Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam

Bài viết đề cập đến quan điểm và hình thức thờ cúng tổ tiên của người

Công giáo Việt Nam qua tang ma, giỗ chạp, đám cưới, ngày Tết, ngày lễ các đẳng; sự

tương đồng và khác biệt giữa người Công giáo và người không Công giáo trong vấn

đề thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam; những tương đồng giữa Công giáo Việt Nam với

Công giáo Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản. Qua đó cho thấy quá trình tiếp biến và

hội nhập giữa văn hóa Công giáo với văn hóa bản địa ở Việt Nam.

pdf 13 trang kimcuc 9000
Bạn đang xem tài liệu "Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam

Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 70 
Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo Việt Nam 
Lê Đức Hạnh * 
Tóm tắt: Bài viết đề cập đến quan điểm và hình thức thờ cúng tổ tiên của người 
Công giáo Việt Nam qua tang ma, giỗ chạp, đám cưới, ngày Tết, ngày lễ các đẳng; sự 
tương đồng và khác biệt giữa người Công giáo và người không Công giáo trong vấn 
đề thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam; những tương đồng giữa Công giáo Việt Nam với 
Công giáo Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản. Qua đó cho thấy quá trình tiếp biến và 
hội nhập giữa văn hóa Công giáo với văn hóa bản địa ở Việt Nam. 
Từ khóa: Thờ cúng tổ tiên; Công giáo; văn hóa; Việt Nam. 
1. Mở đầu 
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng lâu 
đời của người Việt Nam. Trong mọi gia 
đình người Việt Nam từ lâu tín ngưỡng này 
đã trở thành đạo lý “uống nước nhớ nguồn” 
trên nền của “đạo hiếu”. Đạo thờ cúng tổ 
tiên của dân tộc Việt Nam là một nét đẹp 
văn hóa của những con người thiên về 
“trọng tình” hơn “trọng lý”. Giống như các 
quốc gia Đông Nam Á khác, thờ cúng tổ 
tiên ở Việt Nam ngày càng được củng cố, 
mở rộng thêm khi mà các nền văn hóa 
Đông, Tây du nhập vào. Với sự giao thoa 
các yếu tố văn hoá từ bên ngoài, có những 
quan điểm khác nhau về thờ cúng tổ tiên ở 
những giai đoạn lịch sử, ở những luồng tư 
tưởng khác nhau như tư tưởng của Nho 
giáo, Phật giáo, Công giáo. Người Việt 
Nam sống trong môi trường làng với văn 
hoá làng tồn tại đậm đặc trong lối sống, 
phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn hoá 
dân gian... Làng được xây dựng trên nền 
móng của quan hệ huyết thống của nhiều 
dòng họ. Và, thờ cúng tổ tiên của người 
Việt Nam (kể cả người Công giáo Việt 
Nam) đóng một vai trò quan trọng trong 
việc duy trì môi trường gia tộc và môi 
trường làng.(*) 
2. Thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam 
Quan niệm truyền thống của người Việt 
Nam cho rằng, con người có hồn và xác, xác 
thì có chết nhưng hồn thì tồn tại mãi ở thế 
giới khác, mà hồn mới là yếu tố cao quý của 
một con người. Quan niệm này giống các tộc 
người ở các quốc gia khác ở Đông Á như 
Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản [9]... Hồn 
và xác liên kết nhau tạo nên sinh vật hoạt 
động được. Linh hồn chỉ thoát ra khỏi thể 
xác khi thực sự đã chết [6]. Người Việt Nam 
quan niệm “dương sao âm vậy”, con người 
sau khi chết còn có một cuộc sống nơi suối 
vàng giống như cuộc sống nơi trần thế với 
những nhu cầu tất yếu như ăn, mặc, chi tiêu 
và cả tích lũy phòng khi bất trắc. Do vậy, 
những người thân cần cúng giỗ để tổ tiên 
(*)
 Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung 
Đông, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
ĐT: 0983650450. Email: duchanh05@gmail.com. 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển 
Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) trong 
đề tài mã số I2.2-2012.24. 
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC 
Lê Đức Hạnh 
 71 
không bị thiếu thốn nơi âm gian, nơi chín 
suối. Người Việt Nam cho rằng “chín suối” 
là nơi sinh tồn của linh hồn tổ tiên sau khi 
thác, giống như cõi Niết Bàn trong quan 
niệm của Phật giáo, nơi Thiên Đàng của 
Công giáo. Người Công giáo Philippine 
cũng tin vào linh hồn, vào cuộc sống sau cái 
chết. Một người chết vẫn tiếp tục những sinh 
hoạt bình thường của mình trong thế giới 
của các linh hồn [9, tr.19]. 
