.	249.
(5)	 Dẫn	lại	theo	Trần	Văn	Giàu,	Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ 
lịch sử.	Nxb	KHXH,	Hà	Nội,	1973,	tr.	466.
TÓM TẮT
Bài	viết	khảo	cứu	về	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	và	chư	vị	ở	Thừa	Thiên	Huế	qua	các	nội	dung	
chính:	Nguồn	gốc;	Việc	hành	lễ	và	Những	nét	đặc	sắc	trong	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	và	chư	vị	ở	
TTH.	So	với	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	của	người	Việt	ở	Bắc	Bộ	và	Bắc	Trung	Bộ,	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	
ở	TTH	có	những	nét	đặc	thù	sau:
- Tiếp	nối	truyền	thống	thờ	Mẫu	của	người	Việt	từ	phía	Bắc	truyền	vào	(qua	việc	thờ	Thánh	
Mẫu	Liễu	Hạnh).
- Tiếp	thu	và	dung	hợp	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	của	cư	dân	bản	địa	(qua	việc	thờ	nữ	thần	
Thiên	Y	A	Na	của	người	Chăm).
12 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
- Được	triều	đình	nhà	Nguyễn	công	nhận	qua	việc	phong	tặng	danh	hiệu	cho	chư	vị	thần	
linh	và	xây	dựng	các	cơ	sở	thờ	tự	của	đạo	Mẫu	(kèm	theo	đó	là	sự	ủng	hộ	tích	cực	của	tầng	lớp	
quý	tộc,	quan	lại).
Những	yếu	tố	ấy	đã	tạo	nên	những	nét	văn	hóa	đặc	sắc	trong	tín	ngưỡng	thờ	Mẫu	và	chư	
vị,	thu	hút	sự	tham	gia	đông	đảo	của	nhiều	giai	tầng	xã	hội,	không	chỉ	ở	Thừa	Thiên	Huế	mà	
còn	cả	khu	vực	miền	Trung,	mà	rõ	nhất	là	sự	ra	đời	của	Tổng	hội	Thiên	Tiên	Thánh	giáo	Trung	
Nguyên	Trung	Phần	tại	Huế	vào	năm	1965.
ABSTRACT
THE WORSHIP OF MOTHER GODDESSES AND GENIES IN THỪA THIÊN HUẾ
The	article	discusses	 the	worship	of	Mother	Goddesses	and	genies	 in	Thừa	Thiên	Huế	
through	 the	 following	main	 contents:	Origin	 of	 the	worship,	 rituals	 and	 practices,	 and	 special	
features	of	the	worship	of	Mother	Goddesses	and	genies	in	Thừa	Thiên	Huế.	In	comparison	to	the	
worship	of	Mother	Goddesses	in	the	North	and	Northern	Central	Vietnam,	the	one	in	Thừa	Thiên	
Huế	has	the	following	characteristics:
-	Following	closely	the	tradition	of	worshipping	Mother	Goddesses	from	the	North	(through	
the	worship	of	Holy	Mother	Liễu	Hạnh).
-	Acquiring	and	amalgamating	the	worship	of	Mother	Goddess	of	 indigenous	inhabitants	
(through	the	worship	of	goddess	Poh	Yang	Inư	Nagar	of	the	Cham	people).
-	 	 Acknowledged	 by	 the	 Nguyễn	 Dynasty	 through	 giving	 titles	 to	 gods	 and	 building	
worshipping	establishments	of	the	worship	of	Mother	Goddesses	(along	with	the	active	support	
of	aristocracy	and	mandarins).
Those	factors	have	created	unique	cultural	traits	of	the	worship	of	Mother	Goddesses	and	
genies,	attracting	the	participation	of	various	social	classes,	not	only	in	Thừa	Thiên	Huế	but	also	
in	Central	Vietnam;	the	most	obvious	was	the	establishment	of	Tổng	hội	Thiên	Tiên	Thánh	giáo	
Trung	Nguyên	Trung	Phần	(General	Association	of	Holy	Cult	 in	Central	Highlands	and	Central	
Vietnam)	in	Huế	in	1965.
13Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Phóng sự ảnh: 
LỄ VÍA THÁNH MẪU TẠI ĐIỆN HÒN CHÉN
Mỗi	năm	có	hai	lễ	vía	quan	trọng	của	đạo	
Mẫu	được	tổ	chức	tại	điện	Huệ	Nam	(tức	điện	
Hòn	Chén):	Lễ	vía	húy	nhật	Đức	Vân	Hương	
Thánh	Mẫu	vào	ngày	mùng	ba	tháng	Ba	và	
lễ	thu	tế	của	điện	Huệ	Nam	vào	hai	ngày	tốt	
trong	 thượng	 tuần	 tháng	 Bảy	 âm	 lịch,	 dân	
gian	quen	gọi	là	“Tháng	Bảy	vía	Cha,	tháng	
Ba	vía	Mẹ”.	Các	lễ	hội	này	thu	hút	hàng	nghìn	
tín	đồ	và	du	khách	thập	phương	đến	chiêm	
bái	 và	 thực	 hiện	 các	 nghi	 lễ	 hầu	 đồng,	 tạo	
nên	những	nét	đặc	sắc	của	tín	ngưỡng	thờ	
Mẫu	và	chư	vị	ở	Huế.	Nhân	dịp	 lễ	 “vía	Mẹ”	
năm	 Đinh	 Dậu	 (2017)	 vừa	 được	 tổ	 chức,	
phóng	viên	Tạp	chí	Nghiên	cứu	và	Phát	triển	
đã	thực	hiện	phóng	sự	ảnh	về	lễ	hội	này	tại	
điện	Hòn	Chén.	(Phóng	sự	của	Đăng	Vinh).
Ảnh 1: Núi	Ngọc	Trản,	 nơi	 tọa	 lạc	 điện	Hòn	
Chén,	ở	bờ	bắc	Sông	Hương,	thuộc	làng	Ngọc	
Hồ,	phường	Hương	Hồ,	thị	xã	Hương	Trà,	tỉnh	
Thừa	Thiên	Huế.
Ảnh 2: Các	thuyền	rồng	tập	trung	dưới	chân	núi	
Ngọc	Trản	tham	gia	lễ	vía	Thánh	Mẫu.
Ảnh 3: Ngày	trước,	người	ta	kết	2-3	chiếc	đò	lại	
với	nhau,	gọi	là	“bằng”,	vừa	làm	phương	tiện	di	
chuyển,	vừa	để	hầu	đồng.	Nay	đã	có	các	thuyền	
rồng	du	lịch	cỡ	lớn	thay	thế.	Trong	ảnh	là	“bằng	
án”	của	Ban	tổ	chức.
Ảnh 4: Minh	Kính	Đài	-	điện	thờ	chính	tại	điện	
Hòn	Chén.
Ảnh 5: Tín	hữu	chiêm	bái	tại	các	ban	thờ	Triều	
quận	Triều	cô.
14 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (135) . 2017
Ảnh 6: Khách	 thập	 phương	 chiêm	bái	 trước	
chánh	điện	điện	Hòn	Chén.
Ảnh 7: Tín	hữu	dâng	lễ	bái	tại	am	thờ	Cô	ngoại	cảnh.	
Ảnh 8:	Giá	chầu	Tam	Động	Hỏa	Phong	Thần	Nữ. Ảnh 9:	Giá	chầu	ngài	Đệ	nhị	Trung	Thiên	Tôn	Ông.
Ảnh 10: Giá	chầu	ngài	Đệ	tam	Giám	Sát	Thượng	
Thiên	Tôn	Ông.
Ảnh 11: Các	công	văn	trong	buổi	hầu	đồng	trên	
thuyền	rồng.

File đính kèm:

  • pdftin_nguong_tho_mau_va_chu_vi_o_thua_thien_hue.pdf