Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – thực trạng và giải pháp

Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua

chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội

(ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình

giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên

cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy được

thực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kết

quả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việc

học trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng

thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa

của người Nhật”. Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi

phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức

dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn.

pdf 15 trang kimcuc 6420
Bạn đang xem tài liệu "Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – thực trạng và giải pháp

Thử nghiệm mô hình giảng dạy tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giảng viên người Nhật Bản – thực trạng và giải pháp
181Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH GIẢNG DẠY 
TIẾNG NHẬT HỘI THOẠI TRỰC TUYẾN VỚI GIẢNG VIÊN 
NGƯỜI NHẬT BẢN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
Thân Thị Mỹ Bình* 
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận bài ngày 30 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 03 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết này phân tích mô hình dạy và học hội thoại tiếng Nhật trực tuyến thông qua 
chương trình thử nghiệm của sinh viên năm thứ 2, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội 
(ĐHQGHN),với mục đích làm sáng tỏ tính hữu dụng cũng như những điểm cần khắc phục của mô hình 
giảng dạy hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cơ quan giáo dục. Đối tượng người học của nghiên 
cứu này là 6 sinh viên, và đối tượng người dạy là 1 giảng viên người Nhật. Toàn bộ quá trình giảng dạy được 
thực hiện trực tuyến qua hệ thống zoomchat trực tuyến với tần suất 1 tuần một buổi và kéo dài 4 tháng. Kết 
quả cho thấy phản hồi tích cực từ phía người học cũng như người dạy. 100% người học phản hồi rằng việc 
học trực tuyến với giáo viên bản ngữ giúp người học “nâng cao năng lực tiếng Nhật và kỹ năng mềm”, đồng 
thời “nâng cao khả năng hội thoại”, “cải thiện vấn đề phát âm tiếng Nhật”, “hiểu biết sâu hơn về văn hóa 
của người Nhật”... Phía người dạy cũng cho rằng việc giảng dạy trực tuyến mang lại nhiều lợi ích về “chi 
phí, địa điểm và thời gian”, cũng như kết nối người học từ nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, hình thức 
dạy và học này giúp người học “Tới gần Nhật Bản” hơn. 
Từ khóa: giảng dạy trực tuyến, tiếng Nhật, ngoại ngữ
1. Bối cảnh1
 Dạy và học ngoại ngữ trực tuyến đã 
không còn là mới mẻ với việc giảng dạy 
ngoại ngữ ở Việt Nam và trên thế giới. Thế 
nhưng, việc học và dạy tiếng Nhật trực tuyến 
thì ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ. Đặc 
thù của tiếng Nhật là nguyên nhân khiến các 
cơ quan giảng dạy tiếng Nhật còn nhiều băn 
khoăn khi áp dụng mô hình toàn cầu hóa này 
vào công tác dạy và học. Tuy nhiên, thực tế 
là giáo dục tiếng Nhật tại Việt Nam đang đối 
mặt với thực trạng thiếu giáo viên giảng dạy 
do số lượng người học tăng đột biến. Ngoài 
ra, xu thế quốc tế hóa về giáo dục ngoại ngữ 
nhằm sớm đưa người học tiếp xúc với môi 
* ĐT.: 84-978 969 297 
Email: mybinh.ulis@gmail.com
trường bản địa, dễ dàng hòa nhập với thực 
tế ở nước ngoài cũng ngày càng trở nên phổ 
biến. Với thực tế này, việc áp dụng mô hình 
giảng dạy trực tuyến với giáo viên bản địa là 
một bước đi đúng hướng và cần được xem 
xét một cách nghiêm túc. Một điểm nữa cũng 
cần phải nhìn nhận tình trạng chung của 
người học ngoại ngữ Việt Nam là chăm chỉ, 
nắm chắc ngữ pháp, nhưng lại không áp dụng 
được vào giao tiếp, công việc và cuộc sống 
sinh hoạt hằng ngày, khả năng giao tiếp còn 
