Tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách tại Việt Nam

Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách

tại các điểm đến du lịch ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra trong 3 nhóm gồm 15 nhân tố (biến)

tác động đến sự hài lòng của du khách (quốc tế và nội địa) tại Việt Nam: Tài sản trí tuệ địa phương,

Cơ sở vật chất và sự đáp ứng, Giá cả hàng hóa dịch vụ, vai trò của nhóm nhân tố tài sản trí tuệ địa

phương được thể hiện rõ nét nhất. Đây là nghiên cứu đầu tiên liên quan đến loại tài nguyên du lịch

đặc biệt này, giúp các địa phương có định hướng và chiến lược rõ ràng trong việc bảo vệ và nâng

cao giá trị của các tài sản trí tuệ địa phương để nâng cao sự hài lòng của du khách, qua đó thúc đẩy

sự phát triển du lịch địa phương.

pdf 14 trang kimcuc 20220
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách tại Việt Nam

Tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách tại Việt Nam
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
105Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
1. Đặt vấn đề
Du lịch đang mở ra cơ hội phát triển kinh 
tế cho các quốc gia đang phát triển, đồng thời 
cũng đặt ra nhiều thách thức, đó là sự giới hạn 
của nguồn tài nguyên du lịch với nhu cầu ngày 
càng cao và đa dạng của du khách. Dưới góc độ 
sở hữu trí tuệ, các tài nguyên du lịch đa dạng, 
từ những tên gọi gắn với địa danh (NewYork, 
Hội An, Huế...), hoặc các nguồn tài nguyên 
tự nhiên (Hạ Long, Đà Nẵng, Hawai...); hay 
những tri thức truyền thống và văn hóa dân 
gian gắn liền với nền văn hoá lâu đời của từng 
khu vực (cồng chiêng Tây Nguyên, ...). Ở các 
quốc gia phát triển, các dấu hiệu này được bảo 
Tóm tắt 
Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách 
tại các điểm đến du lịch ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra trong 3 nhóm gồm 15 nhân tố (biến)
tác động đến sự hài lòng của du khách (quốc tế và nội địa) tại Việt Nam: Tài sản trí tuệ địa phương, 
Cơ sở vật chất và sự đáp ứng, Giá cả hàng hóa dịch vụ, vai trò của nhóm nhân tố tài sản trí tuệ địa 
phương được thể hiện rõ nét nhất. Đây là nghiên cứu đầu tiên liên quan đến loại tài nguyên du lịch 
đặc biệt này, giúp các địa phương có định hướng và chiến lược rõ ràng trong việc bảo vệ và nâng 
cao giá trị của các tài sản trí tuệ địa phương để nâng cao sự hài lòng của du khách, qua đó thúc đẩy 
sự phát triển du lịch địa phương.
Từ khóa: tài sản trí tuệ địa phương, sự hài lòng, du khách, phân tích nhân tố.
Mã số: 242. Ngày nhận bài: 22/032016. Ngày hoàn thành biên tập: 18/05/2016. Ngày duyệt đăng: 18/05/2016.
Abstract 
The research aims to evaluate the impacts of local intellectual assets on the satisfaction of both 
foreign and domestic tourists coming to different tourist destinations in Vietnam. Three groups of 
fifteen factors affecting tourist satisfaction are indicated in the study including responsiveness, price 
of services and commodities, and the most significant determinants namely local intellectual assets. 
To our knowledge, this is the first study related to such a special tourism resource like intellectual 
assets. It is conducted in hope of providing localities with clear orientation and thorough strategies 
to protect and promote the value of intellectual assets so that tourist satisfaction is enhanced and 
tourism is fostered.
Key words: local intellectual asset, satisfaction, traveler, factor analysis. 
Paper No. 242. Date of receipt: 22/032016. Date of revision: 18/05/2016. Date of approval: 18/05/2016.
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐỊA PHƯƠNG 
ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH TẠI Việt Nam
Lê Thị Thu Hà* 
Phạm Văn Chiến**
* TS, Trường Đại học Ngoại thương; email: hachauftu@gmail.com
** ThS, Trường Đại học Ngoại thương; email: chienpv@ftu.edu.vn
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
106 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
hộ độc quyền sở hữu trí tuệ và khai thác theo 
hệ thống cấp phép nhằm tạo chuẩn chất lượng, 
đa dạng hóa các gói sản phẩm và dịch vụ, tạo 
ra nguồn thu nhập từ phí nhượng quyền, thu 
hút đầu tư nước ngoài, phát triển thị trường 
và xúc tiến quảng bá thương hiệu du lịch và 
thương mại của địa phương. Những tài sản 
trí tuệ này là nguồn tài nguyên vô tận, khắc 
phục sự giới hạn và đang dần cạn kiệt của các 
nguồn tài nguyên sẵn có, trở thành một bộ 
phận quan trọng trong quá trình phát triển của 
địa phương đồng thời tạo nên điểm khác biệt 
và dấu hiệu nhận biết của địa phương đó trên 
bình diện quốc tế (George 2010).
