Thờ cúng tổ nghề (Nghiên cứu trường hợp Quận hoàn kiếm, Hà Nội)

Tuy chỉ chiếm số lượng khiêm tốn (khoảng 5%) nhưng những di tích thờ cúng tổ nghề và các hoạt động thờ cúng tổ nghề ở quận Hoàn Kiếm lại chính là phần “linh hồn” của đời sống tôn giáo ở khu vực 36 phố phường trong suốt tiến trình lịch sử, đánh dấu sự có mặt của các ngành nghề thủ công truyền thống và những tập tục văn hóa được cộng đồng làm nghề duy trì hoạt động. Tồn tại đến ngày nay, những cơ sở thờ cúng tổ nghề vẫn đang được cộng đồng làm nghề quan tâm, gìn giữ, duy trì các hoạt động thờ cúng cho dù phần lớn các nghề thủ công trước kia không còn tồn tại. Sự hiện diện của những cơ sở thờ cúng này minh chứng cho sự phát triển của nhiều nghề thủ công trong khu vực 36 phố phường xưa, đồng thời khẳng định sự trường tồn của những giá trị văn hóa tâm linh của người Việt Nam.

pdf 18 trang thom 04/01/2024 1640
Bạn đang xem tài liệu "Thờ cúng tổ nghề (Nghiên cứu trường hợp Quận hoàn kiếm, Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thờ cúng tổ nghề (Nghiên cứu trường hợp Quận hoàn kiếm, Hà Nội)

Thờ cúng tổ nghề (Nghiên cứu trường hợp Quận hoàn kiếm, Hà Nội)
Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 95 
NGUYỄN THỊ THANH* 
THỜ CÚNG TỔ NGHỀ 
(Nghiên cứu trường hợp quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) 
Tóm tắt: Tuy chỉ chiếm số lượng khiêm tốn (khoảng 5%) nhưng 
những di tích thờ cúng tổ nghề và các hoạt động thờ cúng tổ nghề 
ở quận Hoàn Kiếm lại chính là phần “linh hồn” của đời sống tôn 
giáo ở khu vực 36 phố phường trong suốt tiến trình lịch sử, đánh 
dấu sự có mặt của các ngành nghề thủ công truyền thống và những 
tập tục văn hóa được cộng đồng làm nghề duy trì hoạt động. Tồn 
tại đến ngày nay, những cơ sở thờ cúng tổ nghề vẫn đang được 
cộng đồng làm nghề quan tâm, gìn giữ, duy trì các hoạt động thờ 
cúng cho dù phần lớn các nghề thủ công trước kia không còn tồn 
tại. Sự hiện diện của những cơ sở thờ cúng này minh chứng cho sự 
phát triển của nhiều nghề thủ công trong khu vực 36 phố phường 
xưa, đồng thời khẳng định sự trường tồn của những giá trị văn hóa 
tâm linh của người Việt Nam. 
Từ khóa: Thờ cúng, tổ nghề, Hoàn Kiếm, Hà Nội. 
1. Dẫn nhập 
Theo bản khai thần tích thần sắc của Viện Viễn Đông Bác Cổ năm 
1938 và hồ sơ lưu tại Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội thì trước 
đây, có tới 15 cơ sở thờ cúng tổ các ngành nghề. Đó là: đình Tú Thị (số 2 
Yên Thái), đình Vũ Du (số 42 Hàng Da) thờ tổ nghề thêu; đình Kim 
Ngân (số 42 Hàng Bạc) và đình Trương Thị (số 50 Hàng Bạc) thờ tổ 
nghề kim hoàn; đình Hà Vĩ (số 11 Hàng Hòm), đình Thuận Mỹ (số 74 
Hàng Quạt) thờ tổ nghề sơn vẽ; đình Lò Rèn (số 1 phố Lò Rèn) và một 
ngôi đình Lò Rèn (số 33 Lò Sũ) thờ tổ nghề rèn sắt; đình Trúc Lâm (số 
40 Hàng Hành), đình Hài Tượng (số 16 ngõ Hài Tượng) thờ tổ nghề giày 
da; đình Hoa Lộc (số 90 Hàng Đào) thờ tổ nghề nhuộm; đình Hàng Quạt 
(số 4 Hàng Quạt) thờ tổ nghề quạt; đình Hàng Thiếc (số 2 Hàng Nón) thờ 
tổ nghề thiếc; đình Nhị Khê (số 11 Hàng Hành) thờ tổ nghề tiện; đình 
Phúc Hậu (số 2 Hàng Bông) thờ tổ nghề tráng gương; đình Đồng Lạc (số 
38 Hàng Đào) thờ tổ nghề cổ yếm. 
* Nghiên cứu sinh khoa Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội. 
96 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
Tuy nhiên, do thời gian và những biến đổi của lịch sử, một số nghề đã 
không còn tồn tại và cùng với đó là những di tích thờ cúng tổ nghề cũng bị 
mai một và suy tàn. Tính đến thời điểm năm 2013, trong đợt tổng kiểm kê 
di tích của thành phố Hà Nội thì trong khu Phố Cổ Hà Nội chỉ còn một số 
di tích thờ cúng tổ nghề như: đình Hoa Lộc (thờ tổ nghề nhuộm), đình Kim 
Ngân, đình Trương Thị (thờ tổ nghề kim hoàn), đình Tú Thị (thờ tổ nghề 
thêu), đình Hà Vĩ (thờ tổ nghề sơn), đình Trúc Lâm (thờ tổ nghề giày da), 
đình Đồng Lạc (thờ tổ nghề cổ yếm), đình Lò Rèn (thờ tổ nghề rèn sắt). 
