Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới Giáo dục phổ thông

Đổi mới giáo dục phổ thông đang đặt ra những yêu cầu mới về năng lực dạy học

(DH) của người giáo viên (GV) Lịch sử. Muốn tiến hành đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV

có đủ năng lực dạy học đáp ứng với chương trình – sách giáo khoa (SGK) mới thì trước

hết cần phải đánh giá được thực trạng năng lực dạy học của đội ngũ GV lịch sử hiện nay ở

trường trung học cơ sở (THCS) như thế nào. Xuất phát từ yêu cầu đó, nội dung của bài báo

này tập trung phân tích và đánh giá thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn Lịch sử

ở trường THCS hiện nay, từ đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực

DH của GV.

pdf 11 trang thom 04/01/2024 2000
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới Giáo dục phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới Giáo dục phổ thông

Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới Giáo dục phổ thông
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0039
Educational Sci., 2017, Vol. 62, No. 1A, pp. 134-144
This paper is available online at 
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN LỊCH SỬ Ở TRUNG
HỌC CƠ SỞ HIỆN NAY TRƯỚC YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Phạm Thị Kim Anh
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Đổi mới giáo dục phổ thông đang đặt ra những yêu cầu mới về năng lực dạy học
(DH) của người giáo viên (GV) Lịch sử. Muốn tiến hành đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV
có đủ năng lực dạy học đáp ứng với chương trình – sách giáo khoa (SGK) mới thì trước
hết cần phải đánh giá được thực trạng năng lực dạy học của đội ngũ GV lịch sử hiện nay ở
trường trung học cơ sở (THCS) như thế nào. Xuất phát từ yêu cầu đó, nội dung của bài báo
này tập trung phân tích và đánh giá thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn Lịch sử
ở trường THCS hiện nay, từ đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực
DH của GV.
Từ khóa: Năng lực dạy học, giáo viên lịch sử, đổi mới giáo dục phổ thông.
1. Mở đầu
Những năm gần đây, các nghiên cứu về năng lực dạy học của người giáo viên (GV) nói
chung, GV bộ môn lịch sử nói riêng được quan tâm nghiên cứu. Trong các công trình nghiên cứu
của tác giả Phạm Hồng Quang [13], Nguyễn Thế Bình [3], Nguyễn Thị Huyền và Nguyễn Thị
Mẫn [7], Vũ Xuân Hùng [8], Đặng Tự Ân [1]. . . đã nêu và phân tích rõ những yêu cầu về năng lực
DH của người GV để đáp ứng với sự thay đổi của chương trình giáo dục mới. Một số bài viết đi
sâu bàn về biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV lịch sử, như: “Suy nghĩ về đào tạo GV Lịch
sử thời kì toàn cầu hóa giáo dục-đào tạo” của Nghiêm Đình Vỳ [15]; “Cần một đội ngũ GV dạy
Sử ở trường phổ thông vừa yêu nghề vừa được đào tạo bài bản” của Trần Đức Minh [10]; “Nâng
cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường phổ thông từ việc đổi mới CT-SGK” của Đỗ Hồng Thái
[14]; “Góp phần giải quyết những bức xúc và yếu kém trong dạy học lịch sử hiện nay” của Phạm
Văn Hà [5]. Các nghiên cứu này hầu như chưa đi sâu vào đánh giá thực trạng năng lực DH của đội
ngũ GV lịch sử.
Năm 2013, theo yêu cầu của Cục Nhà giáo và Cán bộ quản quản lí cơ sở giáo dục (Bộ
GD&ĐT), để đánh giá chất lượng GV, cuộc thi kiểm tra chất lượng GV được diễn ra ở nhiều địa
phương trong cả nước. Kết quả của nó khiến nhiều người sững sờ “Nhiều giáo viên bị muối mặt
sau cuộc kiểm tra chất lượng vì bị điểm dưới trung bình” [6]. Đây mới chỉ là kết quả đánh giá về
năng lực chuyên môn, còn năng lực dạy học của GV thì chưa có cuộc khảo sát lớn. Mới đây, Tài
liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo GV phổ thông về phát triển chương trình đào
Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày nhận đăng: 20/2/2017.