Việt Nam nói chung và mỗi địa danh du 
lịch như Quảng Ninh, Huế, Hạ Long, Nha 
Trang, Vũng Tàu, Phong Nha, Phú Quốc đều 
nó đặc trưng về tài nguyên du lịch riêng và có 
ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách du lịch, 
qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng khai 
thác và thu hút khách du lịch nước ngoài. Vì 
vậy, việc đo lường sự hài lòng của du khách 
tại các điểm đến du lịch ở Việt Nam thông qua 
tác động của tài sản trí tuệ (TSTT) và các nhân 
tố khác đến sự hài lòng của du khách dưới cả 
góc độ lý luận và thực tiễn đều rất cần thiết 
đối với hoạt động bảo vệ và khai thác tài sản 
trí tuệ địa phương đó trong chiến lược phát 
triển du lịch.
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1 Tài sản trí tuệ và tài sản trí tuệ địa 
phương
Tài sản trí tuệ 
“Tài sản trí tuệ” (intellectual asset) là thuật 
ngữ trừu tượng (Grant, 1997), được sử dụng 
trong nhiều lĩnh vực khác nhau (kế toán, đầu 
tư, quản trị, chính sách, kinh tế). Các nghiên 
cứu đầu tiên về TSTT xuất phát từ nhu cầu giải 
thích các bộ phận cấu thành tổng giá trị hay 
giá trị thị trường của các công ty. Kể từ những 
năm cuối của thập niên 90, sự chênh lệch đáng 
kể giữa giá trị trên sổ sách thể hiện trên báo 
cáo tài chính so với giá trị thị trường của các 
công ty được cho là do các tài sản vô hình mà 
các công ty đó sở hữu (Barney, 1991; Hall, 
1992; Smith, 1994; Boudreau and Ramstad, 
1997; Sveiby 1997; Edvinsson & Malone, 
1997; Bontis, 1998; Lev and Zarowin, 1999; 
Lev, 2001; Lev & Radhakrishnan, 2003). 
Trong các nghiên cứu này, tài sản trí tuệ còn 
được sử dụng bên cạnh các thuật ngữ như “tài 
sản vô hình” (intangible asset), “vốn trí tuệ” 
(intellectual capital). Các quan điểm này tương 
đối đồng nhất về tài sản vô hình - thuật ngữ có 
phạm trù rộng nhất, là những tài sản không 
nhìn thấy được nhưng lại có khả năng đem lại 
giá trị cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với 
hai thuật ngữ còn lại, có ba quan điểm chính 
như sau. Quan điểm thứ nhất không phân biệt 
hai thuật ngữ này mà sử dụng TSTT và vốn trí 
tuệ với nghĩa tương đương nhau (Hall, 1992; 
Smith, 1994; Lev, 2001; Marr và Schiuma, 
2001; Mayo, 2001). Một số ít các học giả xếp 
“vốn trí tuệ” như một bộ phận của “tài sản trí 
tuệ” (Bontis, 1998; Hussi và Ahonen, 2002). 
Đa số còn lại đều cho rằng “tài sản trí tuệ” 
là một bộ phận của “vốn trí tuệ” (Brooking, 
1997; Alberto Torres, 1999; Sullivan, 2000, 
Ståhle và Grönroos, 2000; Lev, 2001). Khái 
niệm tài sản trí tuệ được dẫn chiếu nhiều trong 
các nghiên cứu sau này là khái niệm do Lev 
(2001, trang 7) đưa ra, theo đó, “tài sản trí tuệ 
là các nguồn lực phi vật chất có khả năng tạo 
ra giá trị cho doanh nghiệp được tạo ra bởi 
hoạt động đổi mới sáng tạo, phát minh, những 
thiết kế độc đáo của tổ chức hoặc những hoạt 
động khác của nhân viên”. Dựa trên khái 
niệm này, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa sở 
hữu trí tuệ (TSTT) và các loại tài sản vô hình 
khác như nguồn nhân lực, các mối quan hệ và 
văn hóa doanh nghiệp: TSTT có thể thương 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
107Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
mại hóa được trong khi những tài sản vô hình 
còn lại thì không.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ sử 
dụng theo cách hiểu thứ ba, theo đó vốn trí tuệ 
(intellectual capital) bao gồm tất cả các nguồn 
tài nguyên tri thức mà các công ty có thể tiếp 
cận và sử dụng, kể cả đội ngũ nhân viên và kỹ 
năng của họ. Một bộ phận trong vốn trí tuệ sẽ 
được hữu hình hóa dưới dạng TSTT, là những 
thứ xác định, dễ dàng nhận diện hơn mà một 
công ty có thể nói đang sở hữu nó, như các 
hợp đồng, các bí quyết đặc biệt được thể hiện 
trong sản phẩm Nói cách khác TSTT được 
hiểu là tri thức do con người tạo ra thông qua 
hoạt động sáng tạo, có khả năng ứng dụng 
và tạo ra giá trị từ việc sử dụng tri thức đó. 
Khi các tài sản này được bảo vệ dưới góc độ 
pháp lý sẽ trở thành các quyền sở hữu trí tuệ 
(SHTT) (xem hình 1).