nhiều hạn chế. Xuất phát từ hiện trạng thực 
tế trên, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản 
(sau đây gọi tắt là KNN&VHNB), trường Đại 
học Ngoại ngữ (sau đây gọi tắt là ĐHNN) 
đã tiến hành thử nghiệm mô hình giảng dạy 
tiếng Nhật hội thoại trực tuyến với giáo viên 
182 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
người Nhật Bản, với mong muốn làm sáng tỏ 
tính hiệu quả, cũng như những điểm cần khắc 
phục của mô hình giảng dạy này, nhằm chuẩn 
bị cho việc áp dụng mô hình giảng dạy này 
trong trường hợp cần thiết. 
2. Vài nét về giảng dạy tiếng Nhật trực 
tuyến và đặc điểm tại Việt Nam 
Theo Sái Thị Mây (2017:55), giáo dục 
tiếng Nhật trực tuyến tại Việt Nam đang ngày 
càng đa dạng, có triển vọng dù phát triển 
muộn so với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. 
Tới năm 2017, đã có hơn 20 cơ quan giảng 
dạy (chủ yếu là các trung tâm và trường dạy 
tiếng Nhật) áp dụng mô hình giảng dạy này. 
Dù vậy, hầu hết các cơ quan vẫn duy trì hai 
loại hình giảng dạy trực tiếp và kết hợp với 
trực tuyến, đồng thời chủ yếu áp dụng với đối 
tượng người học có mục đích thi lấy chứng 
chỉ tiếng Nhật (JLPT). Ngoài ra, Sái Thị Mây 
chỉ ra rằng các cơ quan áp dụng hình thức 
giáo dục tiếng Nhật trực tuyến này hầu hết là 
các trung tâm giảng dạy tiếng Nhật còn non 
trẻ. Nhưng điểm nổi bật rất đáng quan tâm 
trong nghiên cứu này là Sái Thị Mây đã nhấn 
mạnh rằng việc học trực tuyến với người bản 
ngữ giúp người học phát triển kỹ năng hội 
thoại, phát âm và để phát triển hai kỹ năng 
này của tiếng Nhật cần phải tiến hành với 
giảng viên là người Nhật. Kỹ năng hội thoại, 
vấn đề phát âm của người học ngoại ngữ là 
vấn đề nan giải của hầu hết các cơ quan giảng 
dạy tiếng Nhật ở Việt Nam. Việc phát âm sai, 
lệch chuẩn của người học tiếng Nhật là một 
trong những nguyên nhân gây trở ngại trong 
giao tiếp bằng tiếng Nhật của người Việt 
Nam. 
 Toda Takako (2017:02) cũng nhấn mạnh 
tầm quan trọng của việc sử dụng Internet để 
giảng dạy tiếng Nhật như một phương pháp 
hữu hiệu và hết sức cần thiết. Trong nghiên 
cứu này, Toda đã nghiên cứu hiệu quả giảng 
dạy tiếng Nhật trực tuyến tại hệ thống giảng 
dạy và học trực tuyến quy mô lớn và hoàn 
toàn miễn phí do Đại học Havard kết hợp với 
Đại học Massachusetts cùng nghiên cứu phát 
triển. Hệ thống có có tên là MOOCs (Massive 
Open Online Courses: 大規模公開オンライ
講座). Khóa học tiếng Nhật trực tuyến cho 
mọi người yêu thích học tiếng Nhật được 
giảng dạy trực tiếp trên mạng lưới này đã 
chính thức đi vào hoạt động từ tháng 11 năm 
20161, và tới thời điểm này đã có hơn 25,0002 
người học đăng ký thuộc 170 quốc gia trên 
thế giới. Theo đó, khóa học trực tuyến này 
đã thu được những thành quả tích cực như số 
người đăng ký học và duy trì khóa học luôn ở 
mức cao hơn 20,000 người. Số người tiếp tục 
học lên trình độ tiếp theo cũng luôn chiếm 
hơn 50% số lượng đã đăng ký. Thậm chí, số 
người đăng ký để nhận được chứng chỉ kết 
thúc khóa học ở cũng ngày càng tăng lên. 
Dù vậy, Toda cũng nhấn mạnh rằng phương 
pháp giảng dạy trực tuyến còn nhiều khó 
khăn trong việc nắm bắt tâm lý người học, 
duy trì cũng như phát huy phẩm chất người 
học cũng còn nhiều trở ngại. 
Ngoài các nghiên cứu tiêu biểu trên, Japan 
Foundation3 – Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản 
tại Việt Nam cũng triển khai chương trình 
giảng dạy trực tuyến miễn phí với nội dung 
giảng dạy chú trọng kỹ năng giao tiếp trên 7 
quốc gia là Việt Nam, Thái Lan, Hàn Quốc, 
Indonesia, Ấn Độ, Malaysia và Peru. Ngoài 
việc công bố, chia sẻ rộng rãi trang web học 
trực tuyến, Japan Foundation còn chia sẻ giáo 
trình trực tuyến nhằm cung cấp cho người 
học, người dạy những thông tin đầy đủ nhất, 
1 Khóa học có tên là Japaneese Pronunciation for 
Communication (JPC).
2 Con số thống kê ở thời điểm tháng 11 năm 2017 
(Toda Takako, 2017:2).
3 Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản được thành lập năm 
1972, là một cơ quan đặc biêt của chính phủ Nhật 
