Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á

Tuy nhiên, việc tạo dựng và vận dụng

sức mạnh mềm văn hóa là một vấn đề

không đơn giản đối với nhiều quốc gia

trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là các

cƣờng quốc lớn muốn khẳng định vị thế

dẫn đầu về văn hóa. Bên cạnh việc gia

tăng “một cách bất thƣờng” các Học viện

Khổng Tử - một trong những cái cầu để

Trung Quốc bƣớc ra thế giới và nối giấc

mơ của Trung Quốc với giấc mơ của nhân

loại, thì hành động Trung Quốc khởi động

các tranh chấp lãnh thổ với các nƣớc lân

cận đang đƣa nƣớc này vào một hình ảnh

trái ngƣợc và đẩy sức mạnh mềm văn hóa

Trung Quốc vào tình trạng phải đối mặt

với các phản ứng hoài nghi, mất lòng tin,

phản cảm, thậm chí phòng vệ của ngƣời

dân Đông Á và Đông Nam Á.

Nội dung

cuốn sách mang

lại một cách

nhìn mới hơn về

sức mạnh mềm

văn hóa từ góc

nhìn Việt Nam,

từ đó nhận diện

mức độ tác động

của sức mạnh

mềm văn hóa

Trung Quốc để

có những tỉnh táo, thận trọng trong việc tiếp

biến có chọn lọc những tác động tích cực

và tăng cƣờng “nội lực” văn hóa nhằm

chống đỡ, hóa giải đƣợc những tác động

nguy hại từ sức mạnh mềm văn hóa Trung

Quốc, xây dựng chiến lƣợc nâng cao sức

mạnh mềm văn hóa Việt Nam.

pdf 8 trang kimcuc 8040
Bạn đang xem tài liệu "Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á

Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á
 Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc 
tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á 
TS. NGUYỄN THỊ THU PHƢƠNG (chủ biên, 2016), Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc 
tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 323 tr. 
Hoài Phúc, Lê Quang Minh lược thuật 
Đối với một quốc gia, sức mạnh mềm 
tồn tại ngay trong văn hóa, các giá trị và 
chính sách của quốc gia đó. Với sức mạnh 
kinh tế đang lên, Trung Quốc muốn dùng 
ảnh hƣởng văn hóa và công cụ hỗ trợ phát 
triển nhằm tạo nền tảng cho việc tăng 
cƣờng buôn bán thƣơng mại với các quốc 
gia đối tác và tạo dựng một hình ảnh trỗi 
dậy hòa bình, xóa đi những lo ngại về một 
Trung Quốc nổi lên có khả năng đe dọa 
đến hòa bình và an ninh trên thế giới. 
Tuy nhiên, việc tạo dựng và vận dụng 
sức mạnh mềm văn hóa là một vấn đề 
không đơn giản đối với nhiều quốc gia 
trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là các 
cƣờng quốc lớn muốn khẳng định vị thế 
dẫn đầu về văn hóa. Bên cạnh việc gia 
tăng “một cách bất thƣờng” các Học viện 
Khổng Tử - một trong những cái cầu để 
Trung Quốc bƣớc ra thế giới và nối giấc 
mơ của Trung Quốc với giấc mơ của nhân 
loại, thì hành động Trung Quốc khởi động 
các tranh chấp lãnh thổ với các nƣớc lân 
cận đang đƣa nƣớc này vào một hình ảnh 
trái ngƣợc và đẩy sức mạnh mềm văn hóa 
Trung Quốc vào tình trạng phải đối mặt 
với các phản ứng hoài nghi, mất lòng tin, 
phản cảm, thậm chí phòng vệ của ngƣời 
dân Đông Á và Đông Nam Á. 
Nội dung 
cuốn sách mang 
lại một cách 
nhìn mới hơn về 
sức mạnh mềm 
văn hóa từ góc 
nhìn Việt Nam, 
từ đó nhận diện 
mức độ tác động 
của sức mạnh 
mềm văn hóa 
Trung Quốc để 
có những tỉnh táo, thận trọng trong việc tiếp 
biến có chọn lọc những tác động tích cực 
và tăng cƣờng “nội lực” văn hóa nhằm 
chống đỡ, hóa giải đƣợc những tác động 
nguy hại từ sức mạnh mềm văn hóa Trung 
Quốc, xây dựng chiến lƣợc nâng cao sức 
mạnh mềm văn hóa Việt Nam. 
1. Sức mạnh mềm văn hóa và mục tiêu 
gia tăng sức mạnh mềm văn hóa của 
Trung Quốc 
Theo các tác giả, “sức mạnh mềm văn 
hóa” là sức hấp dẫn, thuyết phục, khả 
năng ảnh hƣởng, lôi cuốn của một quốc 
gia đối với các quốc gia khác bằng các giá 
trị văn hóa, tinh thần, hệ tƣ tƣởng, thể chế 
văn hóa, chính sách ngoại giao văn hóa 
Sức mạnh mềm văn hóa 39 
mang tính phi cƣỡng chế. Tuy nhiên, sức 
mạnh mềm văn hóa cũng đƣợc hiểu nhƣ 
khả năng của một quốc gia chủ động tiếp 
nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những 
tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, đồng thời 
có sức chống đỡ, hóa giải đƣợc những tác 
động nguy hại, gây xói mòn các giá trị nền 
tảng, làm giảm bản sắc văn hóa của một 
quốc gia. 
Các nghiên cứu xoay quanh sức mạnh 
mềm văn hóa cho thấy, các quốc gia 
thƣờng hƣớng nguồn lực này tới hai mục 
tiêu chính trong quan hệ quốc tế: Tạo 
dựng hình ảnh quốc gia, mở rộng khả 
năng ảnh hƣởng hoặc sức hấp dẫn, tăng 
thêm sự hiểu biết và giao lƣu văn hóa; 
Giảm bớt hoặc loại trừ hiểu lầm, hàn gắn 
xung đột và hƣớng đến sự đồng thuận, 
chia sẻ lợi ích. Đối với Trung Quốc, xây 
dựng hệ giá trị mới, gia tăng sức ảnh 
hưởng văn hóa là hai mục tiêu sức mạnh 
mềm văn hóa đƣợc đƣa ra trong mục tiêu 