Quyền SHTT 
Tài sản trí tuệ 
Vốn trí tuệ 
Hình 1: Mối quan hệ giữa vốn trí tuệ, tài 
sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tổng hợp
Tài sản trí tuệ địa phương
Khái niệm tài sản trí tuệ địa phương (local 
intellectual assets) hầu như chưa xuất hiện 
trong các nghiên cứu và không có định nghĩa 
hay khái niệm cụ thể cho thuật ngữ này. 
Theo Từ điển tiếng Việt, địa phương là 
“khu vực, trong quan hệ với vùng, khu vực 
khác trong nước”. Có thể thấy, từ khái niệm 
này, địa phương là những vùng đất nhất định 
nằm trong một quốc gia, có những sắc thái đặc 
thù riêng về kinh tế, văn hóa và xã hội. Do 
đó, khái niệm “địa phương” có thể được hiểu 
theo nghĩa rộng nhất, là những đơn vị hành 
chính lãnh thổ như các xã, huyện, tỉnh, thành 
phố nhưng cũng có thể là những vùng đất nhất 
định, được hình thành trong lịch sử, có ranh 
giới tự nhiên để phân biệt với vùng đất khác.
Các nghiên cứu về TSTT của mỗi khu 
vực, địa phương thường tiếp cận theo từng 
đối tượng cụ thể, như các chỉ dẫn địa lý 
(Rangnekar, 2004), nhãn hiệu tập thể, nhãn 
hiệu chứng nhận hay các di sản phi vật thể 
(George, 2010), các tri thức bản địa, tri thức 
truyền thống gắn với nguồn tài nguyên của địa 
phương đó (WIPO). 
Nhóm nghiên cứu sử dụng khái niệm tài 
sản trí tuệ địa phương với ý nghĩa nhấn mạnh 
tới mối liên hệ với yếu tố đặc thù của lãnh thổ, 
chỉ kết quả hoạt động sáng tạo của các chủ thể 
trong khu vực lãnh thổ đó gắn với lịch sử, tổ 
chức xã hội và các hoạt động cộng đồng. Khái 
niệm này có nhiều điểm tương đồng với thuật 
ngữ “terroir” đưa ra bởi Tim Jossling, (2006) 
và Bowen & Zapata (2009) hay thuật ngữ 
“territorial brands” (E. Lorenzini et al, 2011). 
Trong các nghiên cứu của Việt Nam, không có 
thuật ngữ tương đương mà chỉ có khái niệm 
“các sản phẩm đặc sắc” để chỉ các sản phẩm 
đặc thù ở địa phương (Lê, 2012). Như vậy, tài 
sản trí tuệ địa phương chỉ những tài sản trí tuệ 
có mối liên hệ chặt chẽ với điều kiện tự nhiên, 
văn hóa, xã hội và con người của vùng đất đó. 
Những tài sản này, vốn là tài sản chung của 
cả cộng đồng, đang trở thành hàng hóa quan 
trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội 
của địa phương, đồng thời trở thành và tạo nên 
điểm khác biệt cũng như dấu hiệu nhận biết 
của địa phương đó trên bình diện quốc gia và 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
108 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
quốc tế, đặc biệt dưới góc độ phát triển du lịch 
(Rangnekar, 2003; George 2010; WIPO).
TSTT của mỗi địa phương là khác nhau, 
được thể hiện thông qua tài nguyên tự nhiên 
và tài nguyên nhân văn của địa phương đó, 
bao gồm:
- Tên gọi gắn liền với thắng cảnh tự nhiên 
hoặc công trình kiến trúc địa phương như 
Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Chùa Một Cột 
và các biểu tượng, hình ảnh đi kèm. Các dấu 
hiệu này có thể được đăng ký bảo hộ dưới dạng 
nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý hoặc nhãn 
hiệu chứng nhận hay các danh hiệu của các 
tổ chức quốc tế như UNESCO gắn với chất 
lượng của các di sản hay các công trình được 
bảo vệ. Các chứng nhận hay danh hiệu này 
thường được đề cập đến trong các nghiên 
cứu về du lịch sinh thái hay du lịch bền vững 
(Buckley, 2002; Font & Harris, 2004; Font 
& Tribe, 2001; Hamele, 2002). Trong số các 
chứng nhận trên, chứng nhận danh hiệu Di sản 
văn hóa thế giới là một chứng nhận được biết 
đến rộng rãi đối với các điểm du lịch. Ngoài ra, 
tùy vào đặc thù của địa phương mà có những 
chứng nhận khác nhau như chứng nhận 10 bãi 
biển đẹp nhất Việt Nam hay chứng nhận 10 
khu du lịch sinh thái đẹp nhất Việt Nam
- Các sản phẩm đặc sắc: Các đặc sản địa 
phương, tập trung chủ yếu là các nhãn hiệu tập 
thể và chỉ dẫn nguồn gốc có vai trò quan trọng 
đối với sự phát triển của địa phương (Moran, 
1993; Ray, 1998; Tregear, 2003; Rangnekar, 
2003) và trong phát triển du lịch (Bessière, 
1998; Santagata, Russo& Segre, 2007). 