Liên hệ: Phạm Thị Kim Anh, e-mail: phamkimanh279@yahoo.com.vn
134
Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...
tạo của Bộ GD&ĐT (2015) đã đưa ra số liệu đánh giá tổng quát năng lực DH của gần 200 GV phổ
thông ở 12 bộ môn (không dựa vào bằng cấp): «Đạt yêu cầu: 75,3%; Chưa đạt yêu cầu: 16,6% và
khó đánh gía được là 8,0%» [4]. Như vậy còn khoảng 25% số GV chưa đạt yêu cầu về năng lực
DH theo chương trình hiện hành. Nếu Chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai trong
thời gian tới với định hướng và yêu cầu chuyển từ trang bị nội dung kiến thức sang phát triển phẩm
chất và năng lực người học bằng việc dạy học tích hợp và lồng ghép, dạy học phân hóa, trải nghiệm
sáng tạo. . . thì năng lực của đội ngũ GV phổ thông đang đứng trước những thách thức mới. Vậy
làm thế nào để phát triển và nâng cao năng lực DH cho GV phổ thông nói chung, GV dạy bộ môn
Lịch sử nói riêng đáp ứng với chương trình giáo dục phổ thông mới đang là bài toán đặt ra cho các
nhà quản lí, trong đó có vai trò của các trường sư phạm.
Để trả lời cho các câu hỏi này, trước hết phải đánh giá cho được thực trạng năng lực DH của
đội ngũ GV lịch sử hiện nay ở trường THCS như thế nào để từ đó tiến hành đào tạo và bồi dưỡng
GV nhằm trang bị cho họ có đủ năng lực đáp ứng với yêu cầu dạy học mới.
Xuất phát từ yêu cầu đó, trong bài báo này chúng tôi tập trung vào 2 nội dung chính: (1)
Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực DH của GV bộ môn Lịch sử ở trường THCS hiện nay, (2)
Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến năng lực DH của GV còn hạn chế.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn lịch sử ở THCS qua kết quả
khảo sát
Để đánh giá được thực trạng về năng lực DH của GV bộ môn Lịch sử ở THCS, chúng tôi đã
tiến hành khảo sát 75 GV THCS được chọn ngẫu nhiên và đang trực tiếp dạy bộ môn Lịch sử trên
địa bàn một số tỉnh: Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai với tổng số 38
trường. Nội dung khảo sát tập trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: (1) Mức độ đạt được về các năng lực
dạy học của GV; (2) Mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới giáo dục; (3)
Mức độ thành thạo về các kĩ năng DH. Sau khi xử lí số liệu, chúng tôi thu được kết quả như sau:
a) Mức độ đạt được về các năng lực DH của GV.
Nhìn vào số liệu Bảng 1, chúng ta thấy:
- Hầu hết GV đều đã có năng lực DH bộ môn, song đạt tới mức độ vững chắc chỉ trên dưới
40%. Trong đó “Năng lực về vận dụng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học
Lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự học
và tư duy của HS” chiếm tỉ lệ vững chắc chỉ đạt 36%. Sự vững chắc về năng lực chủ yếu là số GV
lớn tuổi, có năng lực chuyên môn tốt và có nhiều kinh nghiệm trong DH.
- Số GV có năng lực DH, nhưng chưa vững chắc chiếm tỉ lệ trên dưới 50% (chủ yếu là ở
những đối tượng GV trẻ mới vào nghề).
- Có một số GV chưa có năng lực về DH, trong đó: Năng lực sử dụng ngôn ngữ trong diễn
đạt, trình bày các vấn đề của Lịch sử (15%); Năng lực tổ chức và quản lí lớp học trong giờ học
(13%); Năng lực vận dụng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học Lịch sử
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự học và tư
duy của HS (10%). Thực tế này chủ yếu là những GV phải dạy chéo môn, không đúng với chuyên
ngành được đào tạo của mình).
135
Phạm Thị Kim Anh
Bảng 1. Mức độ đạt được về các năng lực DH của GV
Các năng lực DH của giáo viên
Mức độ đạt được %
Đã
vững
chắc
Có, nhưng
chưa vững
chắc
Chưa
có
Khó
đánh giá
1. Năng lực tìm hiểu đối tượng HS trong DH 41,0 57,0 2,0
2 .Năng lực thiết kế bài dạy (soạn giáo án) 42,0 54.0 4,0
3. Năng lực tổ chức DH ( trên lớp-ngoài lớp) 44,0 53.0 3,0
4. Năng lực vận dụng các phương pháp,
phương tiện và hình thức tổ chức dạy học
Lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự
học và tư duy của HS
36,0 54,0 10,0
5. Năng lực sử dụng ngôn ngữ trong diễn đạt,
trình bày các vấn đề của Lịch sử
39,0 46,0 15,0
6. Năng lực tổ chức và quản lí lớp học trong
giờ học
40,0 47,0 13,0
7. Năng lực đánh giá kết quả học tập của HS 45,0 52,0 3,0
8. Năng lực xây dựng, quản lí và khai thác hồ
sơ dạy học.
48,0 50,0 2,0
Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng năng lực DH của GV Lịch sử ở THCS [2]
b) Mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông
Nghị quyết về đổi mới chương trình-sách giáo khoa giáo dục phổ thông (số 88/2014/QH13,
ngày 28/11/2014), nhấn mạnh tới các yêu cầu: “. . . phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; tích
hợp cao ở các lớp học dưới và phân hoá dần ở các lớp học trên; thực hiện lồng ghép những nội
dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học; đổi mới phương pháp dạy
học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập,
kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập; đa dạng hoá hình thức tổ chức học tập,
tăng cường hiệu quả sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền
thông. . . ” [11]. Để thực hiện được những yêu cầu này thì GV cần phải có những năng lực DH theo
yêu cầu đổi mới.