Mặc dù số di tích thờ cúng tổ nghề hiện còn không nhiều, nhưng sự 
hiện diện của những di tích này đã tạo nên một diện mạo của khu phố cổ 
Hà Nội mang đặc trưng của những phố nghề mà không nơi nào có được, 
phản ánh những tập tục sinh hoạt văn hóa tâm linh được các phường nghề 
thủ công đem từ quê “gốc” ra Thăng Long để “thờ vọng” những vị tổ 
nghề nhằm cầu mong cho nghề của mình ngày một phát đạt. Bài viết này 
đề cập đến hoạt động thờ cúng tổ nghề trong khu Phố Cổ, quận Hoàn 
Kiếm, Hà Nội thông qua những cơ sở thờ tự, những truyền thuyết, sự tích 
về các vị tổ nghề cùng các nghi thức thờ cúng của mỗi phường nghề còn 
duy trì cho đến hôm nay. 
2. Khái quát thần tích về những vị tổ nghề ở quận Hoàn Kiếm 
2.1. Tổ nghề nhuộm 
Trong các công trình nghiên cứu, giới thiệu về các vị tổ nghề Việt 
Nam hiện nay, tổ nghề nhuộm hầu như ít được nhắc tới, có chăng chỉ là 
vài dòng sơ lược, giới thiệu chung chung. Trong khu phố cổ Hà Nội, hiện 
còn ngôi đình Hoa Lộc Thị, vốn thờ vọng tổ nghề nhuộm, gốc từ Đoan 
Loan, Bình Giang, Hải Dương lên Thăng Long lập nghiệp từ thời Lê. 
Theo thần tích còn lưu tại đình làng Đọc thì tổ nghề nhuộm chính là ông 
bà Triệu Xương, người Trung Hoa, giữ chức Đô hộ thời Đường. Ông đã 
đến đất Minh Luân, huyện Đường An mở trường dạy học gọi là “Đông 
giao học hiệu”. Ông lại có công dạy dân làng Đọc làm nghề nhuộm điều, 
vì thế mà xóm làng trở nên sung túc, giàu có. Sau khi ông mất, dân làng 
Đọc dựng đền thờ ông làm tổ nghề nhuộm. 
2.2. Tổ nghề kim hoàn 
Tổ nghề Kim Hoàn được nhắc tới rất nhiều trong các công trình 
nghiên cứu về văn hóa dân gian và dân tộc học là 3 anh em Trần Hòa, 
Trần Điện, Trần Điền, người làng Định Công (Thanh Trì, Hà Nội). Do 
cha mẹ mất sớm nên ba anh em phải làm lụng vất vả nuôi nhau. Bấy giờ, 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 97 
quân nhà Lương đã tiến vào kinh đô Vạn Xuân, Lý Nam Đế không chống 
cự nổi, dân chúng bỏ chạy tan tác. Ba anh em họ Trần chạy giặc, mỗi 
người lưu lạc một nơi. Thật tình cờ, người nào cũng xin làm thuê cho 
những chỗ chế tác đồ trang sức bằng vàng bạc. Vừa làm việc, họ vừa 
chăm chú học lấy những kỹ xảo của nghề. Chẳng bao lâu, 3 anh em đã rất 
thạo việc. Đất nước yên bình, họ tìm về gia đình. Ba anh em chung nhau 
lập một xưởng làm đồ kim hoàn. Dân làng Định Công đua nhau học theo, 
dần dà nghề kim hoàn Định Công nổi tiếng khắp trong nước. Để nhớ ơn 
người có công khai sáng, dân làng đã tôn ba anh em Trần Hòa, Trần 
Điện, Trần Điền là tổ nghề. 
Nếu như các nghề khác chỉ có một vị tổ nghề, thì nghề vàng bạc lại có 
nhiều vị tổ nghề, mỗi địa phương lại suy tôn một vị tổ nghề cho cho 
mình. Nếu như dân làng Định Công, Hà Nội thờ tổ nghề là 3 anh em Trần 
Hòa, Trần Điện, Trần Điền thì dân làng Châu Khê (huyện Bình Giang, 
tỉnh Hải Dương) lại thờ ông Lưu Xuân Tín; làng Đồng Xâm (Thái Bình) 
thờ Nguyễn Kim Lâu; thợ kim hoàn Thành phố Hồ Chí Minh thờ bà Lệ 
Châu; vùng đất Thuận, Quảng thờ Cao Đình Độ. Do mỗi nơi thờ một vị 
tổ nghề riêng nên khi đến Thăng Long làm ăn, để thích ứng với nơi sinh 
hoạt mới, những người thợ kim hoàn phố Hàng Bạc đã quyết định thờ vị 
tổ nghề là Hoàng đế Hiên Viên - ông tổ bách nghề theo huyền tích cổ 
Trung Hoa. Tuy nhiên, hiện nay tại đình Kim Ngân cũng như các tài liệu 
khác, không tìm thấy tư liệu nào ghi chép về “Bách nghệ tổ sư”, chỉ biết 
rằng vị thần này có vai trò cố kết mối quan hệ cộng đồng, phường hội của 
những người cùng nghề, khác quê sống trong phố Hàng Bạc. 