Các sản phẩm đặc sắc của địa phương cũng 
có thể được quản lý tập thể dưới dạng các 
nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận hoặc 
chỉ dẫn địa lý. Santagana et al (2007) đã đưa 
ra hai chức năng chính của các quyền sở hữu 
trí tuệ tập thể này là chức năng thông tin về 
chất lượng đặc thù của hàng hóa và dịch vụ 
mang nhãn, đồng thời có chức năng tổ chức. 
Có được các chức năng này là nhờ các quyền 
SHTT tập thể hướng đến việc thiết lập các 
tiêu chuẩn, quy tắc, chuẩn mực đồng thời cả 
cơ chế về tài chính cho việc phát triển kinh 
doanh trong khu vực, cộng đồng hoặc hiệp hội 
các nhà sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, quyền 
SHTT được xem là tài sản cho sự phát triển 
bền vững. 
- Tri thức truyền thống và văn hóa dân 
gian: là sản phẩm sáng tạo của nhiều thế hệ 
và cộng đồng xã hội phản ánh và xác định lịch 
sử, văn hóa, bản sắc và các giá trị xã hội của 
cộng đồng đó” (Wendland, 2006). Tri thức 
truyền thống phản ánh lối sống của cộng đồng 
địa phương hoặc được ghi chép và truyền lại 
từ đời này sang đời khác. Wendland cũng cho 
rằng nguồn gốc của tri thức truyền thống là sự 
tương tác qua lại giữa sáng tạo cá nhân và sáng 
tạo tập thể, vì vậy rất khó có thể xác định được 
các cá nhân đã tạo ra tri thức đó. Wendland 
cũng chỉ ra các đặc điểm của tri thức truyền 
thống như: tri thức truyền thống được truyền 
từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua truyền 
miệng hoặc bắt chước; tri thức truyền thống 
thể hiện văn hóa cộng đồng và các yếu tố định 
danh của xã hội; tri thức truyền thống là một 
bộ phận đặc trưng làm nên di sản văn hóa của 
cộng đồng; tri thức truyền thống được sáng 
tạo ra bởi những tác giả vô danh, bởi cộng 
đồng; tri thức truyền thống không được tạo 
ra vì mục đích thương mại; và tri thức truyền 
thống liên túc được phát triển và tái tạo lại 
cùng với cộng đồng (Wendland, 2006, tr. 328). 
Sau nhiều thế kỷ phát triển, các tri thức truyền 
thống này đang có những hình thức thể hiện 
mới và có thể được chuyển biến thành hàng 
hóa (commodification), phục vụ mục tiêu phát 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
109Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch 
nói riêng.
Tóm lại, TSTT địa phương được hiểu là 
“tri thức do con người tạo ra thông qua hoạt 
động sáng tạo có mối liên hệ chặt chẽ với 
điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội và con 
người của một vùng đất hoặc khu vực địa 
lý, có khả năng ứng dụng và tạo ra giá trị từ 
việc sử dụng tri thức đó”. TSTT địa phương 
bao gồm: các tên gọi gắn với địa danh, các sản 
phẩm đặc sắc và các tri thức truyền thống và 
văn hóa dân gian. 
Mối quan hệ giữa TSTT địa phương và 
phát triển du lịch
Hiện nay, chưa có nghiên cứu nào về tác 
động tổng thể của TSTT địa phương đối với 
việc phát triển du lịch. Tuy nhiên, một số tác 
giả cũng đã nghiên cứu tác động của việc khai 
thác một số loại TSTT địa phương riêng lẻ đối 
với ngành kinh tế này. Nghiên cứu về thương 
hiệu địa phương (territorial brands), các tác 
giả Parrott, Wilson và Murdoch (2002) đã chỉ 
ra rằng các dấu hiệu này là một yếu tố quan 
trọng trong phát triển du lịch. Tầm quan trọng 
của nó được thể hiện thông qua hai khía cạnh: 
thứ nhất, các nhãn hiệu địa phương (NHĐP) 
tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn của địa phương 
đối với du khách; thứ hai, việc sử dụng các 
NHĐP vào phát triển du lịch sẽ góp phần hình 
thành và phát triển hệ thống phân phối đối với 
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ sử dụng các 
nhãn hiệu địa phương đó. Nghiên cứu định 
lượng của Lorenzini et al. (2011) về NHĐP 
trong phát triển du lịch của vùng Marche 
(Italia) cũng chỉ ra rằng các NHĐP của một địa 
phương là một trong những yếu tố cấu thành 
năng lực cạnh tranh của du lịch địa phương đó. 
Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra rằng trong 
tương lai cần phải có nhiều nghiên cứu sâu 
hơn, về mặt định lượng, về ý nghĩa của các 
NHĐP như một nhân tố ảnh hưởng đến năng 
lực cạnh tranh. Trong nghiên cứu ... 2. Thang đo
Nghiên cứu áp dụng thang đo chất lượng 
dịch vụ SERVPERF với 6 nhân tố và 31 biến 
quan sát để đánh giá sự hài lòng của du khách 
(quốc tế và nội địa) đối với các điểm đến du 
lịch tại Việt Nam. Tất cả các biến nghiên cứu 
đều được đo lường theo thang đo Likert 5 
điểm thể hiện mức độ đồng ý của người tham 
gia trả lời khảo sát: 1 điểm (hoàn toàn không 
đồng ý), 2 điểm (không đồng ý), 3 điểm (trung 
lập), 4 điểm (đồng ý) và 5 điểm (hoàn toàn 
đồng ý).