Bản có nhiệm vụ thúc đẩy trao đổi văn hóa, nghệ 
thuật Nhật Bản và giáo dục tiếng Nhật ra nước ngoài. 
183Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
phát huy tối đa khả năng tự học, tự nghiên cứu 
của người học tiếng Nhật1. 
3. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp giảng dạy cần một quá 
trình, một thời gian dài thực hiện nên nghiên 
cứu này sử dụng phương pháp quan sát thực 
tế (participant observation) và phỏng vấn sâu 
với đối tượng người học là 6 sinh viên (sau 
đây gọi tắt là SV) năm thứ hai KNN&VHNB, 
đồng thời kết hợp phỏng vấn sâu với đối 
tượng người dạy là chuyên gia của cơ quan tổ 
chức dạy hội thoại trực tuyến tại Nhật Bản2.
Người quan sát thực tế tham gia trực tiếp các 
giờ học trực tuyến, đồng thời là người trực 
tiếp giảng dạy, là giáo viên chủ nhiệm đảm 
nhận 8 tiết/tuần các giờ học tiếng Nhật tổng 
hợp của 6 SV trên, cũng là người theo dõi sát 
sao sự thay đổi của người học trước và sau 
khi thực hiện khóa học. Các thay đổi của từng 
SV đều được tác giả ghi lại vào sổ tay nghiên 
cứu (field note3) . Phỏng vấn sâu được thực 
hiện trong vòng 30 phút với mỗi đối tượng và 
tất cả nội dung phỏng vấn đều được ghi âm 
lại phục vụ phân tích.Đặc biệt, các SV này 
đang theo học chương trình chất lượng cao 
(sau đây viết tắt là CLC) đã có trình độ tiếng 
Nhật từ trước khi vào đại học tương đương 
từ A2~B14. Thời gian thử nghiệm dạy và học 
1 Tham khảo trang web sau để biết thông tin chi tiết: 
https://www.marugoto.org/about/oversea/
2 Cơ quan hợp tác giảng dạy trực tuyến với 
KNN&VHNB là Tập đoàn Benesse Group của Nhật 
Bản. Benesse là một tập đoàn giáo dục tư nhân trực 
tuyến uy tín hàng đầu tại Nhật Bản. Xin tham khảo 
trang web: https://www.benesse-hd.co.jp/ja/
3 Tham khảo phụ lục field note ở cuối bài viết.
4 Theo nghiên cứu của Quỹ giao lưu quốc tế Nhật 
Bản về sự tương quan giữa tiêu chuẩn đánh giá tiếng 
Nhật chuẩn JF (JF Standard) và các mức độ đánh giá 
tiếng Nhật theo tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng 
Nhật hiện nay (JLPT), cấp độ A2 ~B1 của tiếng Nhật 
tương đương với trình độ N3 ~ N2 của JLPT. Trong 
đó, cấp độ A2 nghiêng về N3 và cấp độ B1 nghiêng 
trực tuyến từ tháng 12 năm 2018 tới tháng 4 
năm 2019. Các bước thực hiện lớp học chi 
tiết như Bảng 1 và thông tin cụ thể về người 
học ở Bảng 2. 
Bảng 1. Trình tự thực hiện khóa học 
thử nghiệm
Số TT Nội dung
1 Kiểm tra trình độ người học
2 Thăm dò ý kiến người học
3 Bố trí giáo viên theo năng lực và mong 
muốn người học
4 Thực hiện lớp học
5 Phản hồi từ người học
6 Phản hồi từ người dạy
7 Tổng kết về khóa học
Theo bảng 1, trước khi khóa học bắt đầu 
từ mục 4, cơ quan giảng dạy trực tuyến đã 
tiến hành 3 bước quan trọng nhằm bố trí lớp 
học phù hợp nhất với người học. Trong đó, 
khâu quan trọng là kiểm tra trình độ người 
học để lựa chọn chương trình dạy, được 
thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực 
tuyến trong vòng 15 phút. Nội dung phỏng 
vấn được thiết kế để đo năng lực tiếng Nhật 
của người học theo tiêu chí đánh giá kỹ năng 
hội thoại chuẩn tiếng Nhật JF. Tiêu chí đánh 
giá này được Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản 
xây dựng trên cơ sở tiêu chính đánh giá năng 
lực tiếng Anh của Khung tham chiếu Châu 
Âu (CEFR). Người học không chỉ trả lời câu 
hỏi đơn thuần, mà trả lời các câu hỏi từ đơn 
giản tới phức tạp, có thể xác định được cách 
sử dụng ngữ pháp, cách dùng từ, phân tích 
tình huống và nêu quan điểm. Với các trình 
tự chặt chẽ trên, thông tin cụ thể và năng lực 
tiếng Nhật của đối tượng người học trước khi 
chương trình dạy học trực tuyến tiến hành 
khái quát như Bảng 2 sau đây. 
về phía trình độ của N2. Tiêu chuẩn đánh giá tiếng 
Nhật chuẩn JF này được căn cứ vào tiêu chí đánh 
giá năng lực tiếng Anh dựa theo Khung tham chiếu 
chung châu Âu (CEFR).
184 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
Bảng 2. Thông tin người học 
Số thứ tự