2.3. Tổ nghề thêu 
Truyền thuyết về ông tổ nghề thêu làng Quất Động hiện nay khá 
phong phú và còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất về tên họ, năm sinh, 
năm mất. Tuy vậy, trong tâm thức của người dân làng Quất Động thì tổ 
nghề chính là Lê Công Hành, người học được nghề thêu từ Trung Hoa về 
truyền dạy cho dân các làng Quất Động, Đào Xá, Hướng Dương. Gia 
phả của dòng họ Bùi ở làng Quất Động (huyện Thường Tín) cho biết: 
“Cụ Lê Công Hành vốn là người họ Mạc. Năm 1546, Mạc Phúc Hải mất, 
con là Mạc Phúc Nguyên mới hai tuổi lên ngôi. Bấy giờ triều đình có ông 
Phạm Tử Nghi định đưa Mạc Chính Trung lên ngôi, nhưng không được 
các quan trong triều đồng ý, Mạc Chính Trung bèn làm loạn. Lúc ấy, để 
đảm bảo tính mạng, bà Bùi Thị Ban (thứ phi của Mạc Phúc Hải) đưa Mạc 
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
Phúc Đăng về lánh nạn ở làng Quất Động. Tại đây, Mạc Phúc Đăng sinh 
con là Mạc Phúc Đề. Năm 1592, nhà Lê khôi phục lại chính quyền ở 
Thăng Long, để tránh mọi điều phiền nhiễu, con cháu họ Mạc ở Quất 
Động đổi sang họ Trần là họ bên ngoại”1. 
Lê Công Hành tên thật là Trần Quốc Khái, sinh ngày 18 tháng 
Giêng năm Bính Ngọ (1606) tại làng Quất Động. Ông đỗ tiến sĩ đời 
vua Lê Thần Tông (1637). Năm 40 tuổi, khi đi sứ Trung Quốc, ông tự 
mày mò học nghề thêu lọng. Về nước, ông dạy nghề thêu cho dân làng 
Quất Động, Đào Xá, Hướng Dương và một số làng khác ở Mỹ Đức, 
Hoài Đức. 
Làm quan dưới triều Lê, tới chức Thượng thư Bộ Công, lại lập được 
nhiều công trạng nên ông được vua ban quốc tính họ Lê, kể từ đó ông có 
tên là Lê Công Hành. Ông mất ngày 12 tháng 6 năm Tân Sửu (1661), thọ 
56 tuổi, được triều đình ban tước Thái Bảo Quận Công. Năm xã mang 
công ơn đã tôn ông làm tổ nghề, hằng năm cúng tế. 
2.4. Tổ nghề giày da 
Tương truyền, ông tổ nghề giày da là Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, 
sống dưới thời Mạc Đăng Dung (1527 - 1529). Ông thi đỗ tiến sĩ, được 
bổ làm quan và đi sứ nhà Minh. Đến sứ bộ Hàng Châu, ông cùng với 3 
người thợ làng Chắm là: Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính và 
Nguyễn Sĩ Bân học được nghề làm giày da của người nước ngoài. Về 
nhà, ông mở lò thuộc da lớn ngay trên đất Tam Lâm, truyền lại những 
kinh nghiệm mới cho dân làng, cải tiến nghề cũ để làm ra hàng mới với 
chất lượng cao. Không bao lâu, nghề da ở Tam Lâm phát đạt, tiếng đồn 
vang khắp mọi nơi. Nhờ có nghề nghiệp, làng xóm trở nên phong lưu, 
sung túc. Sau khi các ngài qua đời, dân làng nhớ ơn những người truyền 
dạy nghề nên xây đình thờ Nguyễn Thời Trung làm tổ nghề dày da. Các 
vị hậu tiên sư là Phạm Thuần Chính, Phạm Đức Chính và Nguyễn Sĩ Bân 
cũng được hưởng tự. Để ghi nhận công lao của các vị, triều đình nhà Mạc 
sắc phong cho Nguyễn Thời Trung và ba vị hậu, vì họ đã có công cải 
tiến, phát triển và dạy nghề cho dân. Thế kỷ XIX, khi những người dân 
làng Chắm di cư ra Thăng Long, họ xây dựng những ngôi đình để thờ 
vọng Nguyễn Thời Trung và 3 đồ đệ của ông. 
2.5. Tổ nghề sơn 
Sự tích ông tổ nghề sơn chỉ còn lưu lại ít trong cuốn Bình Vọng Trần 
thị gia phả (có lưu trữ trong kho sách chữ Hán của Thư viện Hán - Nôm) 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 99 
và tản mạn trong ký ức của các vị cố lão làng Bình Vọng, huyện Thường 
Tín, Hà Nội. Bình Vọng Trần thị gia phả là bộ sách chép tay trên giấy 
lệnh hội, mang ký hiệu A979, gồm 476 trang, chia ra làm 15 kỷ, tức là 15 
chi họ, do Trần Phương Xuân chép lại năm 1912. Ở kỷ thứ hai có chép 
Trần Lư (còn đọc là Lương), tự là Tu Khê, sinh năm Canh Dần (1470), 
đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 đời Lê 
Hiến Tông. Gia phả không ghi cụ thể năm mất nhưng có chi tiết giúp 
đoán định được: “năm ông đi sứ về thì gặp lúc Mạc Đăng Dung chiếm 
ngôi nhà Lê nên ông tử tiết để giữ lòng trung với nhà Lê”. Vậy, năm đó 
có thể là năm 1527. Gia phả còn ghi rõ: ông nắm vững được nghề vẽ 
bằng sơn và truyền nghề cho dân làng. Cả làng biết nghề này là do ông 
(Dĩ tự tiên sinh nhi toàn hương tri thử nghệ). Sau đó, ông còn truyền nghề 
cho dân làng Hạ Thái, Duyên Trường, Hướng Dương. Vì vậy, làng Hà Vĩ 
còn tôn Trần Lư làm Thành hoàng làng. 