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá 
thông qua hệ số Cronbach’s alpha. Phân tích 
hệ số Cronbach’s alpha để loại bỏ các biến 
không phù hợp, hạn chế các biến rác trong 
quá trình nghiên cứu. Trong phân tích hệ số 
Cronbach’s alpha, 3 chỉ tiêu sau đây được 
quan tâm (Nunnally và Bernstein, 1994): 
- Hệ số Cronbach’s alpha từ 0,6 trở lên là 
tiêu chuẩn để chọn thang đo.
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
113Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
- Các biến quan sát có hệ số tương quan 
biến - tổng (item- total correlation) nhỏ hơn 
0,3 sẽ bị loại.
- Hệ số Cronbach’s alpha của thang đo nếu 
loại biến lớn hơn hệ số Cronbach’s alpha của 
thang đo thì loại biến đó.
Bảng 1: Thông tin nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu
Chỉ tiêu Tần số Phần trăm
Điểm du lịch 
khảo sát
Hà Nội 66 14.8%
Hạ Long 122 27.4%
Ninh Bình 146 32.7%
Hội An 112 25.1%
Tổng 446 100%
Giới tính
Nam 247 55.4%
Nữ 199 44.6%
Tổng 446 100%
Tuổi
Dưới 25 tuổi 72 16.1%
Từ 25-34 tuổi 186 41.7%
Từ 35-44 tuổi 109 24.4%
Từ 45-54 tuổi 56 12.6%
Trên 55 tuổi 23 5.2%
Tổng 446 100%
Quốc tịch
Châu Á (ngoài Việt Nam) 59 36.2%
Châu Âu 62 38.1%
Châu Mĩ 35 21.9%
Khác 6 3.8%
Tổng 162 100%
Nghề nghiệp
Công nhân, kĩ sư 63 14%
Cán bộ, nhân viên văn phòng 80 18%
Kinh doanh buôn bán, công việc 
tự do 85 19%
Học sinh sinh viên 59 13%
Bác sĩ, y tá, dược 37 8%
Giáo viên, tư vấn 58 13%
Nghỉ hưu, nội trợ, nông dân 35 8%
Khác 29 7%
Tổng 446 100%
Nguồn: Tổng hợp trên mẫu nghiên cứu 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
114 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
5. Kết quả và thảo luận
5.1. Thông tin chung về mẫu số liệu nghiên 
cứu
Số liệu thống kê cho thấy một số đặc điểm 
nhân khẩu học của mẫu được khảo sát. Về giới 
tính, tỉ lệ nam nữ tương đối bằng nhau, trong 
đó nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn (55,4%) so 
với nữ giới (44,6%), điều này là phù hợp với tỷ 
lệ thực tế của du khách theo giới tính. Về tuổi, 
độ tuổi từ 25-34 chiếm ưu thế với tỉ lệ 42%, 
điều này là phù hợp do nhóm tuổi này bắt đầu 
có thu nhập, hầu hết là mới hoặc chưa có gia 
đình nên nhu cầu chi tiêu cho gia đình, con cái 
không nhiều dẫn đến nhu cầu du lịch cao.
5.2. Phân tích hệ số Cronbach’s alpha
Kết quả phân tích cho thấy, các thang đo 
đo lường các chỉ tiêu nghiên cứu đều có hệ số 
Cronbach’s alpha đạt yêu cầu (lớn hơn 0,6). 
Có 1 biến quan sát không đạt yêu cầu là RES3 
(Thời gian phục vụ nhanh chóng) do hệ số 
Cronbach’s alpha của thang đo tăng lên nếu 
loại biến. Các biến còn lại đều có hệ số tương 
quan biến - tổng lớn hơn 0,3 và không có hệ số 
Cronbach’s alpha nếu loại biến tăng. Do đó, 
biến RES3 bị loại trước khi thực hiện phân 
tích nhân tố khám phá EFA.
5.3. Phân tích nhân tố
Như đã đề cập ở phần trên, để đảm bảo 
tính hội tụ, hệ số tải nhân tố phải đảm bảo 
lớn hơn 0,5, và để đảm bảo tính phân biệt, 
thì hệ số tải lớn nhất của biến phải có khoảng 
cách từ 0,3 trở lên so với hệ số tải vào các 
nhân tố còn lại.
Theo các điều kiện trên, 30 biến (sau khi 
loại 1 biến sau phân tích Cronbach’s Alpha 
ở trên) được đưa vào chạy phân tích nhân tố 
khám phá EFA, sau đó tiến hành loại các biến 
không đảm bảo điều kiện hội tụ hoặc phân biệt 
bằng phương pháp loại dần từng biến, chạy lại 
phân tích EFA và đánh giá lại.
Kết quả, lần lượt 15 biến bị loại sau 15 lần 
chạy EFA do không đảm bảo điều kiện hội tụ 
hoặc điều kiện phân biệt, lần lượt là: SER1, 
IP8, IP5, IP9, SYM2, SER4, SER3, PRI1, 
RES1, RES2, PRI4, IP6, SYM3, SYM4, 
SER2.