Để thăm dò và đánh giá mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới,
chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát và kết quả cho thấy như sau:
Kết quả khảo sát ở Bảng 2 cho thấy: về cơ bản GV đã có những năng lực DH theo yêu cầu
đổi mới. Tuy nhiên, mức độ vững chắc rất thấp và không đồng đều. Có 34% GV vững chắc về
“Năng lực sử dụng công nghệ thông tin (máy tính, Internet, mạng xã hội. . . ) trong dạy học Lịch
sử”; 27% GV vững chắc về “Năng lực xây dựng môi trường học tập. . . ” và có 24,3% GV vững
chắc về “Năng lực dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS”. Những năng lực khác đều đạt
ở mức trên dưới 20%. Năng lực DH theo phương thức hoạt động trải nghiệm sáng tạo chỉ có 5,5%
GV đạt mức vững chắc. Có lẽ do đặc thù bộ môn Lịch sử ít có điều kiện để tổ chức hoạt động này
nên mức độ GV đạt mức vững chắc rất thấp.
Số GV chưa vững chắc về năng lực DH theo yêu cầu đổi mới chiếm tỉ lệ khá nhiều (trong
khoảng từ 40%-60%). Trong đó, “Năng lực tổ chức tự học, tự nghiên cứu cho HS” có tới 60.5%
136
Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...
GV chưa vững chắc. Đây chính là bằng chứng cho thấy việc dạy và học lịch sử từ xưa đến nay coi
trọng về việc truyền giảng kiến thức, cung cấp và trang bị cho HS những nội dung của bài học mà
chưa chú ý đến việc dạy HS cách tự học, tự nghiên cứu.
Số GV chưa có một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới chiếm tỉ lệ không nhỏ. Có 50%
GV chưa có “năng lực phát triển chương trình nhà trường, biên soạn và phát triển tài liệu giáo khoa
Lịch sử”; 41,8% GV chưa có “năng lực DH theo phương thức hoạt động trải nghiệm sáng tạo”;
40,5% GV chưa có “năng lực đổi mới, sáng tạo, cải tiến PP DH” và 36,4% GV chưa có “năng lực
dạy học phân hoá”. . . . Điều này là do GV chưa được đào tạo trong các trường sư phạm và chưa
được bồi dưỡng, tập huấn để được tiếp cận với những cái mới.
Bảng 2. Mức độ đạt được về năng lực DH theo yêu cầu đổi mới
Các năng lực DH của giáo viên theo yêu
cầu đổi mới
Mức độ đạt được %
Đã
vững
chắc
Có, nhưng
chưa vững
chắc
Chưa
có
Khó
đánh giá
1. Năng lực phát triển chương trình nhà
trường, biên soạn và phát triển tài liệu giáo
khoa Lịch sử
10.0 40.0 50,0
2. Năng lực dạy học theo định hướng phát
triển năng lực HS
24,3 47,2 28,3
3. Năng lực dạy học phân hoá. 18,9 44,5 36,4
4. Năng lực dạy học tích hợp, lồng ghép 10 59,4 27,0 3.0
5. Năng lực DH theo phương thức hoạt động
trải nghiệm sáng tạo
5.5 52,7 41,8
6. Năng lực tổ chức tự học, tự nghiên cứu cho
HS
16,2 60,5 23,2
7. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin (máy
tính, internet, mạng xã hội. . . ) trong dạy học
Lịch sử
34.0 60,0 6,0
8. Năng lực đổi mới, sáng tạo, cải tiến PP DH 16,2 39,1 40,5 4.0
9. Năng lực giao tiếp và kiểm soát cảm xúc
trong DH
21,6 44,6 28,3 5,4
10. Năng lực thích ứng với các điều kiện DH
khác nhau.
20,2 59,1 20,5
11. Năng lực xây dựng môi trường học tập (tạo
dựng môi trường học tập: dân chủ, cởi mở,
thân thiện, hợp tác, thuận lợi, an toàn. . . )
27.0 44.6 28.3
12. Năng lực chuyển giao kinh nghiệm DH
cho đồng nghiệp, phát triển nghề của tổ bộ
môn, của Trường
17,5 51,3 31,0
Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng năng lực DH của GV Lịch sử ở THCS [2]
Để có những đánh giá khách quan và chính xác, cùng với việc khảo sát qua phiếu hỏi (đánh
giá bằng định lượng), chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn trực tiếp GV, cán bộ quản lí các trường
137
Phạm Thị Kim Anh
học. Qua phỏng vấn, một số lãnh đạo cơ sở giáo dục đều thừa nhận: Số lượng GV đạt trình độ
chuẩn đào tạo ngày càng tăng lên, nhưng năng lực dạy học, phương pháp và kĩ năng nghề nghiệp
còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Do vậy, đội ngũ GV ở tất cả các bộ môn đều phải
đào tạo lại về năng lực chuyên môn và NVSP mới có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục trong thời gian tới.