Vào thời Lê, những thợ sơn ở Bình Vọng, Hạ Thái, Duyên Trường tụ 
hội về Thăng Long, lập lên phường sơn Nam Ngư nổi tiếng. Xưa, phố 
Nam Ngư cũng có đền thờ ông, nhưng nay không còn. Đến thế kỷ XIX, 
dân làng Hà Vĩ di cư ra phố Hàng Hòm (xưa thuộc đất thôn Cổ Vũ 
Thượng, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương). Ban đầu, họ mở một số cửa 
hiệu làm và bán hòm gỗ, rương, tráp. Về sau, họ nhận sơn các hòm gỗ, 
tráp, hoành phi, câu đối, cây đèn, ngai bệ, khám thờ. Để tưởng nhớ đến vị 
tổ nghề, họ dựng ngôi đình Hà Vĩ để thờ vọng tổ nghề sơn Trần Lư và 
cũng là Thành hoàng ở quê cũ. 
2.6. Tổ nghề rèn 
Trong truyền thuyết về tổ nghề rèn có khá nhiều vị được thờ ở những 
nơi có nghề thủ công rèn sắt. Mỗi địa phương lại thờ một vị tổ nghề riêng 
cho mình. Chẳng hạn như: vùng An Khê (Bình Định) thờ một nhân vật là 
cụ Đặng (hậu duệ của cụ đã giúp Nguyễn Huệ rèn khí giới cho quân đội 
Tây Sơn). Đình Cau Dương (xã Thụy Dương, Thái Thụy, Thái Bình) thì 
lại thờ Dã Tượng và Ngũ vị tổ sư. Còn ở làng Hòe Thị, Xuân Phương, Từ 
Liêm, Hà Nội - nơi có nghề rèn từ rất sớm, lại thờ ông tổ nghề rèn là 
Nguyễn Đắc Tài, một người quê Thanh Hóa đã đưa nghề rèn đến Hòe Thị 
vào thời Lê Trung hưng. Dân làng Đa Sĩ (phường Kiến Hưng, Hà Đông, 
Hà Nội) thờ ông tổ là Hoàng Thông và Đô Hồ Thông (theo truyền thuyết, 
vào thời Hùng Vương thứ 18). Dân làng Đa Hội (Đông Anh, Hà Nội) thờ 
Thuần Quận Công - một nhân vật dưới thời Mạc làm tổ nghề. 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
Như vậy, tổ nghề rèn cũng có rất nhiều vị, mỗi địa phương lại thờ một 
vị tổ riêng cho mình. Những vị này có thể là vị tổ chung của nghề rèn, có 
thể là những người đã giúp dân cải tiến kỹ thuật để phát triển nghề rèn 
đến bậc cao hơn. 
Hiện nay, truyền thuyết về vị tổ chung của nghề rèn là Cao Lỗ, hiệu là 
Lư Cao Sơn vốn được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu văn 
hóa dân gian của các học giả và tại bài vị của những nơi có đình, đền thờ 
tổ nghề rèn. Tuy nhiên, về thời điểm xuất hiện và quê quán của tổ nghề 
rèn còn chưa đồng nhất. Một số ý kiến cho rằng, ông quê làng Nga 
Hoàng, huyện Quế Dương (nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), sống 
dưới thời Hùng Vương thứ 6. Các nhà khảo cổ học lại cho rằng: ông 
người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, 
sống dưới thời Thục An Dương Vương. Do có công truyền dạy nghề rèn 
cho mọi người nên sau khi ông qua đời, nghề rèn tôn ông làm Tổ sư. 
Vào thế kỷ XVII-XVIII, thợ rèn sắt từ Hòe Thị di chuyển vào Thăng 
Long gồm hai nhóm chính: một nhóm khá đông đảo đã đến lập nghiệp ở 
khu vực Tân Khai - Tân Lập; nhóm kia thì đến khu vực gần Cửa Nam, 
sau này là phố Sinh Từ, Hàng Bột, Ô Chợ Dừa. Ban đầu, chỉ có dân Hòe 
Thị đến định cư tại làng Tân Khai - Tân Lập (tức phố Lò Rèn hiện nay), 
sau có thêm một số thợ các làng khác như Đa Sĩ (Hà Đông), Đa Hội 
(Đông Anh) cũng đến đây. Để nhớ ơn tổ nghề, dân làng Hòe Thị mua đất 
xây dựng ngôi đình Lò Rèn để thờ vị tổ chung của nghề rèn là: Lư Cao 
Sơn. Sau này, có phối thờ thêm các vị là: 
Tả Hầu Thánh sư, Nguyễn Cẩn Thánh sư Quảng gia Đô bác Đại 
vương Trung hưng Thượng đẳng thần. 
Tý Cung Thánh sư, Đỗ Sắc Thánh sư vinh quang linh ứng Đại vương 
trung hưng Thượng đẳng thần. 
Theo các cụ cao tuổi cho biết, đình Lò Rèn được ban tặng sắc phong 
dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, sắc 
phong đã bị thất lạc, hiện trong di tích chỉ còn chiếc hòm đựng sắc - một 
minh chứng cho sự có mặt của các sắc phong cho đình trước đây. 
2.7. Tổ nghề cổ yếm 
Bản thần tích, thần sắc của dân đình Đồng Lạc, phố Hàng Đào năm 
1938 cho biết: Tổ nghề cổ yếm là bà Nguyễn Thị Diệu Quyên, là vợ ông 
thủ khoa, quê làng Đại Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Hà 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 101 
Nội) đã lập ra nghề cổ yếm vào thời Lê. Bà đã có công dạy bảo người dân 
trong phố làm nghề này. Về sau, nghề làm cổ yếm lan truyền đi khắp nơi 
để bán cho các phụ nữ An Nam mua về làm cổ yếm. 