Kết quả phân tích nhân tố EFA (lần thứ 15) 
với 15 biến hội tụ về 3 nhân tố được thể hiện 
trong bảng 2.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA 
đối với các biến độc lập có hệ số KMO = 0,907 
> 0,5 đạt yêu cầu và kiểm định Barlett’s có ý 
nghĩa về mặt thống kê (Sig. = 0,000 < 0,05) cho 
thấy phân tích nhân tố là phù hợp. 
Kết quả xoay ma trận các nhân tố đã cho 
thấy tất cả các biến có hệ số tải nhân tố lớn 
hơn 0,5. Ma trận đã trích được 3 nhân tố từ 
15 biến quan sát tại mức giá trị có eigenvalue 
bằng 1,315 > 1 và phương sai trích là 55,875% 
> 50% cho biết 3 nhân tố này giải thích được 
55,875% biến thiên của dữ liệu.
Qua bảng ma trận xoay ở trên, 6 nhân tố được 
giả định là có ảnh hưởng đến sự hài lòng của du 
khách đã gom thành 3 nhóm nhân tố mới. 
- Nhóm nhân tố thứ nhất: gồm các biến IP1, 
IP2, IP3, IP4, IP7, IP10 thuộc thang đo TSTT 
địa phương hội tụ về 1 nhân tố. Như vậy nhóm 
nhân tố này vẫn giữ tên là “tài sản trí tuệ địa 
phương” (Kí hiệu TSTT).
- Nhóm nhân tố thứ 2: gồm các biến FAC1, 
FAC2, FAC3, FAC4, FAC5, SYM1 hội tụ về 1 
nhân tố. Như vậy 6 biến của nhóm nhân tố này 
gồm 5 biến “cơ sở vật chất” và 1 biến về “sự 
đáp ứng”. Nhóm nhân tố này theo đó được đặt 
tên mới là “cơ sở vật chất và sự đáp ứng” (Kí 
hiệu CSVCDU).
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
115Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
Bảng 2: Phân tích nhân tố EFA thang đo các biến độc lập
Tên biến
Kí hiệu 
biến
Nhân tố
1 2 3
Danh tiếng / Thương hiệu chung của điểm đến IP2 .785 
Tên gọi gắn với tài nguyên tự nhiên của điểm du lịch IP10 .764 
Chứng nhận của các tổ chức quốc tế như Di sản văn 
hóa thế giới, UNESCO
IP1 .757 
Các sản phẩm thủ công truyền thống địa phương IP4 .756 
Các đặc sản địa phương IP7 .725 
Các lễ hội văn hóa và chương trình nghệ thuật, biểu 
diễn
IP3 .649 
Cơ sở dịch vụ ăn uống, vệ sinh, nước tại điểm tham 
quan
FAC3 .687 
Khu mua sắm đồ lưu niệm FAC4 .682 
Cơ sở dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe FAC5 .669 
Cơ sở lưu trú FAC2 .661 
Đường xá, phương tiện đi lại FAC1 .615 
Du khách luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình khi cần SYM1 .593 
Giá các món quà lưu niệm PRI3 .799
Giá các món ăn đặc sản PRI2 .777
Giá phương tiện lưu động PRI5 .654
Cronbach’s Alpha 0.864 0.779 0.666
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu bằng SPSS trên mẫu nghiên cứu
- Nhóm nhân tố thứ 3: gồm các biến PRI2, 
PRI3, PRI5 thuộc thang đo giá cả hàng hóa 
dịch vụ hội tụ về một nhân tố. Nhóm các nhân 
tố này vẫn giữ tên “giá cả hàng hóa dịch vụ” 
(Kí hiệu GIACA).
4.4. Phân tích hồi quy
Mô hình hồi quy đa biến theo phương pháp 
bình phương bé nhất (OLS) được lựa chọn để 
xem xét tác động của các nhân tố đến sự hài 
lòng. Mô hình này đã được các nghiên cứu 
trước như Aliman và cộng sự (2014), Mai 
Ngọc Khương và Phạm Đắc Luận (2015) vận 
dụng để xem xét tác động của một hoặc nhiều 
biến nguyên nhân (biến độc lập) đến biến kết 
quả (biến phụ thuộc) sự hài lòng. Mô hình 
các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du 
khách có dạng như sau: 
SHL = β0 + β1.TSTT + β2.CSVCDU 
+ β3.GIACA + ε
Trong đó:
- SHL: biến phụ thuộc (Y) thể hiện sự hài 
lòng của du khách.
- Các biến độc lập (Xi): gồm có 3 biến 
TSTT (tài sản trí tuệ địa phương), CSVCDU 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
116 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
(cơ sở vật chất và sự đáp ứng), GIACA (giá cả 
hàng hóa dịch vụ).
- β0: hệ số chặn, có ý nghĩa là khi các biến 
độc lập bằng 0 thì biến phụ thuộc nhận giá trị 
trung bình là β0.