Thày Nguyễn Đình Thắng, hiệu trưởng Trường THPT Ba Vì (Ba Vì, Hà Nội) cho biết: “Mặc
dù GV đã qua trường lớp sư phạm, nhưng năng lực để đáp ứng với nhu cầu đổi mới thì rất hạn chế,
cần phải bồi dưỡng cho GV cả về định hướng, tư tưởng và những phương pháp mới để không bị
“ngợp” với sự đổi mới của chương trình và nội dung.
Thày Nguyễn Quốc Bình, hiệu trưởng Trường THPT Việt Đức (Hai Bà Trưng - Hà Nội)
cũng thừa nhận: “Tôi cũng phải nói thật, với đội ngũ GV dạy các bộ môn nói chung, môn lịch sử
nói riêng của chúng ta bây giờ có một bộ phận chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới GD. Bộ GD
phải đầu tư cho đội ngũ, trước hết là đội ngũ hiện có để tiếp tục bồi dưỡng, tiếp cận dần nội dung
và chương trình mới, để làm sao đáp ứng được, còn không chúng ta lại bị hụt như những lần trước...
phải nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm và năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, kĩ năng,
phương pháp giảng dạy“.
PGS.TS Nguyễn Hữu Hợp - giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội còn tỏ ra rất đáng lo ngại trước năng lực của đội ngũ GV: “Không bao lâu nữa, giáo dục
nước ta sẽ thực hiện chương trình đổi mới căn bản và toàn diện tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế
giới với hai yếu tố nổi bật - dạy học tích hợp và phát triển năng lực học sinh. Rất nhiều GV bây
giờ dạy "môn đơn" còn khó, chưa tốt thì họ sẽ dạy "môn tích hợp" như thế nào? Các chuyên gia
giáo dục phải mất nhiều hội thảo cấp quốc gia mới "ra" được khái niệm "năng lực" thì GV có hiểu
năng lực và phát triển được năng lực cho HS không? Liệu chúng ta có "lạc quan tếu", "đứng núi
này, trông núi nọ" hay không khi cho rằng chỉ cần bồi dưỡng, tập huấn là GV "làm được tuốt"?
PGS.TS Phạm Văn Lực - Trưởng khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc, khi phân tích
thực trạng năng lực của đội ngũ GV của Tây Bắc đã thẳng thắn chỉ ra những điểm yếu của GV phổ
thông như sau: “Điểm yếu nhất của GV phổ thông các tỉnh Tây Bắc là việc vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực: liên môn tích hợp tri thức, dạy học phân hóa, dạy học theo định hướng phát
triển năng lực và tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo cho HS... Theo số liệu điều tra
thực tế ở một số trường phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Tây Bắc)
cho thấy: hầu hết GV Tây Bắc hiểu không đúng về dạy học theo định hướng phát triển năng lực
cho học sinh là như thế nào?, cần phát triển những năng lực gì của bộ môn cho các em“ [9].
Riêng đối với GV lịch sử ở Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, PGS.TS Phạm Văn Lực cho biết
thêm: “Qua số liệu khảo sát điều tra cho thấy 31/31 GV lịch sử ở cả hai hệ THCS và THPT được
hỏi đều nói: không tích hợp trong giảng dạy và không biết liên môn tích hợp tri thức giữa lịch sử
với văn học, địa lí... Ở trung học phổ thông khi dạy: Bài 7. “Sự phát triển lịch sử và nền văn hóa
đa dạng của Ấn Độ” (Sách giáo khoa lịch sử lớp 10 - chương trình chuẩn) GV lịch sử ở 4/4 trường
khi dạy bài này đều nói không tích hợp bao giờ; hoặc khi dạy: Bài 11. “Tây Âu thời trung đại”
(phần: Những cuộc phát kiến địa lí) – Sách giáo khoa lịch sử lớp 11 - chương trình chuẩn, GV
cũng không tích hợp và không biết tích hợp kiến thức giữa lịch sử với địa lí như thế nào . Bất cập
hơn nữa, trong khi HS đang chán học môn lịch sử, đòi hỏi GV phải có đầu tư nhiều hơn nữa về nội
dung, đổi mới phương pháp, thay đổi cách thức dạy học để tạo sự sinh động cho bài giảng, cuốn
hút các em thì lại có trên 90% GV lịch sử vùng sâu, vùng xa của Tây Bắc chưa bao giờ tổ chức cho
học sinh đi tham quan thực tế các di tích l ...  vi
của HS
33,3 38,6 28.0
1.5 Tìm hiểu khó khăn,thuận lợi của học sinh khi
tiếp thu kiến thức bài dạy của giáo viên
29,3 52.0 18,6
1.6
Tìm hiểu phong tục tập quán cộng đồng địa
phương
30,3 42,6 27.0
2 Kĩ năng thiết kế bài dạy (soạn giáo án )
2.1 Kĩ năng nghiên cứu chương trình, SGK 46,6 37,3 16.0
2.2 Kĩ năng xác định mục tiêu, nội dung DH của
bài dạy
40.0 44.0 16.0
2.3 Kĩ năng nghiên cứu tài liệu để tham khảo 25,0 45,0 29,9
2.4 Kĩ năng lập dàn ý, bố cục bài giảng 32,6 50,6 16,8
2.5 Kĩ năng lựa chọn các vấn đề trọng tâm để DH
và đánh giá
37,3 45,3 17,3
2.6
Kĩ năng lựa chọn các phương pháp, hình thức
tổ chức DH phù hợp với từng nội dung bài dạy.