Với quan niệm như vậy, người Việt Nam 
coi việc cúng giỗ là một đạo hiếu và họ 
không bao giờ bỏ cúng giỗ ông bà cha mẹ, 
cúng giỗ tổ tiên của mình. Việc cúng giỗ là 
biểu hiện mối dây liên kết mật thiết giữa tổ 
tiên (những người đã khuất) với con cháu 
(những người còn sống); hay là biểu hiện 
mối quan hệ giữa thế giới của người sống 
và thế giới của người đã thác. Mặt khác, thờ 
cúng tổ tiên cũng là việc để con cháu thể 
hiện sự biết ơn của mình đối với công giáo 
dưỡng của cha mẹ. Chính vì vậy việc cúng 
giỗ càng chu toàn bao nhiêu thì lòng con 
cháu càng an tâm thanh thản bấy nhiêu. Từ 
lòng tôn kính, sự mong muốn báo đáp cho 
tổ tiên ở nơi “chín suối”, từ niềm tin vào 
linh hồn tổ tiên sau khi thác, con cháu tìm 
cách báo hiếu với tổ tiên bằng việc cúng 
giỗ, thắp hương tưởng niệm, cẩn báo với tổ 
tiên mỗi dịp lễ tết, mỗi khi có việc trọng đại 
như hôn nhân hay tang lễ... Đây cũng là 
những dịp người lớn muốn nhắc nhở cho 
con cháu về cội nguồn của dòng họ và ghi 
nhớ việc báo hiếu với tiên tổ. Trong các 
cuộc điều tra về tôn giáo của Viện Nghiên 
cứu Tôn giáo tiến hành từ 1995 đến nay thì 
người Việt Nam thực hiện việc thờ cúng tổ 
tiên chiếm tỷ lệ trung bình năm là 98%. 
Thờ cúng tổ tiên mang tính chất phổ quát 
nhưng đồng thời cũng mang tính khu biệt 
trong các hình thức thể hiện với từng nhóm 
xã hội - tôn giáo cụ thể. Điều đó tuỳ thuộc 
vào niềm tin và quan niệm cụ thể của mỗi 
nhóm xã hội - tôn giáo này. Chính những 
đặc tính khu biệt của những hình thức thể 
hiện việc báo hiếu tổ tiên đã tạo nên sự đa 
dạng và khởi sắc của việc thờ cúng tổ tiên. 
Điểm đầu tiên tạo nên sự khu biệt đặc thù ở 
các tôn giáo và các nhóm xã hội là quan 
niệm về hồn và nơi ở của hồn sau khi chết. 
Người vô thần thì không tin có linh hồn và 
cuộc sống sau khi chết, họ quan niệm “chết 
là hết”. Phật giáo quan niệm đời sống con 
người gắn chặt với kiếp; sau khi chết nếu 
hồn chưa thoát được nghiệp chướng sẽ vẫn 
còn bị vướng vào vòng luân hồi để quay trở 
lại một kiếp nào đó tương xứng với những 
gì mình đã làm trong kiếp trước. Phật giáo 
chủ trương không sát sinh vì có thể động 
vật ấy là một sinh linh đầu thai từ kiếp 
trước. Với quan niệm này, việc báo hiếu tổ 
tiên được thực hiện bằng những nghi lễ cầu 
siêu theo phương thức nhà Phật, nhà có 
tang ma sẽ mời sư thầy đến tụng kinh cho 
người chết mau siêu độ; đến ngày lễ Vu 
Lan con cháu đến chùa dâng lễ cúng Phật 
cầu cho cha mẹ. Lễ Vu Lan theo quan niệm 
Phật giáo là ngày Phật đại xá, những việc 
lành con cháu làm trong ngày này thì cha 
mẹ được hưởng phúc. 
3. Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo 
Công giáo có một quan niệm riêng về sự 
tồn tại của linh hồn và thể xác, về nơi mà 
hồn sẽ “cư ngụ” sau khi chết - đó là Thiên 
Đàng, địa ngục hay nơi luyện ngục [5, tr.91 
- 92]. Công giáo quan niệm chết không phải 
là hết; những người sống đẹp lòng Thiên 
Chúa, không mắc tội sẽ được lên Thiên 
Đàng và được gọi là các Thánh. Những 
người còn mang tội thì tuỳ thuộc vào tội 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 72 
nặng hay nhẹ mà phải xuống luyện ngục 
hay hoả ngục để đền bù tội lỗi mình đã làm 
khi còn sống và được gọi là các linh hồn. 
Quan niệm về sự chết, sự sống, về phần 
hồn, phần xác là những tín điều mà mọi 
giáo dân Công giáo đều tin theo mặc dù 
việc giải thích những điều này chưa có 
những luận cứ rõ ràng. Điều chính yếu là ở 
niềm tin của giáo dân. Người Công giáo 
cũng tin rằng giữa những người đang sống 
và những người khuất (các Thánh và các 
linh hồn) vẫn có mối liên hệ qua lại. Các 
Thánh sẽ cùng Thiên Chúa phù hộ cho 
những người sống. Người sống tạo lập các 
công phúc nhằm giúp các linh hồn chuộc 
những tội lỗi đã phạm phải khi còn ở trần 
gian, có thể lên Thiên Đàng và lại cùng 
Thiên Chúa phù hộ cho chính người sống. 
Mối quan hệ qua lại giữa người sống với 
các Thánh, các linh hồn và Thiên Chúa 
chính là cơ sở niềm tin của sự chuyển giao 
công trạng. Người sống thờ kính những 
người đã khuất để bày tỏ lòng biết ơn của 
mình với họ vì những gì họ đã làm cho con 
cháu khi còn sống và cả những điều họ sẽ 
cùng Chúa ban phúc cho con cháu sau khi 
chết. Kết quả điều tra tại các địa bàn cho 
thấy, mục đích của việc thờ cúng tổ tiên là 
để tỏ lòng biết ơn với tổ tiên của người 
Công giáo chiếm 98,9% [3]. Ở Philippine, 
người Công giáo thờ cúng tổ tiên vì họ tin 
rằng tổ tiên sẽ mang lại điều thiện và điều 
ác cho người sống [11]. 