Trình độ tiếng Nhật
trước khi tham dự
Thời gian học Số buổi tham dự
VN 01 N2 12/2018 6
VN 02 N2 12/2018 4
VN 03 N2 12/2018 4
VN 04 N2 12/2018 6
VN 05 N3 12/2018, 2~3/2019, 4~7/2019 18
VN 06 N2 12/2018, 2~3/2019 8
Theo số liệu của Bảng 2, các SV02, SV03 
tham gia 4 buổi học và SV01, SV02 tham gia 
6 buổi học. SV06 tham gia 8 buổi học, riêng 
SV 05 tham gia được 18 buổi. Sự chênh lệch 
về thời gian tham gia này là do các môn học 
chung bị trùng với khung thời gian học online. 
Ngoài ra, ban đầu khóa học thử nghiệm dự 
định tiến hành trong vòng 2 tháng. Nhưng 
trường hợp của VN05 được đặc biệt theo học 
tiếp tới thời điểm tháng 7 năm 2019 vì có sự 
cố gắng và tiến bộ rõ rệt nhất trong tất cả các 
SV tham dự. Để hiểu rõ hơn về tính hiệu quả 
cũng như thực tiễn tình hình khóa học, phần 4 
tiếp theo sẽ khái quát về thực trạng người học 
trước khi tham gia khóa học.
4. Thực trạng người học trước khi tham gia 
khóa học
 Ở phần phân tích thực trạng, thực tiễn 
tình hình người học trước khi tham gia khóa 
học, nội dung sẽ được trình bày theo các từ 
khóa như sau: Năng lực người học, nguyện 
vọng người học, cơ hội tiếp xúc với người 
Nhật, thời gian học tiếng Nhật.
4.1. Năng lực người học
 Như đã trình bày ở mục 3, năng lực người 
học trong nghiên cứu này được các giảng viên 
người Nhật tiến hành đánh giá bằng một bài 
kiểm tra phỏng vấn trực tuyến thông qua phần 
mềm trực tuyến Skype. Người tiến hành phỏng 
vấn trực tuyến là chuyên gia về giáo dục tiếng 
Nhật của Benesse, phụ trách các chương trình 
sách giáo khoa, tài liệu tham khảo tiếng Nhật, 
thiết kế chương trình học và giảng dạy tiếng 
Nhật8. Chủ đề của phỏng vấn xoay quanh nhà 
trường, học tiếng Nhật cũng như mong muốn 
của SV với khóa học. Thời gian phỏng vấn với 
mỗi SV là 15 phút và tiến hành hai lượt, với 
hai người hỏi khác nhau. Cụ thể như sau: 
Bảng 3. Kết quả kiểm tra năng lực tiếng Nhật trước khóa học91
Số thứ tự
Hội thoại Nghe Ngữ pháp Viết Tổng điểm
40 15 15 30 100
VN 01 15 5 10.5 24 54.5
VN 02 28 5 10.5 30 73.5
VN 03 19.5 5 12 21.5 58
VN 04 34.5 5 13 30 82.5
VN 05 26 0 12 12 50
VN 06 30 10 13.5 12 65.5
Bình quân 25.5 5.0 11.9 21.5 63.9
Tỉ lệ 63.7% 33.3% 79.3% 71.6% 61.9%
8. Theo chia sẻ từ phía cơ quan giảng dạy Benesse.
9. Kết quả kiểm tra này do các giảng viên của cơ quan đào tạo trực tuyến Nhật Bản tiến hành với toàn bộ SV lớp CLC QH 
2018 của Trường ĐHNN – ĐHQGHN.Nội dung phỏng vấn dựa trên cơ sở năng lực từng người học cung cấp ở bảng 2.
185Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
Số liệu ở Bảng 3 cho thấy người học được 
kiểm tra 4 kỹ năng trước khi tham gia khóa học 
là nghe, nói, đọc, viết. Điểm cho kỹ năng hội 
thoại là 40, kỹ năng nghe là 15, kỹ năng ngữ 
pháp là 15, và viết là 30. Tổng điểm 4 kỹ năng 
là 100. Với sự phân bố điểm số này, có thể thấy 
cơ quan giảng dạy coi trọng kỹ năng giao tiếp, 
hội thoại của người học khi cho số điểm của 
hội thoại là cao nhất với 40 điểm. Nội dung 
của bài kiểm tra các kỹ năng dựa trên năng lực 
tiếng Nhật mà SV cung cấp ở Bảng 2. Bài kiểm 
tra theo hình thức trắc nghiệm trực tiếp trên hệ 
thống trực tuyến với thời gian cho mỗi kỹ năng 
nghe, ngữ pháp, hội thoại là 15 phút. Riêng bài 
viết làm theo hình thức tự luận với chủ đề liên 
quan tới mong muốn, kỳ vọng của người học ở 
khóa học trực tuyến. 
 Theo kết quả ở Bảng 3, nhìn chung khả 
năng ngữ pháp và viết của các SV tương đối 
khả quan. Cụ thể là tỉ lệ hoàn thành bài ngữ 
pháp là 79.3%, tỉ lệ hoàn thành bài viết cũng 
là 71.6%. Ngược lại, tỉ lệ hoàn thành của bài 
hội thoại là 63.7% và nghe là 33.3%, thấp 
hơn nhiều so với kỹ năng viết và ngữ pháp. 
Kết quả này cũng cho thấy dù SV đã đạt được 
trình độ tiếng Nhật nhất định (Bảng 2) nhưng 
năng lực giao tiếp, trao đổi của SV còn hạn 
chế. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy sự không 
đồng đều về lực học giữa các cá nhân. Điều 
này thường ảnh hưởng tới chất lượng của một 
lớp học do thiếu sự đồng nhất, dẫn tới sự lệch 