chung nhằm đƣa quốc gia này tiến gần 
hơn tới mục tiêu lâu dài trở thành “cƣờng 
quốc văn hóa xã hội chủ nghĩa” dẫn dắt, 
lãnh đạo thế giới. Xoay quanh các mục 
tiêu công khai này, giới lãnh đạo Trung 
Quốc tiếp tục phân nhỏ thành các mục tiêu 
cụ thể bao gồm: Xoa dịu dƣ luận quốc tế, 
quảng bá hình ảnh quốc gia; Ngăn cản 
những nhân tố văn hóa phƣơng Tây gây 
xói mòn các giá trị và làm tổn hại tới chủ 
quyền văn hóa Trung Quốc; Hoàn thiện 
cấu trúc sức mạnh mềm văn hóa, tạo mối 
liên kết toàn diện với sức mạnh tổng hợp 
quốc gia; Thiết lập “vành đai văn hóa 
mới” tại khu vực Đông Á, từng bƣớc cạnh 
tranh vị thế dẫn đầu với các cƣờng quốc 
sức mạnh mềm văn hóa trên thế giới; 
Chuyển hóa sức mạnh mềm văn hóa 
Trung Quốc thành sức mạnh cứng trong 
trƣờng hợp phải bảo vệ lợi ích quốc gia. 
Tham gia vào cuộc cạnh tranh sức 
mạnh mềm văn hóa khá muộn, song tham 
vọng của Trung Quốc khá lớn. Với sự 
xuyên suốt của tƣ tƣởng “bình thiên hạ” 
có khả năng chi phối mọi chính sách qua 
các thời đại, Trung Quốc luôn hƣớng tới 
giấc mộng “thế giới đại đồng” trong đó 
các quốc gia không xếp hàng ngang 
(mạng lƣới) theo các lý thuyết quan hệ 
quốc tế phƣơng Tây, mà xếp theo hàng 
dọc (hình tháp) với đỉnh cực (lãnh đạo) 
của nó là Trung Quốc. 
2. Các kênh tác động của sức mạnh mềm 
văn hóa Trung Quốc tại một số nước 
Đông Á và Việt Nam 
Đi sau các cƣờng quốc lớn trên thế 
giới trong cuộc đua sức mạnh mềm văn 
hóa, theo các tác giả, Trung Quốc tỏ ra 
“thực dụng” hơn các cƣờng quốc văn hóa 
đi trƣớc khi lựa chọn ngoại giao văn hóa, 
truyền thông và tài trợ, hợp tác kinh tế 
làm ba kênh tác động chính để gia tăng 
sức hấp dẫn, lôi kéo, ràng buộc đối với 
một số quốc gia Đông Á - nơi từng chịu 
ảnh hƣởng của Trung Quốc về văn hóa và 
chính trị lâu dài trong lịch sử, nhất là các 
nƣớc tƣơng đồng về ngôn ngữ, chữ viết, 
tôn giáo, thể chế và hệ tƣ tƣởng chính trị. 
Trong quá trình triển khai, các kênh tác 
động đƣợc Trung Quốc áp dụng trƣớc hết 
đối với các nƣớc láng giềng Đông Nam Á 
và Đông Bắc Á, đồng thời đặc biệt chú ý 
tới các quốc gia láng giềng có cộng đồng 
Hoa kiều lớn mạnh. 
* Đối với kênh ngoại giao văn hóa 
Trung Quốc lựa chọn truyền bá ngôn 
ngữ, hợp tác giáo dục, xúc tiến quảng bá, 
giao lƣu văn hóa nghệ thuật, thể thao và 
xuất khẩu các sản phẩm văn hóa làm các 
kênh tác động chính nhằm biến đổi, lôi 
cuốn, thuyết phục thế giới nói chung và 
một số nƣớc tại khu vực Đông Á nói riêng. 
Thông qua con đƣờng chính thức, 
Trung Quốc đã ký hiệp định văn hóa cấp 
Chính phủ với 145 quốc gia, ký 682 kế 
40 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2017 
hoạch giao lƣu văn hóa hàng năm, thành 
lập Trung tâm Văn hóa Trung Quốc ở 
Pháp, Ai Cập, Hàn Quốc Năm văn hóa 
cũng là một trong những kênh tác động 
quan trọng đƣa sức mạnh mềm văn hóa 
Trung Quốc thẩm thấu vào đời sống xã 
hội các quốc gia khác. Những năm đầu thế 
kỷ XXI, Trung Quốc đã tổ chức nhiều 
hoạt động Tuần văn hóa, Tháng văn hóa 
và Năm văn hóa Trung Quốc ở các nƣớc 
Pháp, Mỹ, Ai Cập, Nga, Ấn Độ, Phần 
Lan Ngoài ra, Trung Quốc còn tận dụng 
mọi cơ hội tổ chức các sự kiện có ảnh 
hƣởng trên phạm vi toàn cầu, điển hình 
nhƣ Triển lãm Thƣợng Hải năm 2010. 
Giao lƣu thể dục, thể thao cũng là một 
kênh tác động đƣợc Trung Quốc triển khai 