Có thể nói, cơ sở của việc thờ cúng tổ 
tiên ở người Công giáo xuất phát ngay 
trong giáo lý của họ. Niềm tin tôn giáo của 
họ được đặt trọn vẹn vào đấng tối cao là 
Thiên Chúa. Thiên Chúa là trung tâm điểm 
nên mọi vấn đề, mọi sự lý giải, mọi ngôn từ 
diễn tả đều nhằm tôn vinh hình ảnh của 
Chúa Trời. Việc thờ cúng tổ tiên, báo hiếu 
tổ tiên là những điều thuộc về con người, 
giáo lý đã đề ra như là những điều luật, 
buộc mọi người phải thực hiện. Trong “thập 
giới” (Mười điều răn của Thiên Chúa) thì 
sau ba điều răn dạy con người thờ phụng 
Thiên Chúa, điều răn thứ tư buộc giáo dân 
phải “thảo kính cha mẹ”. Điều này đứng 
sau việc tôn thờ Thiên Chúa. Đây là điều rất 
quan trọng buộc mỗi giáo dân Công giáo 
phải có trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện. 
Con cái luôn quan tâm, chăm sóc cha mẹ 
khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau là việc 
làm đẹp lòng Thiên Chúa. Người Công giáo 
tin rằng sự hiện hữu của con người là hồng 
ân mà Thiên Chúa ban tặng. Và con cái 
luôn phải biết ơn công dưỡng dục sinh 
thành của cha mẹ, không ngoại trừ một lý 
do nào, bởi đó không chỉ là bổn phận mà 
còn là việc làm đạo đức mà con cái dành 
tặng cha mẹ, cũng là việc làm đẹp dâng lên 
Thiên Chúa. Kinh Thánh công nhận niềm 
hạnh phúc của một gia đình là cha mẹ biết 
thương yêu con cái và con cái biết vâng lời, 
hiếu thảo với cha mẹ. Đây chính là cơ sở để 
người giáo dân Công giáo thực hành việc 
thờ cúng tổ tiên. Theo đó, thờ cúng tổ tiên 
trước hết là đạo làm người, là lòng thành 
kính, biết ơn của thế hệ sau với thế hệ 
trước. Do đó, dù một thời gian dài bị lãng 
quên với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của 
người Việt Nam bản địa do cách nhìn hạn 
chế từ phía Giáo hội, nhưng việc thờ kính 
tổ tiên vẫn tồn tại trong tâm khảm đời sống 
tâm linh của người Công giáo Việt Nam. 
Đây là một vấn đề mang tính lịch sử trong 
quá trình truyền giáo mở rộng “nước Chúa” 
của Toà thánh Vatican, Việt Nam không là 
ngoại lệ. 
4. Vấn đề thờ cúng tổ tiên trong lịch 
sử Công giáo 
Việc thờ cúng tổ tiên của người Công 
Lê Đức Hạnh 
 73 
giáo ở Việt Nam liên quan mật thiết đến 
thái độ ứng xử của Toà thánh và các đoàn 
truyền giáo đối với vấn đề này trong lịch sử 
truyền giáo của đạo Công giáo. 
Việc thờ cúng tổ tiên của người Việt 
Nam không thể tách rời khỏi hoàn cảnh lịch 
sử "Nghi Lễ Trung Hoa". Trong thời gian 
Matteo Ricci, bề trên dòng Tên (S.J.) còn 
sống chẳng có vấn đề tranh chấp về Nghi lễ 
Trung Hoa. Sau khi Mattheo Ricci qua đời 
(1610), vấn đề được đặt ra ngay giữa nhóm 
dòng Tên. Khi thừa sai các dòng khác (Ða 
Minh, Augustinô, Phanxicô, thừa sai Ba Lê) 
đến Trung Hoa (từ 1630 trở đi), vấn đề 
tranh tụng trở nên gay gắt. Diễn tiến cuộc 
tranh chấp qua các triều Giáo hoàng khác 
nhau và những quyết định được ghi lại 
trong các văn kiện tòa thánh. Các văn kiện 
về Nghi lễ Trung Hoa đều ảnh hưởng đến 
Việt Nam và các nước lân cận. 
4.1. Thái độ ứng xử của Toà thánh La Mã 
Vấn đề thờ cúng tổ tiên của Công giáo 
tại Phương Đông (chủ yếu là ở Trung Quốc, 
Việt Nam...) kéo theo sự quan tâm của hơn 
chục vị Giáo hoàng trên nhiều ngả với 
những cuộc tranh luận giữa các thừa sai 
thuộc các dòng truyền giáo khác nhau. 
Trong khi các linh mục dòng Tên ở Trung 
Quốc không lên án cúng tế Khổng Tử và 
ông bà ông vải, thì các thừa sai Pháp ở Việt 
Nam lại phản đối quyết liệt vì cho rằng nghi 
lễ ấy là rối đạo không khác gì lễ nghi thờ 
Bụt, thờ Thần [2]. 