pha trong việc truyền tải của người dạy và tiếp 
nhận kiến thức của người học. Tuy nhiên, ở 
lớp học trực tiếp hiện nay, việc bố trí một lớp 
học tương ứng với từng trình độ người học là 
một khó khăn. Và điều này có thể khắc phục 
bằng cách giảng dạy trực tuyến. 
 Khi được hỏi về mức độ tự tin trong quá 
trình sử dụng tiếng Nhật, rất ít SV khẳng định 
mình có thể tự tin trong quá trình giao tiếp, 
cũng như trong việc đọc hay viết, thậm chí cả 
vấn đề từ vựng. Kết quả này thể hiện ở Biểu 
đồ 1 dưới đây. Biểu đồ cho thấy mặc dù l ... ng đánh giá cao về tính 
thực tế trong hội thoại khi các nội dung học 
xoay quanh các chủ đề thiết thực, gần gũi của 
cuộc sống. Sau đây là một số nhận xét cụ thể 
của SV sau khóa học: 
Bảng 10. Các nhận xét cụ thể của SV về khóa học
TT Đánh giá cụ thể
1 Có thể hội thoại được ở những tình huống thực tế (VN01, VN02, VN03, VN05, VN06)
2 Có thể giao tiếp được ở những tình huống mang tính giáo dục (VN03, VN05, VN06)
3 Có thể giao tiếp một cách tự nhiên, phù hợp (VN01, VN05, VN06)
4 Có thể hiểu được những quy định của xã hội và văn hóa của Nhật Bản như lễ nghi, phép tắc, 
hãy cách suy nghĩ của người Nhật (VN05, VN06)
5 Có thể giao tiếp với bạn bè (VN05, VN06)
6 Có thể giao tiếp với người lớn tuổi (VN06)
7 Có thể sử dụng tiếng Nhật một cách tự nhiên hơn, không sách vở (VN05)
8 Có một cách phát âm tốt, đúng hơn (VN05)
Năng lực tiếng Nhật của SV sau khóa học 
trực tuyến nhìn chung được cải thiện đáng kể. 
Nhưng nổi bật hơn cả là ở kỹ năng nghe và hội 
thoại. Ngoài ra, thành tích về kỹ năng đọc và 
viết có sự tiến bộ đồng đều ở từng người học. 
Điều này cũng một phần là do người học vừa 
kết hợp học khóa thử nghiệm trực tuyến vừa 
kết hợp với học theo chương trình chính quy 
tại KNN&VHNB. Tuy nhiên, thành tích về kỹ 
năng nghe và hội thoại thể hiện rõ rệt ở trường 
hợp của VN05, VN06. Trước khi tham gia 
khóa học, VN05 chỉ đạt điểm nghe là 0 trong 
khi VN06 có số điểm nghe là 10 trên tổng số 
điểm nghe là 15. Sau khóa học điểm kỹ năng 
của của VN05 là 10 còn với VN06 là 15. Điểm 
nghe của các trường hợp còn lại cũng đều tăng. 
Thành tích cụ thể của SV về các kỹ năng sau 
khóa học thể hiện như Bảng 11 sau đây. 
Bảng 11. Kết quả kiểm tra kết thúc khóa học1
Số thứ tự Hội thoại Nghe Ngữ pháp Viết Tổng điểm
40 15 15 30 100
VN 01 25 8 12 24 69
VN 02 30 9 12 30 81
VN 03 19.5 9 12.5 23 64
VN 04 36 8 13 30 87
VN 05 33 10 15 20 78
VN 06 35 15 14 20 84
Tỉ lệ 74.3% 65.5% 87.2% 81.6% 77.1%
Theo Bảng 11, ngoài VN05, VN06, thì các 
SV khác cũng đều có tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ đạt 
được điểm trung bình của 6 SV ở kỹ năng hội 
thoại tăng từ 58.3% (Bảng 3) lên 74.2%, ở kỹ 
năng nghe tăng từ 40.9% lên 65.5%, ở kiến 
thức ngữ pháp tăng từ 80.7% lên 87.2%, và ở1 
1 Thành tích do cơ quan giảng dạy cung cấp ở thời 
điểm kết thúc chương trình thử nghiệm vào tháng 4 
năm 2019.
192 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
kỹ năng viết tăng từ 71.2% lên 81.6%. Thành 
tích về kỹ năng nghe và hội thoại của VN01, 
VN05, VN06 đều tăng lên từ 3 đến 4 điểm. 
Tuy không có sự vượt bậc so với VN05 nhưng 
điều này cũng có thể hiểu được khi những SV 
này có số buổi học ít hơn rõ rệt so với VN05. 
5.3. Những điểm tích cực về khóa học.
 Ngoài những thành tích cụ thể trên, các 
SV cũng chia sẻ những điểm tích cực thu 
được từ khóa học hội thoại trực tuyến như 
được nói chuyện với người bản ngữ một cách 
định kỳ, thường xuyên. Việc được học một 
tiếng Nhật tự nhiên, với những chủ đề gần 
gũi là những điểm được SV đánh giá cao. 
Ngoài ra, giờ học linh hoạt và và địa điểm 
học tiện lợi cũng là một trong những ý kiến 
tích cực về hình thức giảng dạy này. Bảng 
12 dưới đây là thống kê những điểm tích cực 
về khóa học theo thứ tự tăng dần với câu hỏi 
khảo sát có nhiều lựa chọn trả lời. 
Bảng 12. Những điểm tích cực về khóa học
Thứ tự Các mặt tích cực
1 Có cơ hội nói tiếng Nhật một cách định kỳ
2 Có cơ hội nói chuyện với người bản ngữ