23.0 57,0 20.0
2.7 Kĩ năng lựa chọn các kênh hình, mô hình, sơ
đồ. . .
33,3 53,3 13,3
2.8 Kĩ năng thiết kế các bài tập lịch sử 50,6 37,3 12.0
139
Phạm Thị Kim Anh
2.9
Kĩ năng khai thác nội dung bài dạy vào việc
giáo dục và phát triển học sinh 42,6 40.0 17,3
2.10 Kĩ năng bổ sung các hoạt động bổ trợ cho giờ
lên lớp
53,3 36.0 10,6
2.11
Kĩ năng soạn các mẫu biểu tài liệu để HS làm
việc trên lớp
53,3 37,3 9,3
3 Kĩ năng tổ chức dạy học (trên lớp - Ngoàilớp)
3.1
Kĩ năng dẫn nhập, nêu vấn đề, tạo hứng thú
cho HS
46,6 40.0 13,3
3.2
Kĩ năng liên hệ, khai thác vốn kinh nghiệm,
kiến thức lịch sử đã có của HS
42,6 46,6 10,6
3.3 Kĩ năng gợi mở vấn đề từ các sự kiện trong
cuộc sống
49,3 36.0 14,6
3.4
Kĩ năng tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật
LS (qua thuyết trình, phim ảnh, hiện vật, đồ
dùng trực quan. . . )
40.0 33,3 26,6
3.5 Kĩ năng diễn giảng, so sánh, phân tích, khái
quát hóa các vấn đề lịch sử
33,3 40,0 26,6
3.6
Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong diễn đạt,
trình bày các vấn đề lịch sử.
37,3 40.0 22,6
3.7 Kĩ năng nêu câu hỏi và gợi ý HS trả lời 33,3 37,3 20,9
3.8
Kĩ năng xác định và phân tích mối liên hệ, ảnh
hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng
LS với nhau (VD: Mối liên hệ giữa hoàn cảnh
LS với SK, hiện tượng; Giữa LS thế giới với
Việt Nam. . . )
53,3 36.0 10,6
3.9
Kĩ năng nhận xét, đánh giá, rút ra bài học lịch
sử từ những sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS 32.0 41,3 26,6
3.10 Kĩ năng trình bày bảng và sử dụng đồ dùng
DH
41,3 37,3 21,3
3.11
Kĩ năng tổ chức cho HS thảo luận, làm việc
theo nhóm/cá nhân
44,0 36,0 20,0
3.12
Kĩ năng liên hệ kiến thức trong sách vở với
các vấn đề của thực tiễn đang đặt ra (xung đột
trên thế giới, tranh chấp biên giới, hải đảo, xu
thế hội nhập toàn cầu hóa. . . ) và thực tiễn địa
phương
72,0 17,3 10,6
3.13 Kĩ năng đánh giá, nhận xét, khuyên khích HS 40.0 40.0 20.0
3.14
Kĩ năng hỗ trợ HS đặc biệt và xử lí các tình
huống xảy ra trong giờ dạy học 66,6 20.0 13,3
140
Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...