Giáo hoàng Clemente XI (1700 - 1721) 
tổ chức một hội nghị gồm các giám mục để 
bàn về vấn đề này và sau đó chấp nhận bản 
nghị quyết của Toà Điều tra trong Tông 
hiến đề ngày 20 tháng 11 năm 1704. Theo 
đó Giáo hoàng buộc các giám mục, linh 
mục của tất cả các dòng truyền giáo đều 
phải tuân theo Toà thánh trong việc bác bỏ 
thờ cúng tổ tiên. Không chấp nhận bất kể sự 
khiếu nại nào. Giáo hoàng Clemente XI còn 
ban hành Tông chiếu Exilladie đề ngày 19 
tháng 3 năm 1715, nhắc lại hai Tông hiến 
1704 và 1710 và Sắc lệnh Nam Kinh 1707 
phạt vạ tuyệt thông những người không 
tuân phục Toà thánh La Mã về những lễ 
nghi đã bị bác bỏ, buộc các thừa sai ở 
Phương Đông (trong đó có Việt Nam, 
Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản) phải 
tuyên thệ trung thành với Toà thánh La Mã 
trong vấn đề này. Giáo hoàng Benedicto 
XIV (1740 - 1758) ban hành Bulle Ex Quo 
Singular đề ngày 11 tháng 7 năm 1742 cấm 
người Châu Á không được thờ cúng tổ tiên. 
Đạo luật này đã làm cho các tín đồ Công 
giáo Trung Hoa bất mãn tức giận nên họ đã 
bỏ đạo gần hết. Chỉ còn lại một số rất ít tiếp 
tục theo Công giáo La Mã mà thôi [10]... 
Đến lúc đó cuộc tranh luận thờ cúng tổ tiên 
tạm chấm dứt. Đây là thời gian dài thờ cúng 
tổ tiên bị Tòa thánh Vatican ngăn cấm triệt 
để ở các nước Đông Á như Việt Nam, 
Trung Quốc, Philippine, Nhật Bản... 
Vấn đề thờ cúng tổ tiên được bàn trở lại 
nửa đầu thế kỷ XX với Huấn dụ Plane 
Compertn est của Thánh bộ Truyền giáo La 
Mã, được Giáo hoàng Piô XII chấp thuận 
ngày 7 tháng 12 năm 1939. Huấn dụ bác bỏ 
hai Tông chiếu Ex Quo (1742) và Exilladie 
(1715). Tiếp theo Giáo hoàng ra sắc lệnh 
Summi Portificantus công nhận những nghi 
lễ thờ cúng tổ tiên không phải là những 
nghi lễ đích danh tôn giáo, mà chỉ là những 
biểu thị lòng sùng bái chính đáng đối với 
những bậc tài đức trong nước cũng như 
lòng hiếu thảo đối với người quá cố. 
Vấn đề thờ cúng tổ tiên được tái khẳng 
định trong Công đồng Vatican II (1962 - 
1965), trong đó nhấn mạnh đến sự hiệp 
thông với người đã mất như sau: tất cả 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 74 
những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh 
Thánh thần, đều họp thành một giáo hội duy 
nhất và liên kết với nhau trong Ngài. Bởi 
vậy, sự hiệp nhất giữa người còn sống 
dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong 
bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. 
Trái lại, Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự 
hiệp nhất đó còn được vững mạnh hơn nhờ 
việc truyền thông cho nhau. Sau Cộng đồng 
Vatican II, thờ cúng tổ tiên được thực hiện 
trong cộng đồng Công giáo ở Đông Á, trước 
tiên là Trung Quốc, Phillipine, Việt Nam. 
4.2. Thái độ ứng xử của các đoàn 
truyền giáo tại Việt Nam 
Dòng Đa Minh là một trong những dòng 
truyền giáo có mặt đầu tiên tại Việt Nam. 
Năm 1679, Toà thánh La Mã chia địa phận 
Đàng Ngoài thành Tây và Đông. Địa phận 
Đông được giao cho dòng Đa Minh cai 
quản. Có thể nói, trong các dòng truyền giáo 
ở Việt Nam thì dòng Đa Minh có thái độ tiêu 
cực nhất đối với vấn đề thờ cúng tổ tiên. 
Ngày 7 tháng 6 năm 1759, Pater lui Huy 
bề trên cả đại diện tông toà coi sóc địa phận 
Đông ra thư gửi cho các giáo sĩ và giáo dân 
địa phận nói về “36 sự rối nước An Nam, 
Đức Thánh Pha Pha đã đoán phi”, trong đó 
có nhiều “sự rối” về thờ cúng tổ tiên. Năm 
1796, Đức thày Phê ra thư gửi bổn đạo địa 
phận Đông nhắc lại việc cấm làm nhà táng, 
khi đưa xác không được đi kiệu ông thánh 
nọ, bà thánh kia. Dòng Đa Minh có đưa ra 
một số lễ thức cho việc “đưa xác” người 
qua đời, chấp nhận một số phong tục như 
nhận câu đối phúng viếng của gia quyến 
trong tang ma. Tuy nhiên các câu đối đó 
phải đảm bảo nguyên tắc “không có điều gì 
phạm sự đạo”. 