khá linh hoạt trong quan hệ quốc tế. Phát 
huy lợi thế không biên giới trong hoạt 
động thể dục, thể thao, Trung Quốc đã đầu 
tƣ các khoản kinh phí khổng lồ để tổ chức 
Thế vận hội Bắc Kinh 2008 nhằm phô 
diễn tinh thần thể thao và quảng bá với 
toàn thế giới nền văn hóa của mình. 
Sau Chiến tranh Lạnh, hợp tác giáo 
dục giữa các nƣớc phát triển nhanh chóng 
trở thành một phƣơng thức mới, mạnh mẽ 
của chính sách đối ngoại. Trong bối cảnh 
đó, Trung Quốc cũng biến trao đổi giáo 
dục thành một kênh tăng cƣờng khả năng 
tác động của sức mạnh mềm văn hóa trên 
phạm vi toàn cầu, tiến hành hợp tác với 
189 quốc gia và khu vực trên thế giới. Tại 
một số nƣớc Đông Bắc Á nhƣ Nhật Bản 
và Hàn Quốc, hợp tác giáo dục - đào tạo 
và giao lƣu văn hóa là những lĩnh vực 
đƣợc Trung Quốc chú trọng. Năm 1994, 
có 5.055 lƣu học sinh Nhật Bản đến Trung 
Quốc, đến năm 2006 con số này đã lên 
đến 18.363 ngƣời, tăng từ 9,2% lên 24% 
tỷ lệ lƣu học sinh Nhật Bản ở nƣớc ngoài. 
Số lƣu học sinh Trung Quốc tại Nhật Bản 
cũng chiếm đến 18% tổng số lƣu học sinh 
các nƣớc tại Nhật Bản. Ở Hàn Quốc, 
Trung Quốc cũng tập trung gia tăng sức 
hấp dẫn văn hóa thông qua kênh giao lƣu 
và trao đổi giáo dục. Đến năm 2004, có 
130 trƣờng đại học Trung Quốc và 120 
trƣờng đại học Hàn Quốc ký kết hợp tác 
đào tạo, nghiên cứu, trao đổi giáo sƣ và 
sinh viên. Năm 2006, có 54.000 lƣu học 
sinh Hàn Quốc đến học tập tại Trung 
Quốc, chiếm 38% tổng số lƣu học sinh tại 
Trung Quốc và là một trong những nƣớc 
có số lƣu học sinh đông nhất tại đây. Năm 
2009, con số này tăng lên đến 66.800 
ngƣời. Năm 2010, lƣu học sinh Trung 
Quốc ở Hàn Quốc chiếm số lƣợng đông 
nhất, tới 70% số lƣu học sinh tại quốc gia 
này với con số lên đến 53.461 ngƣời. Cùng 
với sự phát triển của mạng lƣới Học viện 
Khổng Tử, trào lƣu học tiếng Trung cũng 
xuất hiện rộng rãi ở Hàn Quốc. Bên cạnh 
việc tăng cƣờng thiết lập các Trung tâm 
Văn hóa Trung Quốc, việc tổ chức các sự 
kiện giao lƣu văn hóa tại Hàn Quốc và 
Nhật Bản cũng là kênh gia tăng tác động 
của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc. 
Tại một số nƣớc Đông Nam Á nhƣ 
Thailand, Philippines, hàng loạt chƣơng 
trình “Vui xuân” đã đƣợc tổ chức vào các 
dịp lễ tết, Tết cổ truyền của Trung Quốc 
với các tiết mục đậm nét văn hóa của đất 
nƣớc này nhƣ kịch, các điệu nhảy của các 
dân tộc thiểu số, biểu diễn xiếc Bên 
cạnh đó, các hoạt động triển lãm văn hóa 
cũng đƣợc Chính phủ Trung Quốc lồng 
ghép trong các dịp kỷ niệm thiết lập quan 
hệ ngoại giao với một số nƣớc Đông Nam 
Á nhƣ Myanmar, Philippines, Singapore, 
Lào Từ năm 2008, Chính phủ Trung 
Quốc và chính phủ các nƣớc Campuchia, 
Lào, Thailand, Việt Nam đã ký Hiệp định 
hợp tác trao đổi giáo dục và công nhận 
học vị lẫn nhau. Năm 2011, nhân kỷ niệm 
năm thiết lập quan hệ đối ngoại Trung 
Quốc - ASEAN, hai bên đã tổ chức nhiều 
hoạt động trao đổi giáo dục, đồng thời đề 
Sức mạnh mềm văn hóa 41 
ra mục tiêu đến năm 2020 tăng số lƣợng 
lƣu học sinh của ASEAN ở Trung Quốc là 
100.000 ngƣời và số lƣợng lƣu học sinh 
Trung Quốc học tập tại các nƣớc ASEAN 
cũng tăng lên 100.000 ngƣời. Dự kiến 
trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ cấp 
10.000 học bổng của Chính phủ cho sinh 
viên các nƣớc Đông Nam Á, mời khoảng 