- βi (i=1,2,3): hệ số hồi quy lần lượt của các 
biến TSTT, CSVCDU, GIACA, có ý nghĩa là 
khi biến độc lập thay đổi 1 đơn vị với điều 
kiện các yếu tố khác không đổi thì biến phụ 
thuộc thay đổi βi đơn vị.
- ε: phần dư ngẫu nhiên có phân phối chuẩn 
với trung bình là 0 và phương sai không đổi σ, 
thể hiện các yếu tố khác chưa đưa vào mô hình.
Bảng kết quả hồi quy dưới đây cho thấy 
hệ số R2 = 0,530 và R2 hiệu chỉnh = 0,527. R2 
hiệu chỉnh phản ánh sát hơn mức độ phù hợp 
của mô hình hồi quy tuyến tính bội vì R2 hiệu 
chỉnh không phụ thuộc vào độ lệch phóng đại 
của R2. Kết quả R2 hiệu chỉnh = 0,527 có ý 
nghĩa là các nhân tố Tài sản trí tuệ địa phương, 
Cơ sở vật chất và sự đáp ứng, Giá cả hàng hóa 
dịch vụ đã giải thích được 52,7% sự biến thiên 
của sự hài lòng của du khách tại Việt Nam. 
47,3% sự biến thiên còn lại của sự hài lòng 
của du khách được giải thích bởi các nhân tố 
khác chưa biết hoặc chưa đưa vào mô hình.
Bảng 3: Kết quả hồi quy
Nhân tố
β
Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số chuẩn hóa Thống 
kê t
Sig.
Sai số chuẩn Beta
1 (Constant) .005 .034 .142 .887
TSTT .524 .034 .526 15.343 .000
CSVC-DU .403 .034 .402 11.711 .000
GIA-CA .308 .034 .309 9.004 .000
R2 = 0,530
R2 hiệu chỉnh = 0,527
Thống kê Durbin - Watson = 1,628
Thống kê F = 150,195 Sig. = 0,000
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu bằng SPSS trên mẫu nghiên cứu
Với kết quả từ dữ liệu phân tích, 3 nhân tố 
có tác động đến sự hài lòng của du khách tại 
Việt Nam là Tài sản trí tuệ địa phương, Cơ 
sở vật chất và sự đáp ứng, Giá cả hàng hóa 
dịch vụ. Phương trình hồi quy tuyến tính bội 
như sau:
SHL = 0,526. TSTT + 0,402. CSVCDU 
+ 0,309. GIACA + ε
Mô hình giải thích được 52,7% sự biến 
động của sự hài lòng.
Tóm lại, qua phân tích mô hình hồi quy, sự 
hài lòng của du khách có quan hệ dương với 
với các thành phần: Tài sản trí tuệ địa phương, 
Cơ sở vật chất và sự đáp ứng, Giá cả hàng 
hóa dịch vụ. Mỗi thành phần có mức độ tác 
động khác nhau đến sự hài lòng của du khách, 
trong đótài sản trí tuệ địa phương là nhân tố 
có ảnh hưởng lớn nhất, với hệ số 0,526, nghĩa 
là nếu cải thiện được yếu tố Tài sản trí tuệ địa 
phương lên 1 đơn vị, thì sẽ làm tăng mức độ 
hài lòng của du khách lên thêm 0,526 điểm. 
Đây là cơ sở đề xuất các giải pháp trong chiến 
lược phát triển tài sản trí tuệ địa phương và 
các yếu tố khác nhằm thúc đẩy sự phát triển 
du lịch của các địa phương.
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
117Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
Bảng 4: Trị số trung bình giá trị cảm nhận của du khách
Kí hiệu 
biến
Yếu tố
Trị số trung 
bình (mean)
TSTT TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐỊA PHƯƠNG 3.75
IP1 Các chứng nhận quốc tế như Di sản văn hóa thế giới của UNESCO 3.81
IP2 Danh tiếng / Thương hiệu chung của điểm đến 3.91
IP3 Các lễ hội văn hóa và chương trình nghệ thuật, biểu diễn 3.64
IP4 Các sản phẩm thủ công truyền thống 3.68
IP7 Các đặc sản địa phương 3.72
IP10 Tên gọi gắn với tài nguyên tự nhiên của điểm du lịch 3.76
CSVCDU CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ SỰ ĐÁP ỨNG 3.58
FAC1 Đường xá, phương tiện đi lại 3.50
FAC2 Cơ sở lưu trú 3.65
FAC3 Cơ sở dịch vụ ăn uống, vệ sinh, nước tại điểm tham quan 3.56
FAC4 Khu mua sắm đồ lưu niệm 3.56
FAC5 Cơ sở dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe 3.49
SYM1 Du khách luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình khi cần 3.72
GIACA GIÁ CẢ 3.50
PRI2 Giá các món ăn đặc sản 3.38
PRI3 Giá các món quà lưu niệm 3.27
PRI5 Giá phương tiện lưu động (xe điện) 3.54
SHL SỰ HÀI LÒNG 3.47
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả xử lý dữ liệu bằng SPSS trên mẫu nghiên cứu
4.5 Phân tích mức độ đánh giá của du 
khách về các thành phần
Thống kê mô tả giá trị trung bình được sử 
dụng để đánh giá mức độ cảm nhận của du 
khách về các thành phần nêu trên. Bảng 4 cho 
thấy mức độ đánh giá của du khách đối với 
các thành phần về chất lượng dịch vụ du lịch 
tại các điểm đến ở Việt Nam đều ở mức khá.