Hội truyền giáo Paris (MEP) về tổng thể 
thì nghiêm cấm giáo dân thực hành thờ 
cúng tổ tiên. Tại Huế, trong một thời gian 
dài, các thừa sai hội truyền giáo Paris và 
các thừa sai dòng Tên bất đồng với nhau về 
cách nhìn nhận và ứng xử với thờ cúng tổ 
tiên. Ở một số địa phận đặt dưới quyền cai 
quản của hội truyền giáo Paris, giáo dân 
được phép thự ...  ngày cuối cùng của năm, mọi 
người trong tộc đều tập trung về nhà ông 
tộc trưởng, trước khi đọc kinh cầu nguyện 
cho tiền nhân, người tộc trưởng tuyên bố lý 
do của việc tập trung cả chi tộc ngày hôm 
đó. Sau đó, người tộc trưởng đốt hương và 
vái lạy trước bàn thờ tổ tiên trong sự chứng 
kiến của toàn thể chi tộc. Sau khi thắp 
hương, nến, điện trên bàn thờ tổ tiên, buổi 
cầu nguyện cho tổ tiên bắt đầu diễn ra. 
Kinh cầu nguyện cho tổ tiên thường là 
những kinh trong sách bổn và 50 kinh kính 
mừng với ý chỉ cho tổ tiên. Sau khoảng 1 
giờ, việc đọc kinh cầu nguyện kết thúc, mọi 
người tâm niệm trong mình những tâm tình 
về công ơn của tổ tiên, ông bà. Người ta nói 
chuyện và kể lại những câu chuyện về các 
bậc tiền nhân. Người lớn tuổi kể cho con 
cháu nghe về những bậc cố nhân, những kỉ 
niệm xưa. Tất cả tạo nên một không khí 
thiêng liêng, gần gũi và gợi nhớ về tổ tiên. 
Vào đầu năm mới, ngày mồng 2 Tết, con 
cháu lại tập trung ở nhà ông tộc trưởng lần 
nữa để chúc tết lẫn nhau và chủ yếu là để 
cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Hình thức 
cũng giống như buổi lễ cầu nguyện cho tổ 
tiên vào đêm 30 Tết. Sau đó các gia đình 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 78 
Công giáo trong làng thường “kết thành từng 
đoàn, toán đến các nhà có người chết trong 
năm để cầu nguyện cho người quá cố” hay 
đi đọc kinh chúc tết mọi gia đình đồng đạo 
khác. Đây là một tập tục tốt đẹp có ở nhiều 
xứ đạo Công giáo ở Việt Nam như Tử Nê 
(Bắc Ninh) là một ví dụ điển hình. 
Người Công giáo khác với người không 
theo Công giáo về những nghi lễ liên quan 
đến họ tộc như không xây từ đường họ tộc 
và cũng không có ngày giỗ tổ (họ tộc). 
Thông thường, thánh quan thày của họ đạo 
được xem là tổ họ. Ngày kỷ niệm thánh 
quan thày được xem là ngày giỗ họ. Đó là 
một trong những lễ lớn của họ đạo. Tuy 
nhiên, người Công giáo ở nhiều nơi vẫn lập 
gia phả, vẫn ghi nhớ ngày giỗ để truyền cho 
con cháu các thế hệ kế tiếp. Thông thường 
trong mỗi gia đình tộc trưởng thường có 
một cuốn sổ ghi ngày mất, tên thánh của 
ông bà tổ tiên cho đến đời thứ 3, thứ 4. Còn 
các đời trước đó thì người ta chọn ngày 
mồng 2 Tết Nguyên đán làm ngày cầu 
nguyện chung cho tiền nhân. Thực tế hiện 
nay ở nhiều vùng Công giáo như Tử Nê 
(Bắc Ninh), Kim Sơn, Yên Mô (Ninh 
Bình), việc lập gia phả đã có nhiều. Có hai 
hình thức lập gia phả phổ biến: một là lập 
cây gia phả, hai là lập bảng gia phả và treo 
trên tường tại một nơi trang trọng trong gia 
đình. Việc lập gia phả trong gia đình giáo 
dân Công giáo cho thấy ý thức của người 
Công giáo về ông bà tổ tiên, về gia đình, 
dòng tộc, về họ hàng thân tộc ngày càng 
sâu đậm. 
Ngoài ra, việc thờ cúng tổ tiên của người 
Công giáo Việt Nam còn được thực hiện 
vào các dịp khác trong năm khi gia đình có 
việc trọng đại như khi cưới xin, đi làm ăn 
xa Kết quả điều tra xã hội học tại 3 điểm 
nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ người Công giáo 
thực hiện thờ cúng tổ tiên trong ngày lễ tết 
chiếm 98,6%, khi tổ chức đám tang và giỗ 
là 98%, khi tổ chức lễ cưới là 92,6%, lúc 
gia đình có việc vui, trọng đại (như con cái 
đỗ đạt, hay có người nhà đi làm ăn xa) là 
76%, trong ngày lễ các đẳng là 95%, khi 
tôn kính tổ trong các giờ cầu nguyện chiếm 
76% và trong các thánh lễ là 75%. Đối với 
việc tôn kính tổ tiên của người Công giáo 
trong các lễ cưới, kết quả điều tra cho thấy 
100% giáo dân đồng tình với việc cô dâu, 
chú rể phải bái lạy tổ tiên hai bên gia đình. 
Điều này cho thấy ý thức sâu sắc của người 
Công giáo về ông bà tổ tiên. Chính ý thức 
về cội nguồn, về ơn nghĩa sinh thành là 
động lực và là lời răn dạy sâu sắc cho 
những thành viên mới bước vào đời sống 
hôn nhân. 