3 Vì học trực tuyến nên thời gian và địa điểm có thể linh hoạt
4 Được hướng dẫn và chỉ dạy của giáo viên chuyên gia
5 Được học như một buổi học cá nhân
6 Được học nhóm
7 Nội dung học gần gũi với cuộc sống
8 Được dạy cách phát âm của tiếng Nhật, cải thiện được phát âm tiếng Nhật
9 Được học tiếng Nhật một cách tự nhiên, không sách vở
Như vậy, qua khóa hoc ngắn hạn kéo dài 
từ 4 ~ 11 tuần, các SV đã chia sẻ nhiều sự 
thay đổi tích cực. Đặc biệt, thông qua những 
chia sẻ trên, có thể thấy rằng người học coi 
trọng năng lực giao tiếp trong cuộc sống hàng 
ngày, coi trọng việc tìm hiểu văn hóa, lối sống 
của người bản ngữ khi học ngôn ngữ của 
quốc gia đó. Ngoài ra, việc coi trọng yếu tố 
được tiếp xúc thường xuyên với người dạy là 
người bản ngữ, hay mong muốn người dạy là 
“chuyên gia” cho thấy sự chuyển mình mạnh 
mẽ trong yêu cầu của SV hiện nay với các cơ 
quan giảng dạy. Điều này cho thấy người học 
đã hiểu được “quyền lợi” của bản thân khi 
học ngoại ngữ. Một điểm nữa cũng cần lưu ý 
là việc người học coi trọng phát âm, lối diễn 
đạt tự nhiên, không theo một khuôn mẫu ... 
cho thấy người học đã có những kiến thức nền 
tảng về “học ngoại ngữ”, không đơn thuần 
chỉ là học theo sự chỉ dẫn của giảng viên như 
trước đây. 
5.4. Những vấn đề tồn đọng
 Vì là một khóa học thử nghiệm nhằm tìm 
hiểu và phân tích những vấn đề của giáo dục 
tiếng Nhật trực tuyến nên không tránh khỏi 
những bỡ ngỡ, đặc biệt là với SV Việt Nam, 
việc học trực tuyến vẫn còn là trải nghiệm mới 
mẻ. Nhưng khó khăn lớn nhất của hình thức 
giảng dạy này là các SV Việt Nam chưa có 
một phòng học trực tuyến chuyên dụng, phải 
sử dụng hệ thống Internet tại nhà khiến cho 
chất lượng giờ học ảnh hưởng. Ví dụ, trong 
buổi học đầu, VN05, VN06 đã không thể kết 
nối với hệ thống trực tuyến của giáo viên. 
Hoặc như giảng viên người Nhật nhiều lần 
chia sẻ về việc nghe thấy quá nhiều tạp âm 
trong giờ học, như tiếng còi xe, tiếng người 
193Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
gọi nhau, tiếng của một âm thanh nào đó từ 
công trường xây dựng. Nhiều giờ học đang 
học cũng bị gián đoạn do ảnh hưởng của 
đường truyền không tốt. Ngoài khó khăn về 
cơ sở thiết bị, sự khác biệt về yếu tố văn hóa 
cũng ảnh hưởng tới quá trình dạy và học. Do 
cô và trò không thực sự gặp gỡ nhau, chỉ nhìn 
thấy hình ảnh của nhau trên màn hình nên cử 
chỉ, điệu bộ không truyền tải hết được thông 
điệp. Một điểm tồn đọng nữa là thiếu các hoạt 
động cụ thể, giảng viên dù chuẩn bị các giáo 
tài phụ trợ mô tả cho hội thoại, nhưng để diễn 
tả, tái hiện hành động trên màn hình mà để 
người học hiểu một cách dễ dàng thì vẫn chưa 
thực tế. Những điểm tồn đọng này có thể tóm 
tắt bởi những từ khóa như sau: cơ sở vật chất, 
thiết bị, hoạt động lớp học, bị động về thời 
gian, yếu tố thấu cảm người học. Ngoài ra, 
chia sẻ từ người học về những điểm hạn chế 
về khóa học cũng có những điểm tương đồng 
với nhận xét của người dạy như cơ sở vật chất 
trang bị cho giờ học trực tuyến còn hạn chế, 
học sinh phải tự học ở nhà với thiết bị cá nhân. 
Hoạt động của giờ học lặp lại thường xuyên 
cũng khiến người học không có cảm giác tươi 
mới, không có sự thay đổi về hình ảnh, không 
gian buổi học... Ngoài ra, người học cũng có 
ý kiến khó điều chỉnh về thời gian nếu vừa 
học trực tiếp vừa học trực tuyến vì lịch học 
quá dạy không thể điều chỉnh được lịch học 
dù rất muốn tham gia khóa học. Một điểm nữa 
là dù học trực tuyến nhưng chi phí thực sự cho 
một giờ học trực tuyến với người bản ngữ vẫn 
nhiều hơn học trực tiếp ở Việt Nam1. 
6. Kết luận
 Với những ưu điểm và nhược điểm phân 
tích ở trên, có thể thấy mô hình giảng dạy trực 
tuyến có thể áp dụng trong trường hợp cần 
1. Thông tin này được giảng viên người Nhật chia 
sẻ trong quá trình phỏng vấn khi hỏi về khả năng 
vận dụng khóa học trực tuyến sau khóa học thử 
nghiệm. 
thiết vì những lợi ích sau:
•	 Thực tế hiện nay cho thấy việc thiếu 