10.000 giáo viên, học giả và sinh viên các 
nƣớc khu vực này sang thăm Trung Quốc. 
Bên cạnh đó, từ năm 2004, Trung Quốc đã 
cử hơn 2.000 giáo viên và tình nguyện 
viên đến dạy tiếng Trung Quốc tại các 
quốc gia và khu vực, trong đó có các nƣớc 
Đông Nam Á nhƣ Indonesia, Singapore, 
Thailand và Việt Nam. 
Tại Việt Nam, hàng năm Trung Quốc 
đều đƣa đoàn nghệ thuật sang biểu diễn 
nhân dịp Quốc khánh Việt Nam. Ngoài ra, 
mỗi năm thƣờng có hàng chục đoàn sang 
thăm, biểu diễn tại các địa phƣơng của 
Việt Nam. Đối với sân khấu cổ truyền, 
dựa vào lợi thế tƣơng đồng của tuồng Việt 
Nam và kinh kịch Trung Quốc, giữa cải 
lƣơng Việt Nam và bình kịch, việt kịch 
của Trung Quốc, nƣớc này đã phối hợp 
với Việt Nam tổ chức nhiều cuộc hội thảo 
khoa học và biểu diễn nhằm khẳng định 
mức độ tiếp nhận nghệ thuật Trung Quốc 
tại Việt Nam. Các triển lãm, hội chợ cũng 
đƣợc Trung Quốc khai thác mạnh nhằm 
quảng bá văn hóa nƣớc này đến Việt Nam. 
Đặc biệt, sự ra đời của các Học viện 
Khổng Tử với nhiệm vụ “phổ biến tiếng 
Hán, giữ gìn và bảo vệ vị thế quốc tế của 
tiếng Hán, truyền bá văn hóa và xây dựng 
hình ảnh một nƣớc Trung Quốc hài hòa, 
hòa bình, thân thiện” là một trong những 
chiến lƣợc tăng cƣờng sức mạnh mềm văn 
hóa Trung Quốc. Từ năm 2004 (khi Học 
viện Khổng Tử đầu tiên đƣợc thành lập ở 
Hàn Quốc) đến tháng 7/2014, tổng số các 
Học viện Khổng Tử trên thế giới, trong đó 
bao gồm cả các lớp học Khổng Tử, đã lên 
đến con số 1.082 cơ sở/120 quốc gia. Từ 
việc học theo các tổ chức xúc tiến văn hóa 
và truyền bá ngôn ngữ phƣơng Tây, theo 
các tác giả, Chính phủ Trung Quốc đã tạo 
nên mô hình Học viện Khổng Tử nhƣ một 
tổ chức sƣ phạm quốc tế, song lại là kênh 
tuyên truyền đối ngoại quan trọng cho sức 
mạnh mềm văn hóa. 
* Đối với kênh truyền thông 
Năm 2003, Đảng Cộng sản Trung 
Quốc cùng Quân ủy Trung ƣơng chính 
thức công bố ứng dụng học thuyết “Tam 
chủng chiến pháp” gồm chiến pháp tâm 
lý, chiến pháp dƣ luận và chiến pháp pháp 
lý vào việc bảo vệ lợi ích của Trung Quốc. 
Trong ba chiến pháp này, “chiến pháp dƣ 
luận” đƣợc xác định là một thủ đoạn 
truyền thông gây ảnh hƣởng, lèo lái dƣ 
luận quốc tế theo hƣớng ủng hộ Trung 
Quốc, đồng thời phủ nhận những luồng tƣ 
tƣởng của đối thủ gây bất lợi cho Trung 
Quốc. Kênh tác động chính của chiến 
pháp dƣ luận đƣợc sử dụng trong lĩnh vực 
gia tăng sức mạnh mềm văn hóa bao gồm 
cả các phƣơng tiện truyền thông truyền 
thống và các phƣơng tiện truyền thông 
mới, ngoài ra còn khai thác truyền thông 
của đối phƣơng hoặc của bên thứ ba để 
tạo dựng dƣ luận. Nƣớc này thƣờng xuyên 
mời các nhà báo nƣớc ngoài tới dự các 
buổi họp báo tại Bắc Kinh. Trong các 
chuyến công du, các nhà lãnh đạo Trung 
Quốc cũng thƣờng xuyên tổ chức các cuộc 
tiếp xúc với báo giới sở tại. Các tổ chức 
quốc tế, các tổ chức dân sự và các diễn 
đàn học thuật, hội thảo cũng đƣợc sử dụng 
để truyền thông tin phù hợp với lợi ích của 
Trung Quốc. 
Các tác giả nhận định, mục đích của 
chiến pháp dƣ luận Trung Quốc mang tính 
hai mặt khá rõ, đặc biệt là khi nó đƣợc áp 
dụng tại Đông Á - nơi mà họ đã và đang 
đẩy nhiều nƣớc vào tình thế buộc phải 
hoài nghi, phòng vệ hoặc tìm một sự hậu 
42 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2017 
thuẫn khác. Thông qua “màng lọc” của 