6. Một số nhận xét (thay lời kết luận) 
6.1. Thờ cúng tổ tiên với giáo lý của 
đạo Công giáo 
Có thể khẳng định rằng thờ cúng tổ tiên 
trong cộng đồng người Công giáo Việt Nam 
có cơ sở nền tảng trong chính giáo lý của 
họ. Vấn đề báo hiếu tổ tiên là điều mọi 
người phải quan tâm, giáo lý Công giáo đã 
đề ra những gì mà mọi tín đồ phải giữ, để 
chu toàn chữ hiếu đối với ông bà, cha mẹ 
khi còn sống cũng như khi đã qua đời. 
Với người Công giáo, Kinh Thánh là cơ 
sở nền tảng cho giáo lý và giáo luật của đạo 
Công giáo. Kinh Thánh có ý nghĩa rất quan 
trọng đối với người Công giáo, trong đó họ 
tìm thấy cơ sở niềm tin của họ, tìm thấy lời 
chỉ dạy về cách sống, cách ứng xử với 
Thiên Chúa và với con người, trong đó bao 
gồm các quan hệ với cha mẹ, anh chị em, 
vợ chồng, bạn hữu, và cả kẻ thù. Chính 
lòng hiếu thảo được Thiên Chúa chúc phúc 
và ban cho con cháu được sống lâu. Các tín 
đồ Công giáo luôn nhớ rằng, những người 
con không lo phụng dưỡng cha, và còn 
khinh thường mẹ thì phạm tội rất nặng: 
Lê Đức Hạnh 
 79 
“Như người lộng ngôn, kẻ bỏ bê cha, kẻ 
khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra 
nó” [7]. Trong giáo lý Công giáo, chữ hiếu 
rất quan trọng, buộc mỗi người phải tuân 
thủ vì đó là luật của Chúa. Việc báo hiếu 
của con cái đối với cha mẹ là bổn phận bắt 
buộc, cha mẹ không phải mang ơn con cái 
về những điều đó. Đạo Công giáo rất đề cao 
công đức của cha mẹ trong việc sinh thành 
và giáo dưỡng con cái trưởng thành. Đây là 
chiều kích sâu xa của Công giáo, cho thấy 
việc báo hiếu của con cái đối với cha mẹ là 
một bổn phận, không được thoái thác bổn 
phận đó. Đức Giêsu cũng đã lấy tiêu chí 
thảo kính cha mẹ là tiêu chí đầu tiên mà tín 
đồ phải thực hiện để được nên trọn lành [8, 
tr.16 - 22]. Kinh Thánh công nhận niềm 
hạnh phúc trào tràn của một gia đình mà 
cha mẹ biết thương yêu con cái, và con cái 
biết kính trọng và thảo hiếu với cha mẹ. 
6.2. Những đặc trưng cơ bản của việc 
thờ cúng tổ tiên ở người Công giáo 
Người Công giáo tin rằng, con người có 
hồn và xác, cả hồn và xác đều do Thiên 
Chúa tạo dựng nên, được thể hiện qua ý 
nghĩa của trình thuật Thiên Chúa tạo dựng 
nên Ađam và Êva trong Kinh Thánh. Thuỷ 
tổ của loài người là Ađam và Êva. 
Từ cơ sở niềm tin như vậy, những người 
Công giáo có những hình thức báo hiếu 
riêng với ông bà tổ tiên đã qua đời. Trong 
Công giáo, thánh lễ là công việc chuyển tải 
nhiều công phúc nhất. Việc thờ cúng tổ tiên 
ở người Công giáo có những đặc trưng cơ 
bản của nó như người chết được linh mục 
làm thánh lễ ở nhà thờ, được làm phép mồ 
trong Vườn Thánh. Trong ba ngày sau đó, 
họ hàng, làng xóm sẽ đến nhà hiếu để đọc 
kinh cầu nguyện cho người qua đời. Trong 
nhiều ngày đầu, thân nhân đều ra viếng mộ 
mỗi ngày, có gia đình thực hiện việc đó đến 
khi giỗ trăm ngày. Các chu kỳ giỗ thông 
thường là mỗi năm một lần vào ngày mà 
người đó mất, người ta xin lễ, đọc kinh, 
thăm mộ. Vào những dịp giỗ trọng (như 49 
ngày, 100 ngày, giỗ đầu...) tất cả con cháu 
xa gần đều phải về “ăn giỗ” để tưởng nhớ 
người đã qua đời và để thể hiện sự “hiếu”, 
sự “kính” của mình với tổ tiên. 
Một đặc trưng nữa của việc tôn kính tổ 
tiên nơi người Công giáo là: ngoài những 
ngày giỗ, niên lịch của Giáo hội còn dành 
một ngày riêng để cộng đoàn và con cháu 
cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, đó là ngày 
mồng 2 Tết Nguyên đán và ngày 2 tháng 11. 
Vào ngày đó, ở các xứ đạo ngoài thánh lễ do 
linh mục tổ chức tại nhà thờ, người giáo dân 
còn xin lễ cầu cho ông bà, cha mẹ, các gia 
đình tổ chức đi thăm mộ, sửa sang mộ, dọn 
dẹp Vườn Thánh. Một số nơi linh mục còn 
tiến hành dâng lễ ngay tại Vườn Thánh. 
Trong những ngày này, người giáo dân nhắc 
nhở con cháu tham gia thánh lễ đầy đủ và 
làm việc lành với ý chỉ cầu nguyện cho ông 
bà cha mẹ và các linh hồn khác. 