Sau này, bà bỏ tiền mua khu đất là đình Đồng Lạc để thờ Cao Sơn Đại 
vương, Bạch Mã Đại vương và Linh Lang Đại vương. 
Bà tạ thế năm 88 tuổi. Để nhớ công lao người đã truyền dạy nghề, 
người dân trong phố Hàng Đào đã tôn bà là Quyến yếm thị tiên sư, hợp 
thờ với các vị thần trong đình Đồng Lạc. 
3. Những cơ sở thờ cúng tổ nghề 
3.1. Đình Hoa Lộc thờ tổ nghề nhuộm 
Ngôi đình tọa lạc tại số 90A, phố Hàng Đào, phường Hàng Đào, quận 
Hoàn Kiếm. Đình do 4 người thuộc họ Lê, họ Phạm, họ Vũ và họ Đào 
đứng ra mua đất, xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh 2 (1706). Đến thời vua 
Thành Thái lại được mở rộng quy mô. Lần trùng tu lớn và năm Tân Tỵ, 
thời vua Bảo Đại (1941). 
Theo tấm bia “Hoa Lộc thị vọng từ bi ký” dựng năm Tân Tỵ, niên 
hiệu Bảo Đại thứ 16 (1941) cho biết quy mô của ngôi đình khi mới xây 
dựng: “Lần đầu xây dựng, kiểu mẫu chưa được rộng, đó là thời thái cổ. 
Thời vua Thành Thái (1889 - 1907), đền thờ vọng được sửa sang thêm 
nhưng cũng chỉ từ chỗ mộc mạc chật hẹp sang quy mô đơn giản. Đền2 
vẫn còn thấp, chưa cao ráo. Đó là thời k ... ạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của 
mỗi cộng đồng cư dân nghề nghiệp. Ngoài sự tôn vinh, biết ơn đối với vị 
tổ nghề, thờ cúng tổ nghề còn là sợi dây vô hình cố kết cộng đồng trong 
sản xuất, làm ăn; nâng đỡ, chở che những thành viên trong phường nghề. 
Mỗi khi gặp trắc trở, người ta lại sắm lễ vật, đến đình thờ tổ nghề cầu 
khấn, để cho công việc luôn suôn sẻ, thuận lợi. Lúc làm ăn phát đạt thì họ 
có lễ báo công lên tổ nghề, lúc công việc sa sút thì cầu mong tổ nghề phù 
giúp. Vị tổ nghề trở nên thiêng liêng, nhưng lại rất gần gũi, luôn ở bên 
cạnh để giám sát trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của người 
làm nghề. Người thợ thủ công thờ tổ nghề ngoài lòng biết ơn, họ còn có 
niềm tin vào nghề, vào sự may mắn, phát đạt trong sản xuất, làm ăn. 
Khi đến Thăng Long lập nghiệp, công việc sản xuất, kinh doanh đã ổn 
định, mỗi cộng đồng làm nghề đều họp bàn để cùng nhau bỏ tiền mua đất 
dựng những nơi thờ cúng chung cho cả nghề mình. Họ đã đặt ra những 
quy định để bắt buộc đối với từng thành viên làm nghề phải tuân theo. 
4.2. Cách thức thờ cúng 
Với đặc điểm là dân ngụ cư nên từ xưa, việc thờ cúng tổ nghề là thờ 
vọng bằng long ngai, bài vị, tức là họ phải về quê cũ, rước long ngai, thần 
vị của tổ nghề ra Thăng Long để thờ, còn tại quê cũ mới là thờ chính. 
Mục đích của thờ vọng là vì xưa kia, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn nên 
vào những dịp tuần tiết, sóc vọng, người thợ không thể về quê để cúng tổ 
nghề. Vì vậy, ở vùng đất mới, họ phải làm lễ bái vọng thay cho phải về 
quê làm lễ. 
Các cơ sở thờ cúng tổ nghề ở quận Hoàn Kiếm từ xưa đến nay đều có 
sự tương đồng trong cách thức thờ cúng, đó là các kỳ tế lễ tại các di tích 
được đều tổ chức vào mùa xuân và mùa thu gọi là lễ “xuân thu nhị kỳ”. 
Sự tương đồng còn thể hiện trong lễ vật dâng cúng, thành phần tham dự, 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 107 
trình tự buổi tế. Sự khác biệt chỉ là thời gian cụ thể diễn ra các kỳ lễ, lễ 
vật đặc trưng của mỗi phường nghề, những kiêng kị trong khi thực hành 
nghi lễ. 
Thờ cúng tổ nghề nhuộm: Hằng năm, tại đình Hoa Lộc tổ chức 2 kỳ lễ 
xuân thu vào dịp tháng 2 và tháng 85 (âm lịch). Đây là hai kỳ lễ quan 
trọng của phường nghề nhuộm. Lễ vật dâng cúng lên tổ nghề trong hai kỳ 
lễ này gồm: thủ lợn, trâu hoặc bò, xôi trắng, trầu cau, rượu, mũ áo, tiền 
vàng, trà nước, hoa quả theo mùa được người đăng cai sắm biện lễ vật 
theo quy định, việc này được thực hiện theo thứ tự luân phiên lần lượt đối 
với từng hộ gia đình làm nghề. 