mạng truyền thông dƣới sự chỉ đạo của 
Chính phủ, Trung Quốc cố gắng truyền đi 
thông điệp rằng sự trỗi dậy của Trung 
Quốc hoàn toàn không phải là “mối đe 
dọa” mà là cơ hội cho các quốc gia tại khu 
vực Đông Á cùng hợp tác để phát triển. 
Tại Việt Nam, thông qua các bản ký 
kết thỏa thuận hợp tác với các đài phát 
thanh, truyền hình ở Việt Nam, Bộ Phát 
thanh - Truyền hình và Điện ảnh Trung 
Quốc đã đặc biệt tạo điều kiện cho các 
phim truyền hình, điện ảnh thâm nhập vào 
thị trƣờng văn hóa Việt Nam. Số liệu thực 
tế cho thấy, số phim truyền hình Trung 
Quốc đƣợc chiếu ở Việt Nam đã tăng vọt 
trong những năm gần đây với mật độ phát 
sóng khá dày đặc. Theo thống kê chƣa đầy 
đủ, năm 2009 có 348 bộ phim truyền hình 
Trung Quốc đƣợc chiếu trên các kênh 
truyền hình từ Trung ƣơng đến địa 
phƣơng của Việt Nam, con số năm 2010 
là 304, năm 2011 là 369. Tính riêng tháng 
4/2014 (trƣớc thời điểm Trung Quốc hạ 
đặt giàn khoan HD981 tại vùng đặc quyền 
kinh tế của Việt Nam), đã có tới 182 bộ 
phim truyền hình nƣớc này đƣợc phát trên 
65 đài truyền hình của Việt Nam... Không 
chỉ đƣợc biết đến bởi các bộ phim truyền 
hình hay những sản phẩm game hấp dẫn, 
theo các tác giả, truyền thông của Trung 
Quốc tại Việt Nam còn biến thành “chiến 
pháp” tạo dựng dƣ luận theo hƣớng bóp 
méo sự thật để bảo vệ lợi ích cốt lõi của 
quốc gia này. 
Các tác giả cho rằng, mục đích “đóng 
khung” tin tức của Trung Quốc đều hƣớng 
dƣ luận vào thái độ phẫn nộ trƣớc hình 
ảnh một cƣờng quốc tử tế, thân thiện 
nhƣng lại bị một quốc gia nhỏ, kém phát 
triển hơn uy hiếp và xâm phạm chủ quyền. 
Điều đó cho thấy, “chiến pháp dƣ luận” đã 
phản ánh một phần sự thật: Trung Quốc 
vừa muốn trỗi dậy về sức mạnh cứng, lại 
vừa muốn trở thành một cƣờng quốc về 
sức mạnh mềm; vừa muốn duy trì vị thế 
quốc tế, lại vừa muốn bảo toàn lợi ích, 
tham vọng quốc gia. Trung Quốc sử dụng 
các kênh truyền thông nhƣ một chiến pháp 
gây nhiễu loạn tin tức, tạo tâm lý nghi 
ngờ, thậm chí chia rẽ sâu sắc về quan 
điểm trong cộng đồng dƣ luận quốc tế 
xoay quanh các tranh chấp trên biển với 
các nƣớc láng giềng nhƣ Việt Nam, 
Philippines, Nhật Bản đã cho phép nhìn rõ 
hơn “khuôn mặt” thứ hai của một Trung 
Quốc có thể bất chấp tất cả, thậm chí đi 
ngƣợc lại với ý nghĩa đích thực của sức 
mạnh mềm văn hóa - một quyền lực của 
vẻ đẹp ứng xử, sức lôi cuốn và khả năng 
chia sẻ giá trị để đạt đƣợc các lợi ích cốt 
lõi đầy tham vọng của quốc gia này. 
* Đối với kênh tài trợ và hợp tác kinh tế 
Đối với các nƣớc Đông Nam Á, nơi 
chịu nhiều ảnh hƣởng văn hóa Trung 
Quốc trong quá khứ, đồng thời cũng là nơi 
các quốc gia đang phát triển luôn cần sự 
đầu tƣ, vốn và công nghệ từ các cƣờng 
quốc khác, Trung Quốc coi “hƣớng Nam” 
là một chiến lƣợc cần thiết nhằm gây dựng 
nền móng cơ bản cho tiến trình vƣơn rộng 
để dẫn dắt thế giới về văn hóa và các giá 
trị trong tƣơng lai thông qua kênh tác 
động mang tính “đòn bẩy” là tài trợ và 
hợp tác kinh tế. 
Theo một thống kê, năm 2004, Trung 
Quốc đã tiến hành xóa nợ cho các nƣớc 
nghèo nhất của khu vực nhƣ Lào, 
Campuchia và Myanmar; dành cho ba 
nƣớc thành viên mới của ASEAN những 
ƣu đãi thuế quan bằng không đối với 
nhiều mặt hàng xuất khẩu vào Trung 
Quốc trong khuôn khổ “Hiệp định khung 