Việc tang ma giỗ chạp trong cộng đồng 
Công giáo có nhiều yếu tố hội nhập với văn 
hóa bản địa. Người ta cũng đặt một bàn nhỏ 
trưng hoa quả trước linh cữu người quá cố 
khi xác còn quàn tại nhà, có đặt lư hương 
để những người viếng xác thắp hương và xá 
người chết. Trong nhà người Công giáo 
cũng có bàn thờ ông bà cha mẹ, và nhiều 
người vẫn thường thắp hương ở đó, nhiều 
gia đình có đặt hoa quả nhất là trong dịp 
giỗ, dịp tết, hay khi cây nhà có trái đầu 
mùa... Nhưng, người Công giáo không tin 
người chết sẽ hưởng dùng những hoa trái 
ấy, họ làm thế là để biểu lộ lòng thành kính, 
hiếu thảo của con cháu mà thôi. Các dịp giỗ 
chính như giỗ bảy tuần, giỗ trăm ngày, giỗ 
giáp năm, giỗ mãn tang, là những yếu tố 
được nhập từ văn hóa bản địa. Những mốc 
thời gian ấy vốn là truyền thống lâu đời của 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 80 
người Việt, người Công giáo ở Việt Nam 
cũng vẫn giữ những truyền thống ấy. Nhìn 
chung, người giáo dân Công giáo rất quan 
tâm đến việc báo hiếu tổ tiên. Điểm giống 
nhau giữa người Việt Công giáo với người 
Việt không theo Công giáo là họ đều thừa 
nhận sự tồn tại bất tử của linh hồn, nhưng 
điểm khác biệt giữa họ là quan niệm về 
hình thức tồn tại của linh hồn và do đó dẫn 
đến sự khác biệt về hình thức biểu lộ việc 
thờ cúng tổ tiên [4, tr.31]. 
6.3. Sự khác biệt giữa người Công giáo 
và người không Công giáo trong việc thờ 
cúng tổ tiên 
Khác biệt cơ bản là khác biệt trong quan 
niệm về hồn và sự tồn tại của hồn sau khi 
chết: trong quan niệm của người Công giáo, 
khi con người đã chết thì họ được hưởng 
nhan Chúa hay đến nơi luyện ngục chờ 
phán xét. Linh hồn ở nơi luyện ngục sẽ 
được con cháu cầu nguyện để sớm lên 
Thiên Đàng. Còn người Việt không theo 
Công giáo quan niệm linh hồn sau khi rời 
khỏi thể xác sẽ về nơi suối vàng để gặp tổ 
tiên ở đó. Nơi đó, cũng giống như dương 
gian, tổ tiên cũng có những nhu cầu như ăn, 
mặc, ở hay các nhu cầu khác như khi còn 
sống. Tổ tiên ở đó khác người sống ở chỗ: 
tổ tiên không thể làm ra những thứ mà mình 
sử dụng, mà phải nhờ con cháu gửi xuống. 
Con cháu sẽ gửi xuống những của cải vật 
chất cho ông bà qua những dịp giỗ, lễ tết, 
khi gia đình có công việc gì đó, hay khi con 
cháu cần cầu xin một điều gì. Những sản 
phẩm gửi cho tổ tiên bằng cách thông 
thường nhất là đốt vàng mã và cúng tế. Do 
vậy, cúng giỗ là một hình thức báo hiếu tổ 
tiên, nếu không cúng giỗ chu toàn cho ông 
bà tổ tiên nơi suối vàng sẽ bị tổ tiên quở 
trách, thậm chí nổi giận mà có thể gây ra 
những điều không may cho con cháu còn 
đang sống. Kết quả điều tra xã hội học tôn 
giáo của Viện Nghiên cứu Tôn giáo tiến 
hành các năm 1995, 1998, 2003, 2005, 
2007 cho thấy có khoảng 1/5 số người được 
hỏi cho rằng một trong những nguyên nhân 
họ thờ cúng tổ tiên là bởi sợ tổ tiên trừng 
phạt. (Kết quả điều tra có thể có sự khác 
nhau giữa các vùng, các năm). Với người 
Công giáo, điều duy nhất mà tổ tiên ông bà 
có thể làm là cầu Chúa giáng phúc cho 
người thân và con cháu hay cho những 
người đã giúp đỡ họ đang còn sống. Đây 
cũng là biểu hiện mối tương quan giữa 
người sống và người chết theo quan điểm 
của Công giáo. Cho nên tín đồ Công giáo 
thường không sợ ông bà tổ tiên, họ chu toàn 
việc cúng giỗ theo những cách thức riêng 
của Công giáo chỉ nhằm mục đích duy nhất 
là mong cho tổ tiên sớm được lên Thiên 
Đàng. Vì thế, những việc mà con cháu làm 
mang ý nghĩa báo hiếu, nhớ về nguồn cội. 
Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo và 
người không Công giáo có những khác biệt 
trong hình thức thể hiện. Với quan niệm tổ 
tiên chỉ hưởng dùng những công phúc, nên 
trong giỗ chạp người Công giáo thường chú 
trọng đến việc xin lễ, đọc kinh chung và 
làm những việc lành để hướng về ông bà tổ 
tiên; họ ít quan tâm đến việc sửa soạn đồ 
cúng, tuyệt đối không đốt vàng mã. Trên 
bàn thờ tổ tiên của người Công giáo chỉ có 
cắm hương trước di ảnh tưởng nhớ ông bà, 
cha mẹ, một đĩa trái cây, một bình hoa với 
mục đích tôn kính ông bà, cha mẹ, chứ 
không hàm ý mời ông bà, cha mẹ dùng. Giỗ 
chạp trong Công giáo là dịp những người 
sống lập công phúc thay cho người chết để 
họ mau đền hết tội lỗi của mình, sớm được 
lên Thiên Đàng. 