Thành phần tham dự: gồm tất cả những thành viên trong phường nghề, 
không phân biệt trai gái, già trẻ đều được tham gia đông đủ. Ngoài ra, 
còn có bà con làm nghề nhuộm từ Đan Loan (Hải Dương) được mời lên 
cùng tham dự. Theo quy định thì những người được chọn vào đội tế phải 
có gia cảnh vẹn toàn, gia đình không có “bụi”. Quan trọng nhất là người 
giữ vị trí chủ tế (phải là người có chức sắc, thứ bậc trong phường nghề) 
và người viết văn tế (phải là người có kiến thức sâu rộng, văn hay chữ 
tốt). Các thành viên khác đều do sự phân công của phường nghề. Trình tự 
buổi tế tổ nghề cũng giống như buổi tế thần hoàng ở các ngôi đình làng 
truyền thống, có chủ tế, bồi tế, Đông xướng, Tây xướng, người dẫn lễ, 
nghinh lễ và người đọc văn. Số người tham gia đội tế gồm 12 thành viên. 
Chủ tế mặc trang phục màu đỏ, các thành viên tế mặc trang mục màu 
xanh. Lúc tế không được đọc tên húy của thần, mà phải đọc chệch chữ 
“Xương” là “Sang”. Đặc biệt, phường thợ nhuộm có lệ kiêng không được 
đọc, nói tên húy của tổ nghề trong mọi sinh hoạt thường ngày: “trong 
việc làm ăn, lúc đọc, lúc nói đều phải kiêng kỵ tên húy của tổ nghề. Nếu 
sơ ý sai nhầm thì phải chịu tiền phạt rất nặng”6. 
Thờ cúng tổ nghề kim hoàn: Từ xưa, người dân phố Hàng Bạc có hai 
kỳ lễ chính là vào mùa xuân từ ngày mùng 1 đến ngày 12 tháng 2, mùa 
thu (từ ngày mùng 1 đến ngày 12 tháng 8). Sau này, số ngày tế lễ được 
rút ngắn lại. Mùa xuân từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 5 tháng 2, mùa 
thu từ ngày mùng 1 đến mùng 5 tháng 8. Hiện nay, lễ tế xuân thu chỉ còn 
hai ngày là: ngày 12 tháng 2 và ngày 12 tháng 8. Lễ vật dâng cúng tổ 
nghề kim hoàn được quy định trong Khoán ước phố chợ Kim Ngân lập 
năm Giáp Dần, niên hiệu Cảnh Thịnh 2 (1794) gồm: “lợn 1 con, xôi 1 
mâm, cau trầu 60 miếng, rượu tinh khiết 1 chai, chân giò lợn 1 đôi, mỗi 
108 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
lễ chuẩn giá tiền 3 quan”7. Đến năm 1938, bản khai thần tích thần sắc 
đình Kim Ngân - Trương Thị, lễ vật cho hai kỳ lễ này đã được giảm đi, 
chỉ gồm: xôi trắng, thủ lợn (hoặc tam sinh: lợn, trâu, chim ngói), trầu cau, 
rượu được được người đăng cai sắm sửa theo quy định luân phiên rồi đặt 
lên hai ban thượng và hạ. Riêng đối với thượng ban, ngoài những đồ lễ 
theo quy định, phải có vật phẩm là một thoi bạc đặt lên ban thờ để tỏ lòng 
cung kính với tổ nghề. Vì phố Hàng Bạc có tới 2 ngôi đình cùng thờ tổ 
nghề kim hoàn, nên hai kỳ lễ trong năm dân làng phân chia nhau để sắm 
lễ: “cứ đến ngày 12 tháng 8, đình Trương Thị vào đám thì dân đình Thị 
(Kim Ngân) đem đồ lễ vàng, hương, trầu, rượu đến làm lễ Ngài. Đến 
ngày 12 tháng 2, đình Kim Ngân vào đám thì dân đình Trương Thị cũng 
sửa lễ mang xuống làm lễ”8. 
Thành phần tham gia: gồm tất cả bà con trong phố Hàng Bạc và 
những người làng Châu Khê được mời lên dự. Việc lựa chọn những 
thành viên trong đội tế vẫn phải là người có chức sắc hoặc có vai trò 
trong trọng trong phường nghề. Những thành viên trong đội tế không cần 
phải kiêng kỵ hoặc bị phạt vạ trong khi làm nhiệm vụ. Cũng như các 
phường nghề khác, những người tuổi cao luôn được giữ vị trí chủ đạo 
trong buổi tế: trong khi tế thì cụ Nhất được đứng chủ tế, còn dẫn tế thì 
tùy theo ngôi thứ vào dự lễ. 
Thờ cúng tổ nghề thêu: Theo bản khai thần tích, thần sắc của phố 
Hàng Mành năm 1938 thì tại đình Tú Thị diễn ra 3 kỳ tế lễ trong một 
năm, đó là lễ tế xuân (mùng 6, mùng 7 tháng 2). Lễ tế thu (mùng 6, mùng 
7 tháng 8). Lễ giỗ tổ (ngày mùng 3, mùng 4 tháng 6). Tuy nhiên, theo bia 
“Vũ Du tiên sư bi ký”, dựng năm Gia Long thứ 13 (1814) tại đền thờ tổ 
nghề tại làng Quất Động cho biết: “Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng 6, 
thợ thêu các làng sắm lễ vật, rước kiệu về làng Ngũ Xã để tế Tổ. Năm 
Cảnh Hưng (1740) được nâng bậc trong bách thần, ghi vào điển lễ. Năm 
Bính Dần (1746) vâng chiếu chỉ ban áo lễ của nhà vua, phong làm 
Thượng đẳng phúc thần, cho phép 5 xã tổng Vũ Du và quan Khang Công 
Phiên làm chủ tế lễ việc công”9. Theo những người thợ thêu làng Quất 
Động thì khoảng từ năm 1995 trở lại đây, thợ thêu cúng giỗ tổ nghề vào 
ngày 12 tháng 6 theo đúng ngày được ghi trong văn bia đền thờ tổ nghề ở 
Quất Động. Lễ vật dâng cúng tổ nghề của 2 kỳ lễ xuân thu, gồm: “hôm 
trước dùng lễ tam sinh, hôm sau dùng lễ nguyên sinh, có xôi và thanh 
bông, hoa quả, vàng hương, trầu cau, rượu”10 được người đăng cai sắm 
sửa theo thứ tự luân phiên trong chợ thợ Thêu thực hiện. Riêng đối với 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 109 
ngày giỗ tổ nghề, ngoài những đồ lễ theo quy định ở trên thì toàn bộ mũ, 
áo, cân đai, hia, quạt, biển lệnh, lọng, hoành phi, câu đối đều do chính 
tay những người thợ tự thêu bằng hai màu đỏ và vàng để tỏ lòng cung 
kính và biết ơn đối với tổ nghề. 