3.15
Kĩ năng kích thích HS hứng thú và say mê học
tập 52,0 40,0 8,0
3.16
Kĩ năng gây ảnh hưởng,“truyền lửa” cho HS
trong DH bằng nhiệt huyết và khéo léo sư
phạm
58,6 30,6 10,6
3.17
Kĩ năng gây ảnh hưởng đến HS bằng phong
cách, tác phong, phương pháp dạy học
44,0 33,3 22,6
3.18
Kĩ năng kiểm soát cảm xúc và sử dụng cảm
xúc của mình làm công cụ tác động đến HS 54,6 32.0 13,3
4 Kĩ năng kiểm tra, đánh giá kết quả học tậpcủa HS
4.1 Kĩ năng xây dựng đề kiểm tra, đánh giá 41,3 36,0 22,6
4.2
Kĩ năng lựa chọn và xác định các hình thức,
phương pháp kiểm tra, đánh giá
40,0 46,6 13,3
4.3
Kĩ năng nhận xét, đánh giá, phản hồi kết quả
học tập của HS 42,6 36.0 21,3
Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng năng lực DH của GV Lịch sử ở THCS [2]
Những con số trên đã cho chúng ta thấy:
- Những kĩ năng DH đạt mức độ rất thành thạo không vượt quá 37.3%. Ngay cả những kĩ
năng DH cơ bản nhất như “Kĩ năng nghiên cứu tài liệu để tham khảo” cũng chỉ đạt 29,9%; “Kĩ
năng tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS qua thuyết trình, phim ảnh, hiện vật, đồ dùng trực
quan; Kĩ năng diễn giảng, so sánh, phân tích, khái quát hóa các vấn đề lịch sử”; “Kĩ năng nhận xét,
đánh giá, rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS” cũng chỉ đạt 26,6%.
Nhiều kĩ năng DH khác ở mức rất thành thạo chỉ đạt trên dưới 20%, thậm chí dưới 10% (Kĩ năng
kích thích HS hứng thú và say mê học tập lịch sử (8%); Kĩ năng soạn các mẫu biểu tài liệu để HS
làm việc trên lớp (9,3%); Kĩ năng tìm hiểu khả năng nhận thức, trình độ tư duy lịch sử của HS
(6,6). . .
Điều đáng chú ý là nhiều kĩ năng DH của GV ở mức chưa thành thạo lại chiếm tỉ lệ khá
cao: Kĩ năng liên hệ kiến thức trong sách vở với các vấn đề của thực tiễn đang đặt ra (xung đột trên
thế giới, tranh chấp biên giới, hải đảo, xu thế hội nhập toàn cầu hóa. . . và thực tiễn địa phương)
(72%); Kĩ năng hỗ trợ HS đặc biệt và xử lí các tình huống xảy ra trong giờ dạy học (66,6); Kĩ năng
gây ảnh hưởng,“truyền lửa” cho HS trong DH bằng nhiệt huyết và khéo léo sư phạm (58,6%); Kĩ
năng kiểm soát cảm xúc và sử dụng cảm xúc của mình làm công cụ tác động đến HS (54.6%); Kĩ
năng xác định và phân tích mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng LS với
nhau; Kĩ năng bổ sung các hoạt động bổ trợ cho giờ lên lớp; Kĩ năng soạn các mẫu biểu tài liệu
để HS làm việc trên lớp (53,3%); Kĩ năng thiết kế các bài tập lịch sử (50,6%); Kĩ năng nghiên cứu
chương trình - SGK; Kĩ năng dẫn nhập, nêu vấn đề, tạo hứng thú cho HS (46.6%). Đây là một thực
tế đáng lo ngại về năng lực DH lịch sử của đội ngũ GV.
Với những năng lực và kĩ năng hiện có mà GV tự đánh giá ở trên, kết quả khảo sát còn cho
biết: chỉ có 56% GV khẳng định có thể đáp ứng được với những yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ
thông sắp tới, 44% GV cho rằng chưa đáp ứng, hoặc đáp ứng một phần. Như vậy, có tới gần một
nửa số GV cần phải được bồi dưỡng về năng lực DH.
141
Phạm Thị Kim Anh
2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực dạy học của giáo viên
Nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực DH của GV có rất nhiều. Báo chí và các hội
thảo khoa học về giảng dạy môn Lịch sử ở trường phổ thông đã mổ xẻ và phân tích nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Ở đây chúng tôi xin đưa ra mấy nguyên nhân cơ bản sau:
- Trước hết, nguyên nhân cơ bản và đầu tiên bắt nguồn từ khâu đào tạo sư phạm. Có thể nói,
trong nhiều năm qua việc đào tạo GV ở các trường sư phạm còn nặng về “lí thuyết”, nhẹ “rèn kĩ
năng, nghiệp vụ”, trong đó năng lực dạy học và giáo dục chưa trở thành vấn đề cốt lõi, giường cột
trong đào tạo nghề. Điều này dẫn đến kết quả là SV khi ra trường “giàu kiến thức” nhưng “nghèo
kĩ năng”, yếu về năng lực. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho biết có tới 48% GV đã khẳng định
điều này.
- Thứ hai, trong quá trình giảng dạy ở phổ thông, nhiều GV chưa tích cực trau dồi chuyên
môn, nghiệp vụ; sức ì trong tự học, tự nghiên cứu và sự bảo thủ, trì chệ là rào cản chính trong việc
nâng cao năng lực nghề. Có tới 54,6% GV đã cho biết điều này.