Người Việt Nam không Công giáo do tin 
rằng tổ tiên còn hưởng dùng những của 
cúng nên coi trọng việc chuẩn bị giỗ và đồ 
lễ cúng. Khi mời ông bà về với con cháu, 
Lê Đức Hạnh 
 81 
nếu không có điều kiện kinh tế sửa soạn 
“mâm cao cỗ đầy” thì ít ra họ cũng phải có 
bát cơm, quả trứng, bộ quần áo bằng mã để 
hoá cho ông bà khỏi đói rét. Nếu không làm 
được như vậy thì con cháu sẽ không an 
lòng, thậm chí sẽ mang tội bất kính, bất 
hiếu với tổ tiên và có thể bị tổ tiên giận dỗi 
hay trừng phạt. 
6.4. Những điểm tương đồng giữa người 
không theo Công giáo và người Công giáo 
trong việc thờ cúng cúng tổ tiên 
Điểm tương đồng trước tiên là quan 
niệm về sự chết. Chết không phải là hết. 
Mặc dù cả hai nhóm xã hội - tôn giáo này 
có lối diễn tả khác nhau về sự tồn tại và nơi 
cư ngụ của linh hồn sau khi chết, nhưng họ 
đều diễn tả một điểm: chết không phải là 
hết. Vì tin rằng chết không phải là hết nên 
cả người Công giáo và không Công giáo 
cùng chung một điểm nữa là luôn tin rằng 
tổ tiên sẽ còn quan tâm đến con cháu, vẫn 
luôn bên cạnh con cháu trong cuộc sống 
hàng ngày với những vui buồn của con 
cháu. Cho dù quan niệm như thế nào, thì 
việc giỗ chạp trước hết là một cách thức để 
báo hiếu tổ tiên. Mỗi người đều có cha mẹ, 
đều phải mang ơn sinh thành của cha mẹ. 
Hay nói cách khác, mỗi người đều được cấu 
thành từ những tế bào gia đình, lớn hơn là 
dòng họ, tổ tiên. Vì thế, xã hội hay những 
nhóm xã hội đều có bổn phận ghi ơn tổ tiên, 
đồng thời khuyến khích mỗi thành viên 
trong gia đình và dòng họ, trong cộng đồng 
phải báo hiếu tổ tiên. Điều này rất được coi 
trọng trong xã hội Việt Nam và trở thành 
bản sắc trong văn hóa Việt Nam. 
Một điểm tương đồng nữa trong vấn đề 
thờ cúng tổ tiên giữa người Công giáo ở 
Việt Nam và các quốc gia khác như Trung 
Quốc, Philippine, Nhật Bản với người 
không Công giáo là ý thức tìm về nguồn 
cội. Trong việc báo hiếu, thờ cúng tổ tiên cả 
hai nhóm xã hội - tôn giáo đều có ý nghĩa 
này. Tầm quan trọng của nguồn cội là một 
trong những yếu tố không thể thiếu để ổn 
định mọi mặt tâm lý, tình cảm, ý chí, lý trí 
của một con người. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và 
lối sống Công giáo trong văn hoá Việt 
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[2] Lê Đức Hạnh (2008), “Vấn đề thờ cúng tổ 
tiên của người Công giáo vùng đồng bằng 
Bắc Bộ - Việt Nam (Tiếp cận Nhân học 
Tôn giáo qua nghiên cứu trường hợp làng 
đạo Tử Nê - Bắc Ninh)”, Vietnam Intergration 
and Development, Nxb Đại học Quốc gia, 
Hà Nội. 
[3] Lê Đức Hạnh, Kết quả điều tra xã hội học 
tôn giáo tại xứ đạo Tử Nê năm 2008, 2014; 
Nỗ Lực 2009, 2011; Cái Mơn 2009, 2014. 
[4] Phạm Thị Bích Hằng (1998), Vấn đề thờ 
kính tổ tiên trong nền văn hoá đương đại 
Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp đại học, 
Hà Nội. 
[5] Nguyễn Như Thể, Nguyễn Hữu Triết, Hồ 
Văn Xuân (1992), Thần học giáo dân, t.1, Ủy 
ban đoàn kết Công giáo, Tp. Hồ Chí Minh. 
[6] Đoàn Văn Thông (1994), Những bí ẩn sau 
cõi chết, chương III, V và VIII, Nxb 
Nguồn sống. 
[7] Kinh Thánh, sách Huấn Ca, chương 3, 16. 
[8] Kinh Thánh, sách Mác Thêu, chương 19. 
[9] 
cung-to-tien-cua-nguoi-viet-va-mot-so-
quoc-gia-dong-nam-a-54616/,. 
[10]  - ttdtg/ 
Duongcut.php. 
[11] Susan Russell (1999), Christianity in the 
Philippines, Department of Anthropology, 
University of Illinois, USA, available on 
ell/christianity.htm. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 
 82 

File đính kèm:

  • pdftho_cung_to_tien_cua_nguoi_cong_giao_viet_nam.pdf