Thành phần tham dự: gồm tất cả những bà con trong chợ Thợ thêu và 
những bà con làng Quất Động cũng được mời lên Hà Nội tham dự. 
Những người có chức sắc được đứng chủ tế: “ai có phẩm hàm thì làm chủ 
tế, còn bồi tế, đọc văn, Đông xướng, Tây xướng, chấp sự nội ngoại thì 
tùy từng người trong chợ, ai giỏi việc nào thì vào việc ấy. Trước ngày 
làm lễ và trong khi làm lễ, ai được vào làm lễ thì phải tắm gội sạch sẽ và 
phải có mũ áo chỉnh tề theo thứ tự”11. Theo lệ, dân chợ thêu chỉ kiêng 
húy một chữ “Hành” gọi là “Hiềng” trong lúc xướng tế. 
Thờ cúng tổ nghề giày da: Những người thợ làng Chắm (Phong Lâm 
và Trúc Lâm) tổ chức tế lễ xuân thu vào hai ngày 13 tháng 2 và 13 tháng 
8 (âm lịch) nhằm cầu mong cho việc sản xuất, kinh doanh được thuận lợi. 
Lễ vật dâng cúng cho hai kỳ lễ này gồm: xôi, gà, lợn, gạo, thanh bông, 
hoa quả, trầu cau. Đặc biệt, vào hai dịp tế này, lễ vật cúng tế nhất thiết 
phải có sản phẩm là đôi giày da đặt trên ban thờ để tỏ lòng cung kính và 
biểu thị đặc trưng của nghề. 
Thành phần tham dự: phường thợ giày quy định những người được 
tham dự vào hai kỳ tế lễ gồm: “những người 18 tuổi đều có thể dự vào 
việc tế lễ ở đình được, trừ người nào có tang chế hay bận việc thì mới 
được miễn. Những người lớn tuổi được bố trí công việc nhẹ nhàng hơn. 
Người có chức sắc, gia đình vẹn toàn được đứng chủ tế. Đội tế có 12 
người tham gia”12. Trang phục của đội tế được quy định: “Lúc tế lễ thì 
người dự lễ phải mặc chiếc áo thụng lam hoặc tím để phân biệt trong khi 
làm lễ”13. Tuy nhiên, phường thợ giày da lại không quy định phải kiêng 
cữ hay bắt vạ những người có lỗi trong khi tế lễ. 
Thờ cúng tổ nghề sơn: Tại đình Hà Vĩ tổ chức 2 kỳ tế lễ xuân thu vào 
ngày mùng 8 tháng 2 và ngày mùng 8 tháng 8. Lễ vật dâng cúng gồm: 
Xôi, gà, lợn, gạo mới, chim ngói, hoa quả. Để tỏ lòng biết ơn đối với tổ 
nghề, thợ sơn còn dâng lên tổ nghề những sản phẩm mang đặc trưng của 
phường nghề như: tráp, ống hương, cây đèn, đài nước được sơn thếp 
cẩn thận đặt trước thánh vị tổ nghề. 
Thành phần tham dự gồm tất cả mọi thành viên trong làng “dân làng 
đều phải đi tế, chỉ trừ cho những người có tang và bận việc riêng mới 
110 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
được miễn”14. Những người có chức sắc thì đứng chủ tế. Trang phục lúc 
tế dùng áo thụng màu xanh và đội mũ15. 
Thờ cúng tổ nghề rèn: Những người thợ rèn tổ chức 2 kỳ lễ xuân thu 
vào ngày 22 tháng 2 và ngày 22 tháng 8. Lễ vật dâng cúng gồm: xôi, thủ 
lợn hoặc gà, thanh bông, tiền vàng, hương đăng, trà nước. 
Những người tham gia tế lễ gồm tất cả những gia đình làm nghề rèn ở 
phố Lò Rèn. Trong hai kỳ lễ này luôn có sự tham dự của bà con từ làng 
Hòe Thị, xã Xuân Phương, Từ Liêm. Quy định về việc trước và trong khi 
tế cũng có nét giống với tổ nghề giày da và nghề sơn, đó là: không có tục 
kiêng tên húy và lệ phạt vạ với những người có lỗi trong buổi tế lễ. 
Thờ cúng tổ nghề cổ yếm: Dân phố Hàng Đào tổ chức tế xuân, thu vào 
trung tuần tháng 2 và trung tuần tháng 8 âm lịch16. Lễ vật dâng cúng tổ 
nghề trong hai kỳ lễ là: “xôi, thủ lợn hoặc tam sinh, thanh bông, trầu cau, 
rượu sắm thành 2 lễ. Những lễ vật ấy trong hương ẩm đăng cai luân 
thứ mà làm”17. 