hợp tác kinh tế toàn diện Trung Quốc - 
ASEAN”. Các khoản viện trợ của Trung 
Quốc dành cho các nƣớc Đông Nam Á đã 
tăng lên không ngừng và nhanh chóng 
vƣợt qua Mỹ. Năm 2006, viện trợ của 
Sức mạnh mềm văn hóa 43 
Trung Quốc cho Philippines đã gấp 4 lần 
của Mỹ, viện trợ của nƣớc này cho Lào 
cũng gấp 3 lần của Mỹ. Hiện nay, Trung 
Quốc đang đƣợc coi là “nhà bảo trợ kinh 
tế chính” của Campuchia, Lào - hai nƣớc 
nhỏ nhƣng quan trọng về mặt chiến lƣợc. 
Vào thời điểm giữa Trung Quốc và một số 
nƣớc khác trong khu vực xảy ra tranh 
chấp biển đảo, quốc gia này thƣờng sử 
dụng các khoản tài trợ kinh tế có trọng 
điểm nhằm phân hóa, chia rẽ các quốc gia. 
Trên kênh hợp tác kinh tế, Trung 
Quốc kỳ vọng, thông qua nâng cao năng 
lực xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nƣớc 
này có thể cạnh tranh khả năng thẩm thấu 
và lan tỏa văn hóa với Mỹ, Hàn Quốc và 
Nhật Bản tới các nƣớc Đông Á. Khác với 
việc chú trọng đầu tƣ hợp tác thƣơng mại 
về văn hóa vào hai cƣờng quốc sức mạnh 
mềm văn hóa tại khu vực Đông Bắc Á là 
Nhật Bản và Hàn Quốc, việc hợp tác đầu 
tƣ với các nƣớc Đông Nam Á lại hƣớng 
tới mục tiêu vừa bảo đảm những lợi ích 
kinh tế chiến lƣợc, vừa gia tăng đƣợc khả 
năng lôi kéo, ràng buộc và chi phối của 
Trung Quốc về văn hóa, chính trị. 
3. Phản ứng của một số nước Đông Á 
Theo các tác giả, sức mạnh mềm văn 
hóa Trung Quốc đã đƣợc đón nhận với 
thái độ cởi mở vào thập niên đầu thế kỷ 
XXI. Trƣớc hết, đó là thái độ cởi mở hơn 
với văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc. Sự 
phổ biến tiếng Trung và văn hóa Trung 
Quốc ở các nƣớc Đông Á một mặt thể 
hiện sức hấp dẫn của tăng trƣởng kinh tế 
Trung Quốc, nhƣng mặt khác cũng chứng 
tỏ văn hóa nƣớc này đã tạo ra một sức hút 
và cái nhìn thiện cảm hơn từ các nƣớc 
trong khu vực. 
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, sức 
mạnh mềm văn hóa Trung Quốc đang 
phải đối mặt với sự hoài nghi, thậm chí 
phản ứng dữ dội từ các quốc gia Đông Á. 
Phản ứng tiêu cực từ khu vực này đối với 
Trung Quốc đang ngày càng gia tăng, thể 
hiện ở việc: không tự nguyện tiếp nhận 
hình thái ý thức, hệ giá trị Trung Quốc; 
không tin tƣởng, thiếu thiện chí, phản cảm 
với hình ảnh và cách hành xử của Trung 
Quốc; hoài nghi về sự can thiệp của “bàn 
tay Chính phủ Trung Quốc” và mối quan 
ngại một cuộc xâm lăng văn hóa mới. 
Giới lãnh đạo Trung Quốc thƣờng cho 
rằng, sức mạnh mềm văn hóa là một chỉ 
số quan trọng góp phần đƣa Trung Quốc 
trở thành cƣờng quốc văn hóa xã hội và là 
trung tâm văn hóa thế giới mới của nhân 
loại với “hình thái ý thức, hệ giá trị có sức 
lôi cuốn, hấp dẫn, thuyết phục các quốc 
gia khác”. Tuy nhiên, việc không có 
nguồn lực thực tế để “xuất khẩu” hệ giá trị 
chung về tƣ tƣởng đạo đức và văn hóa 
đƣơng đại mang tính dẫn dắt và lan tỏa ra 
bên ngoài đã khiến Trung Quốc buộc phải 
lấy nền văn minh cổ xƣa làm công cụ thể 
hiện vai trò dẫn đầu trong việc tạo nên 
một cách định nghĩa mới về cái đƣợc gọi 
là giá trị châu Á. 
Nhiều ngƣời Trung Quốc cho rằng, 
giá trị truyền thống với cốt lõi là Nho giáo 
sẽ đại diện cho các giá trị và tầm nhìn 
Trung Quốc theo một cách khác hẳn so 
với văn minh phƣơng Tây. Và việc các 
quốc gia châu Á, đặc biệt là Đông Á, đã 
quen thuộc với Nho giáo và các giá trị của 