giảng viên trong lĩnh vực giáo dục tiếng Nhật 
ngày càng trầm trọng, không chỉ giảng viên 
người Nhật mà cả giảng viên người Việt. Vì 
vậy, nếu áp dụng mô hình giảng dạy trực tuyến 
này, có thể tiết kiệm chi phí mời giảng viên từ 
Nhật Bản sang Việt Nam, cũng như đảm bảo 
rằng SV có thể tiếp xúc thường xuyên và đồng 
đều (với ai? Cái gì?) trong các giờ học. Giáo 
viên bản ngữ không chỉ hỗ trợ đắc lực cho các 
kỹ năng giao tiếp, văn bản mà còn là cầu nối 
để SV hiểu biết hơn về nền văn hoá của ngôn 
ngữ đích. 
•	 Sớm hình thành kỹ năng giao tiếp cho 
SV: Giờ học hội thoại trực tuyến giúp người 
học tập trung vào kỹ năng giao tiếp sẽ sớm 
giúp SV cải thiện kỹ năng hội thoại, vốn là 
điểm yếu của SV Việt Nam nói chung và SV 
học tiếng Nhật nói riêng. Sự tiến bộ rõ rệt ở 
trường hợp người học VN10 trong nghiên cứu 
này là một ví dụ. 
•	 Khắc phục được yếu tố địa điểm, thời 
gian, giảm bớt chi phí cơ sở vật chất: Giáo dục 
trực tuyến có thể giúp khắc phục yếu tố thiếu 
cơ sở vật chất, thời gian đến trường của SV 
cũng như của giảng viên. Với công nghệ kỹ 
thuật hiện nay, người học có thể tham gia vào 
lớp học đa chiều, sát với môi trường thực tế. 
Việc học với người bản ngữ cũng như những 
thông tin qua kênh trực tiếp này giúp cho 
người học rút ngắn được khoảng cách với xã 
hội và tình hình thực tế Nhật Bản. 
•	 Cải thiện khả năng phát âm, nâng cao 
tính tự nhiên trong giao tiếp: Do đặc thù ngôn 
ngữ, tiếng Nhật và tiếng Việt có nhiều điểm 
cần phân biệt trong cấu tạo âm tiết và người 
Việt có khá nhiều lỗi về phát âm tiếng Nhật 
(Sái Thị Mây, 2017; Toda, 2017). Điều này có 
khả năng được cải thiện bằng việc học trực 
tuyến với giảng viên người Nhật. Việc học với 
giáo viên bản địa giúp người học trau dồi kỹ 
194 T.T.M. Bình/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
năng giao tiếp một cách tự nhiên, không sách 
vở, cứng nhắc. 
•	 Người học có cơ hội thể hiện bản thân 
và cảm nhận thành quả học tập sau mỗi giờ 
học do bản thân cảm thấy mức độ “đạt được” 
sau khi thực hành trực tiếp với giảng viên 
người bản ngữ. Yếu tố này rất quan trọng 
trong quá trình học ngoại ngữ vì ở một lớp 
học đông người, nhiều SV không có cơ hội 
thể hiện bản thân cũng như có thể trình bày ý 
kiến, suy nghĩ của mình một cách cặn kẽ. 
Tuy nhiên, mô hình giảng dạy trực tuyến 
này cũng cần khắc phục được những yếu tố sau:
•	 Cơ sở vật chất: để thực hiện giờ học hiệu 
quả, cần có một hệ thống trực tuyến hoàn chỉnh, 
đảm bảo về âm thanh, hình ảnh để không ảnh 
hưởng tới các yếu tố cơ bản của giờ học. 
•	 Thấu cảm giữa người học, người dạy: 
do giờ học trực tuyến chỉ kéo dài 45 phút, 
giảng viên và SV không thực sự gặp gỡ nhau 
nên khó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng 
của SV ngoài mục đích sử dụng ngoại ngữ. 
Để việc học thực sự hiệu quả, giảng viên và 
SV cần có sự kết nối lâu dài, thấu cảm qua 
quá trình dạy học, gặp gỡ, giao lưu, hoạt động 
thực tế.
•	 Khắc phục yếu tố số đông: việc giảng 
dạy trực tuyến khó lòng tổ chức với một lớp 
học thực tế với hơn 30 SV như hiện nay. Vậy 
việc linh hoạt thời gian giảng dạy, học tập 
được áp dụng như thế nào thì vẫn là một câu 
hỏi đang cần điều tra thực nghiệm.
 Trên đây là một số kết quả sau một 
thời gian dài quan sát thực tế quá trình học 
thử nghiệm trực tuyến của nhóm SV CLC 
KNN&VHNB với tổ chức nghiên cứu giáo 
dục Benesse của Nhật Bản. Kết quả cho thấy 
nhiều điểm tích cực có thể ứng dụng vào thực 
tế giờ học hiện nay để cải thiện một số vấn đề 
hiện hữu trong giáo dục tiếng Nhật tại Khoa 
NN&VHNB Trường ĐHNN. Bên cạnh đó, 
cũng tồn tại những vấn đề cần đầu tư, nghiên 
cứu khảo sát kỹ hơn. Đặc biệt, đối tượng 
nghiên cứu trong bài viết này là những SV đã 
có trình độ tiếng Nhật nhất định, chưa thể nói 
là tình hình phổ biến của SV KNN&VHNB. 
Để có một cái nhìn toàn diện, thấu đáo hơn, 
tác giả cần tiến hành khảo sát với số đông, 
cũng như giờ học trực tuyến dưới nhiều hình 