- Thứ ba, từ nhiều năm nay vị thế của môn Lịch sử không được coi trọng trong nhà trường,
luôn bị coi là môn phụ, thậm chí không còn là môn thi tốt nghiệp nên GV giảng dạy bộ môn Lịch
sử không có động lực và nhiệt huyết để nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như phấn đấu trở
thành GV dạy giỏi. Có tới 64% GV cho rằng đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới
sự phát triển năng lực của GV.
- Thứ tư, hiện nay hầu hết GV ở THCS đều dạy chéo môn: GV môn Ngữ văn, Địa lí thường
dạy kiêm luôn cả môn Lịch sử, thậm chí có GV dạy môn Giáo dục công dân hoặc tin học cũng dạy
kiêm cả môn Lịch sử. Vì vậy, họ không có chuyên môn sâu do không được đào tạo. Điều này dẫn
đến tình trạng GV chỉ biết đọc và dạy những gì đã viết trong SGK. Họ không có những kĩ năng
cần thiết để dạy môn Lịch sử.
- Thứ năm, hoạt động tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn cho GV của Phòng, Sở GD tuy được
tổ chức thường xuyên, nhưng cũng mới chỉ là phần ngọn và là “lớp sơn phủ” bên ngoài chứ chưa
thực sự hiệu quả, chưa tạo niềm tin và động lực cho GV thay đổi từ bên trong để tự học, tự bồi
dưỡng để giúp GV đủ năng lực thực hiện sự đổi mới.
- Thứ sáu, cơ chế, cách thức quản lí chuyên môn từ Sở GD&ĐT cho đến các nhà trường phổ
thông nặng về hành chính với những công việc kiểm tra hồ sơ sổ sách, giấy tờ quá nhiều khiến GV
mệt mỏi, tốn thời gian. Nhiều loại sổ sách GV phải làm chỉ có một mục đích duy nhất là để đối
phó với thanh tra mà nó không có tác dụng nâng cao năng lực dạy học cho GV.
- Cuối cùng, việc tuyển dụng GV vào biên chế làm việc cả đời, không có cạnh tranh, không
có sa thải, dù năng lực DH yếu kém vẫn tiếp dục dạy học đã dẫn đến nhiều GV không có động lực
để phấn đấu vươn lên.
3. Kết luận
Giáo viên là người quyết định chất lượng giáo dục và là yếu tố then chốt của mọi sự cải
cách, đổi mới giáo dục. Bất kể thời đại nào, không có thầy giỏi cả về năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm thì khó có thể có một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nhìn vào thực tế trên
đây chúng ta thấy rằng, năng lực DH của đội ngũ GV phổ thông nói chung, của GV Lịch sử nói
riêng đang là vấn đề đáng lo ngại trước yêu cầu đổi mới giáo dục. Chính bởi vậy, cần có những giải
pháp cụ thể và mạnh mẽ trong đào tạo và bồi dưỡng GV để nâng cao chất lượng đội ngũ. Trách
nhiệm này trước hết thuộc về các trường sư phạm và Cục nhà giáo. Muốn làm được điều này, Cục
Nhà giáo và các Trường sư phạm cần chủ động tiến hành:
- Khảo sát, đánh giá lại năng lực của người GV một cách chính xác, khách quan.
142
Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...
- Đối chiếu với yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới để thấy rõ cái đang cần và
đang thiếu của GV, từ đó xác định nội dung cần bồi dưỡng cho GV và xây dựng các chương trình
bồi dưỡng cho sát hợp với nhu cầu thực tiễn.
- Biên soạn các tài liệu bồi dưỡng GV theo từng nội dung hoặc chủ đề để GV tự học, tự
bồi dưỡng tại cơ sở (các chuyên đề đó phải là những chuyên đề mới, sát hợp với yêu cầu đổi mới
như: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS; dạy học tích hợp và lồng ghép; dạy học
phân hóa; Tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo; các phương pháp, hình thức dạy học
và cách thức kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực HS... Những tài liệu này cần
được viết dưới dạng như những sách cẩm nang với những hướng dẫn cụ thể để GV dễ vận dụng,
tránh hàn lâm, lí thuyết.
- Thiết kế một số giáo án mẫu, các tiết dạy minh họa (qua băng hình) thể hiện cách thức dạy
học theo hướng đổi mới nói trên để GV học tập, vận dụng.
Trong công tác bồi dưỡng, đào tạo lại, giảng viên các trường đại học sư phạm trọng điểm
phải là lực lượng chủ yếu trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng để đảm bảo chất lượng của đội quân
“chuyên nghiệp” đi dạy nghề, tránh để các trường sư phạm “đứng ngoài cuộc nhìn vào” hoặc chỉ
đóng vai trò “được mời tham gia” như thời gian dài trước đây.