Nhìn chung, du khách khá hài lòng với 
dịch vụ du lịch tại Việt Nam (mean = 3.47), 
tuy nhiên chỉ số này vẫn chưa phải ở mức cao.
Trong các yếu tố thành phần, tài sản trí tuệ 
địa phương được đánh giá ở mức cao nhất 
(mean = 3.75), đây cũng chính là thành phần 
có tác động mạnh nhất đến sự hài lòng của du 
khách theo kết quả của mô hình hồi quy ở trên. 
Các thành phần còn lại được đánh giá ở mức 
khá là Cơ sở vật chất và sự đáp ứng (3.58) và 
Giá cả (3.50).
Kết quả đánh giá chi tiết theo các biến quan 
sát cho thấy một số yếu tố được du khách đánh 
giá tốt như Danh tiếng / Thương hiệu của điểm 
đến (3.91), Quần thể kiến trúc điểm đến (3.81), 
Tài nguyên tự nhiên của điểm du lịch (3.76), 
Du khách luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình 
khi cần (3.72). Bên cạnh đó, cũng còn nhiều 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
118 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
yếu tố được du khách đành giá ở mức tương 
đối thấp so với các yếu tố khác cùng thành 
phần là Giá các món quà lưu niệm (3.27), Giá 
các món ăn đặc sản (3.38), Cơ sở dịch vụ y tế, 
chăm sóc sức khỏe (3.49), Đường xá, phương 
tiện đi lại (3.50), Các lễ hội văn hóa và chương 
trình nghệ thuật, biểu diễn (3.64).
6. Kết luận
Kết quả nghiên cứu chỉ ra trong 3 nhóm 
gồm 15 nhân tố (biến) tác động đến sự hài 
lòng của du khách (quốc tế và nội địa) tại Việt 
Nam thì vai trò của tài sản trí tuệ địa phương 
được thể hiện rõ nét nhất. Như vậy bên cạnh 
hai nguồn tài nguyên du lịch truyền thống là 
tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, 
tiếp cận này sẽ mở ra cho ngành du lịch một 
hướng phát triển một loại tài sản mới là TSTT. 
Đây là nguồn tài nguyên vô tận, được sáng 
tạo và phát triển dựa vào khả năng sáng tạo 
của cộng đồng bản địa, doanh nghiệp và chính 
người dân khu vực đó. Các địa phương cần có 
định hướng và chiến lược rõ ràng trong việc 
bảo vệ và nâng cao giá trị của các tài sản trí 
tuệ địa phương để nâng cao sự hài lòng của du 
khách, qua đó thúc đẩy sự phát triển du lịch 
địa phương.q
Tài liệu tham khảo
1. Arasuraman, A., Zeithaml V.A., and Berry, L.,1985, A conceptual model of service 
quality and its implications for future research, Journal of Marketin, Vol. 49, p. 41-50. 
2. Cronin & Taylor, 1992, Measuring Service Quality: A Reexamination and Extension, 
Journal of Marketing, Vol. 56 No.3 Jul 1992, p.55 -69
3. Cronin J J. & Taylor S.A., 1994, SERVPERF versus SERVQUAL: Reconciling 
performance - Based and Perceptions-minus-expectations measurement of service 
quality, Journal of Marketing, 58 (Janary): 125-131.
4. Đinh Công Thành và cộng sự, 2012, Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch Phú 
Quốc, Kỷ yếu Khoa học 2012, tr. 195-202
5. E. Wanda George, Intangible cultural heritage, ownership, copyrights and tourism”, 
International Journal of Culture, Tourism and Hospitality Research, vol. 4, no. 4, tr.378P
6. Edvinsson L. & Malone, M., 1997, Intellectual capital, London: Piatkus.
7. Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008, Phân tích dữ liệu nghiên cứu với 
SPSS - Tập 1 & 2, Hồ Chí Minh: Nxb Hồng Đức.Le, Thi Thu Ha, Protection regime for 
well-known local products in Vietnam, Research Paper, WIPO - WTO Colloquium of 
Teachers of Intellectual Property, Geneve 8/2013
8. Lev B., 2001, Intangibles, Brookings Institution Press, Washington; 
9. N. Parrott, N. Wilson & J. Murdoch, 2002, Spatializing quality: Regional protection and 
the alternative protection and the geography of food, European Urban and Regional 
Studies, vol. 9, no. 3, tr. 241-261.
10. Parasuraman, A., Zeithaml V.A., and Berry, L., 1988, SERVQUAL: A multiple-item 
scale for measuring consumer perceptions of service quality, Journal of Retailing, Vol. 
64, p.12 -40.
11. Sveiby, K., 1997. The new organizational wealth. San Francisco: Berrett-Koehler Publishers; 
12. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2003, tr. 325.
13. WIPO, Socio-Economic Benefits of Intellectual Property Protection in Developing Countries.

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_tai_san_tri_tue_dia_phuong_den_su_hai_long_cua.pdf