thức đa dạng để phản ánh được tính chân thực. 
Tuy nhiên, người viết cũng hi vọng mang tới 
một cách tiếp cận mới, một hướng đi để những 
người có quan tâm chia sẻ. 
Tài liệu tham khảo
サイ ティ マイ(2017), 「ベトナムにおけるオンライ
ン教育の現状――オンライン日本語教育の重要
性」『早稲田日本語教育学』23,51-61.
handle.net/2065/00056320
戸田貴子・大久保雅子(2014)「新しい日本語教育実
践における学習者の学び−オンデマンド併用授業
における発音学習−」『早稲田日本語教育学』16, 
1-18. 
戸田貴子,大久保雅子,サイ ティ マイ(2016年
9月18日).「MOOCs(Massive Open Trực tuyến 
Courses)による日本語発音講座の開発プロセス」
早稲田大学日本語教育学会(早稲田大学).
戸田貴子(研究代表者)(2017)『グローバルMOOCs
における日本語発音オンライン講座の運用に関
する実証的研究』科研費基盤研究 (B) 17H02355
. https://kaken.nii.ac.jp/ja/grant/KAKENHI-
PROJECT-17H02355.
戸田貴子,サイ ティ マイ(2018)「グローバル
MOOCsにおける日本語発音オンライン講座の
使用調査――ベトナムで学ぶ学習者を対象とし
て」2018年度日本語・日本語教育学会主催ワーク
ショップ第1回日本研究・日本語教育ワークショッ
プ(ホーチミン市国家大学人文社会科学大学).
195Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 36, Số 2 (2020) 181 - 195
A PILOT MODEL FOR JAPANESE ONLINE TEACHING 
WITH JAPANESE TEACHERS – PROBLEMS AND SOLUTIONS
Than Thi My Binh
VNU University of Languages and International Studies
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: This study analyzed the model of teaching and learning Japanese conversations online through 
the pilot program of the second-year students of VNU University of Foreign Languages and International 
Studies, with the purpose of clarifying the program’s usefulness as well as issues to be improved. The 
informants included 6 students and a Japanese teacher via “zoomchat”. The whole pilot program lasted 4 
months with one session per week. Both the teacher and students demonstrated positive feedback about 
the program. 100% students expressed that online learning with the native teacher help them improve their 
‘Japanese proficiency and soft skills’, ‘conversational skills’, ‘Japanese pronunciation’, ‘understanding of 
Japanese culture’, amongst others. The teacher also talked of various benefits of online teaching in terms 
of ‘cost, venue and time’, and the possibility to connect learners from different countries around the world. 
Also, this online mode of teaching/learning brings the learners ‘closer to Japan’. 
Keywords: online teaching, Japanese, foreign language 
Phụ lục 1: Ví dụ về một trường hợp ghi chép trong sổ tay field note về quá trình học của 
SV VN06 (5 trong 8 buổi tham gia)1
Ngày tháng Bài học Những điểm lưu ý trong giờ học1 Phát âm
6/12/2018 8-1 Là một học sinh rất ưu tú, có tinh thần học hỏi cao. Dù chỉ có giáo viên và học 
sinh nhưng giờ học rất thuận lợi. Em cũng nắm rõ được cách “nhờ vả” nhưng 
còn băn khoăn ở cách “dẫn nhập” trước khi nhờ vả một việc cụ thể nào đó.
Phát âm 
rõ ràng, tự 
nhiên
13/12/2018 8-3 Giờ học hôm nay luyện cách nói “〜ましょう” và cách nói “〜じゃ遠慮
なく”, “いえ、大丈夫です” . VN06 đã hiểu cách sử dụng mẫu này 
nhưng khi giáo viên chỉ thị dùng cách nói “〜申し出をしてみてくださ
い”thì có vẻ như không hiểu chỉ thị của giáo viên. Giờ học bị kéo dài khi 
giáo viên giải thích về ngữ pháp này. Khi được hỏi là tài liệu học có khó với 
VN06 không thì được trả lời là “không”. 
Không có 
vấn đề gì 
về phát 
âm
15/12/2018 12/1 Lỗi dùng từ “〜頂きないでしょうか”. Ngoài ra còn bị sai về cách dùng khiêm 
nhường ngữ cũng như cách sử dụng hai động từ “休ませて/やめさせて”
VN06 có phát âm tốt, cách nói lưu loát thoạt đầu có cảm nhận là một học sinh 
có năng lực tiếng tốt nhưng chưa có chiều sâu trong các câu trả lời, chưa dùng 
được nhiều mẫu câu. 
22/12/2019 12/2 Thông thường VN06 có vấn đề gì chưa hiểu thì sẽ nói rõ ràng là chưa hiểu, 
nhưng trong hội thoại thì lại không nói rõ, im lặng. Thỉnh thoảng, bản thân 
VN06 cũng không trình bày được điều mình muốn nói, nội dung bị đảo lộn 
trước và sau. Tuy nhiên VN 06 có phát âm tốt, rất dễ hiểu. 
1/3/2019 12/3 Hiểu cặn kẽ nội dung của bài, ngoài ra còn giúp đỡ bạn cùng nhóm. Khi 
không hiểu em mạnh dạn hỏi nên rất dễ dạy. 
1 Nhận xét của giảng viên bằng tiếng Nhật được người quan sát giờ học diễn đạt lại.

File đính kèm:

  • pdfthu_nghiem_mo_hinh_giang_day_tieng_nhat_hoi_thoai_truc_tuyen.pdf