Cần lưu ý rằng, việc tổ chức bồi dưỡng, tập huấn GV là hết sức cần thiết nhưng đó mới chỉ
là "lớp sơn" phủ bên ngoài và không thể thay thế được "chất gỗ" bên trong. Điều cốt yếu cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ GV là từ Sở đến các nhà trường phải có cơ chế quản lí GD thích hợp
tác động đến khối óc và con tim GV để họ thay đổi từ bên trong, tạo cho GV động cơ tích cực để
tự học, tự đào tạo, tự nghiên cứu mà vươn lên. Có như vậy GV mới thực sự nâng cao năng lực nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đặng Tự Ân, 2015. Năng lực nghề nghiệp của giáo viên trong thời kì đổi mới, Báo cáo hội
thảo quốc gia Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giáo dục tiểu học. Nxb Hồng Đức.
[2] Phạm Thị Kim Anh, 2016. Kết quả khảo sát thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch
sử ở Trung học Cơ sở, Đề tài Khoa học cấp trường, Mã số SPHN 16-01-VNCSP.
[3] Nguyễn Thị Thế Bình, 2016. Phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ngành sư phạm lịch
sử trước yêu cầu đổi mới. Kỉ yếu hội thảo khoa học “Trường sư phạm trong phát triển năng
lực nghề nghiệp cho GV phổ thông đáp ứng chương trình giáo dục mới”. Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, trang 193.
[4] Bộ GD&ĐT, 2015, Những vấn đề chung về phát triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài
liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên phổ thông về phát triển chương
trình đào tạo).
[5] Phạm Văn Hà, 2011. Góp phần giải quyết những bức xúc và yếu kém trong dạy học lịch sử
hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập
quốc tế & phát triển kĩ năng tự học cho HS” Bộ GD&ĐT – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tr. 92.
[6] Thành Huế, 2013. Nhiều giáo viên “muối mặt” sau cuộc kiểm tra chất lượng. Báo Người
Lao động,  ngày 19.4.2013.
[7] Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Mẫn, 2011. Năng lực và kĩ năng cần thiết của người GV
đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông hiện nay. Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt, tháng
9/2011, trang 66.
143
Phạm Thị Kim Anh
[8] Vũ Xuân Hùng, 2016. Về hệ thống năng lực dạy học của nhà giáo trong các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp theo tiếp cận năng lực thực hiện. Tạp chí khoa học dạy nghề, Số 30 – tháng
3/2016.
[9] Phạm Văn Lực, 2016. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực sư phạm cho GV phổ thông ở Tây Bắc. Kỉ yếu hội
thảo khoa học “Trường sư phạm trong phát triển năng lực nghề nghiệp cho GV phổ thông
đáp ứng chương trình giáo dục mới”. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tr. 229.
[10] Trần Đức Minh, 2011. Cần một đội ngũ GV dạy Sử ở trường phổ thông vừa yêu nghề vừa
được đào tạo bài bản. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối
cảnh hội nhập quốc tế & phát triển kĩ năng tự học cho HS” Bộ GD&ĐT - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, tr. 36.
[11] Nghị quyết về đổi mới chương trình - sách giáo khoa giáo dục phổ thông (NQ số:
88/2014/QH13, ngày 28/11/2014)
[12] Đỗ Tấn Ngọc, 2016. Vì sao giáo viên bị choáng trước các yêu cầu đổi mới của Bộ. http://
giaoduc.net.vn 14/11/2016.
[13] Phạm Hồng Quang, 2009. Giải pháp đào tạo giáo viên theo định hướng năng lực. Tạp chí
Giáo dục, Số 216, tr. 9-12.
[14] Đỗ Hồng Thái, 2011. Nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường phổ thông từ việc đổi
mới CT-SGK. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội
nhập quốc tế & phát triển kĩ năng tự học cho HS” Bộ GD&ĐT - Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, tr 59.
[15] Nghiêm Đình Vỳ, 2011. Suy nghĩ về đào tạo GV Lịch sử thời kì toàn cầu hóa giáo dục-đào
tạo. Kỉ yếu Hội thảo quốc gia “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập quốc
tế & phát triển kĩ năng tự học cho HS” Bộ GD&ĐT - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 8.
ABSTRACT
Reality of teaching competence of history teachers in secondary schools
under requirements of general education innovation
Pham Thi Kim Anh
Institute for Educational Research, Hanoi National University of Education
Educational Innovation is putting new demands on teaching competence of history teachers.
If we want to conduct training and retraining teachers to have teaching competence in response
to the new program and textbooks, firstly, we need to assess the current reality of teaching
competence of history teachers in secondary schools today. Then, the content of this article focuses
on analyzing and assessing the situation of teaching competence of history teachers in secondary
schools and indicates the causes of the limitation in teaching competence of teachers.
Keywords: Teaching competencies, History teacher, Genneral education innovation.
144

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_nang_luc_day_hoc_cua_giao_vien_lich_su_o_trung_ho.pdf