Thành phần tham dự: Tất cả bà con làm nghề cổ yếm trong phố Hàng 
Đào đều được tham dự. Chỉ trừ những người có tang thì không được vào 
chủ tế. Ngoài ra, không kiêng cữ gì cả18. Trang phục trang khi tế lễ được 
quy định dùng áo tấc lam và cũng không có cấm kỵ hay phạt vạ trong lúc 
tế lễ. 
Điều đặc biệt trong các kỳ tế lễ ở những di tích thờ cúng tổ nghề trong 
khu phố cổ Hà Nội là: sau các nghi thức tế lễ là phần hội diễn ra ngay tại 
sân đình với lễ trình nghề của các phường nghề nhằm trưng bày những 
sản phẩm mới, đặc sắc được ưa chuộng của thị trường. Lễ trình nghề 
ngoài mục đích báo công dâng lên tổ nghề còn là dịp trưng bày, giới thiệu 
sản phẩm đến những bạn hàng xa gần nhằm quảng bá và giới thiệu sản 
phẩm của mỗi nghề. Cũng trong hai dịp lễ này, những người làm nghề có 
cơ hội gặp gỡ, trao đổi, phổ biến những sáng kiến, kinh nghiệm để cùng 
nhau cải tiến nghề cũng như những công việc chung của hội nghề nghiệp 
mà họ đã gắn kết, quan tâm. 
5. Tạm kết 
Thờ cúng tổ nghề trong khu phố cổ quận Hoàn Kiếm, Hà Nội hiện nay 
là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa dân gian, tạo nên nét văn hóa đặc 
sắc của những phường nghề thủ công trong 36 phố phường xưa. Cho đến 
nay, mặc dù phần lớn các nghề thủ công không còn duy trì hoạt động, 
Nguyêñ Thị Thanh. Thờ cúng tổ nghề... 111 
nhưng những cơ sở thờ cúng tổ nghề vẫn được cộng đồng cư dân làm 
nghề và cư dân không làm nghề duy trì thờ cúng. Chính sự hiện diện của 
những cơ sở thờ tự cùng các nghi thức thờ cúng tổ nghề ngoài việc là 
bằng chứng về một giai đoạn phát triển sầm uất của các nghề thủ công 
trong khu vực 36 phố phường, còn phản ánh những tập tục sinh hoạt văn 
hóa tâm linh được các cộng đồng làm nghề mang từ các vùng miền ra 
Thăng Long để hội tụ, giao lưu, tiếp biến và tỏa sáng, tạo nên sự đa dạng 
văn hóa của mảnh đất kinh kỳ mà không nơi nào có được./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Gia phả hiện lưu giữ tại nhà thờ họ Bùi Trần, xã Quất Động, huyện Thường Tín, 
Hà Nội. Sách dày 16 trang, giấy bản cũ, chữ Hán viết Chân do Bùi Trần Tiễn 
chép lại vào tháng 8 năm Ất Dậu (1945). 
2 Trong các văn bia chữ Hán ghi là “đền”. Tuy nhiên, từ năm 1938 đến nay, trong 
các văn bản đều ghi là “đình” 
3 Bia “Bản thị tiên công liệt vị”, lưu tại Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội, 
ký hiệu: CB210. 
4 Bia: “Tú Đình trùng tu bi kí”, lưu tại Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội, ký 
hiệu: CB208. 
5 Trong bản khai thần tích thần sắc của làng Đan Loan chỉ ghi là vào tháng 2 và 
tháng 8, không ghi ngày cụ thể. 
6 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc làng Đan Loan, ký hiệu: 
TTTS 9000. 
7 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Changeurs, làng Kim 
Ngân - Trương Thị, ký hiệu: TTTS 3837. 
8 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Changeurs, làng Kim 
Ngân - Trương Thị, ký hiệu: TTTS 3837. 
9 Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2009), Làng nghề phố nghề Thăng Long Hà 
Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 370. 
10 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Mành, ký hiệu: 
TTTS 3879. 
11 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Mành, ký hiệu: 
TTTS 3879. 
12 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc ngõ Hàng Hành, làng Chúc 
Lâm, ký hiệu: TTTS 3753. 
13 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc ngõ Hàng Hành, làng Chúc 
Lâm, ký hiệu: TTTS 3753. 
14 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Hòm, làng Hà Vĩ, 
ký hiệu: TTTS 3867. 
15 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Hòm, làng Hà Vĩ, 
ký hiệu: TTTS 3867. 
16 Theo bản khai thần tích thần sắc phố Hàng Đào năm 1938. 
112 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́4 - 2016 
17 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Đào, làng Đồng 
Lạc, ký hiệu: TTTS 3859. 
18 Viện Viễn Đông Bác cổ (1938), Thần tích thần sắc phố Hàng Đào, làng Đồng 
Lạc, ký hiệu: TTTS 3859. 
Abstract 
THE CULT OF INVENTORS OF PROFESSIONS 
(A case study of Hoàn Kiếm district, Hà Nội) 
Despite only accounting for a modest amount (about 5%), relics of the 
cult of inventors of professions and their related cultic activities in the 
Hoàn Kiếm district have been the “spirit” of the religious life in the “36 
Old Streets” of Hanoi. These relics marked the presence of the traditional 
handicrafts and the cultural customs that have been maintained by the 
vocational communities. Currently, the places for the cult of inventors of 
professions are preserved and maintained along with the religious 
activities though many traditional handicrafts cease to exist. These places 
inform us development of numerous handicrafts in the “36 Old Streets” 
of Hanoi in the old days. Further, they have also affirmed the 
sustainability of the Vietnamese’s cultural and spiritual values. 
Keywords: Cult, professional ancestor, Hoàn Kiếm, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdftho_cung_to_nghe_nghien_cuu_truong_hop_quan_hoan_kiem_ha_noi.pdf