Nho giáo sẽ là điều kiện thuận lợi để 
Trung Quốc tái thiết lại những giá trị phổ 
quát tại khu vực. Tuy nhiên, những giá trị 
mà Trung Quốc hy vọng, trên thực tế đã 
đƣợc các quốc gia Đông Á tiếp nhận và 
bản địa hóa từ hàng ngàn năm trƣớc. 
Thậm chí, trong trƣờng hợp Nhật Bản, 
Hàn Quốc và Việt Nam, mức độ bản địa 
hóa khá sâu và có những nét đặc thù riêng 
biệt. Vì vậy, theo các tác giả, khó có thể 
coi đây là một thành công mới của sức 
44 Thông tin Khoa học xã hội, số 2.2017 
mạnh mềm văn hóa Trung Quốc trong 
việc tác động tới nhận thức khu vực. 
Trong khi Trung Quốc đang gặp khó 
khăn trong việc tạo ra hệ giá trị mới hay 
tìm cho mình một học thuyết kinh tế mới 
tƣơng ứng với sự phát triển ngoạn mục về 
kinh tế của họ, thì ngay tại Trung Quốc và 
hầu hết các nƣớc Đông Á, các học thuyết 
mới của phƣơng Tây đang nhanh chóng 
đƣợc đón nhận và ứng dụng trong nhiều 
lĩnh vực. Đây chính là lý do khiến Trung 
Quốc phải đối mặt với thực tế các quốc 
gia có chỉ số phát triển cao nhƣ Nhật Bản, 
Hàn Quốc, Singapore không cần thiết phải 
tiếp nhận, mô phỏng, sao chụp hay tuân 
theo hệ giá trị, mô hình kinh tế hay thể 
chế chính trị mà Trung Quốc đang nỗ lực 
thể hiện. Ngay cả với các quốc gia đang 
phát triển tại Đông Nam Á, việc tiếp nhận, 
mô phỏng Trung Quốc cũng khó khả thi 
khi nhiều giá trị phƣơng Tây đang hiện 
diện ở khắp nơi và các trào lƣu văn hóa 
của Hàn Quốc, Nhật Bản dƣờng nhƣ đang 
có sức lôi cuốn khá mạnh mẽ. 
Những năm thập niên thứ hai của thế 
kỷ XXI, việc hành xử “không bao giờ hy 
sinh lợi ích quốc gia cốt lõi bất chấp hoàn 
cảnh nào” dù đó là hành động xâm phạm 
chủ quyền lãnh thổ các quốc gia khác đã 
khiến sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc 
mất đi hầu hết mọi nỗ lực duy trì hình ảnh 
một quốc gia trỗi dậy hòa bình, thân thiện 
với các nƣớc láng giềng. Trên thực tế, 
hành động đặt lợi ích cốt lõi quốc gia bất 
chấp tất cả của Trung Quốc đã chạm tới 
tầng sâu nhất và đánh thức ý thức phòng 
vệ, phản kháng Trung Quốc vốn hằn sâu 
trong tâm lý dân tộc của nhiều quốc gia, 
gây nên chuỗi phản ứng: thiếu thiện cảm, 
mất niềm tin, nghi ngờ, phản đối, phẫn nộ, 
thù hận trên toàn khu vực. Nhƣ một hiệu 
ứng domino, chuỗi phản ứng này đang 
hủy hoại nỗ lực xây dựng hình ảnh quốc 
gia của Trung Quốc tại khu vực Đông Á. 
Theo kết quả cuộc điều tra dƣ luận xã 
hội về sức mạnh mềm do Hội đồng 
Chicago về các vấn đề toàn cầu kết hợp 
với Viện Nghiên cứu Đông Á của Hàn 
Quốc thực hiện năm 2008, 74% ngƣời dân 
ở Nhật Bản đƣợc hỏi cảm thấy lo lắng về 
mối đe dọa quân sự của Trung Quốc trong 
tƣơng lai, con số này ở Indonesia là 47%. 
Cuộc điều tra dƣ luận xã hội học năm 
2008 của Trung tâm Nghiên cứu PEW ở 
Mỹ cho biết, chỉ có 14% số ngƣời Nhật 
đƣợc hỏi tỏ thái độ thiện cảm với Trung 
Quốc. Một cuộc điều tra ở Nhật Bản và 
Trung Quốc năm 2012 cũng cho thấy, 
87% số ngƣời Nhật đƣợc hỏi đánh giá 
Trung Quốc là quốc gia “không thể tin 
đƣợc”, 79% coi Trung Quốc là mối đe dọa 
về quân sự. 
Gần đây nhất, theo các tác giả, việc 
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD981 vào 
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã 
gây mất lòng tin đối với các nƣớc láng 
giềng và cộng đồng thế giới, đồng thời 
phá hỏng nỗ lực xây dựng hình ảnh Trung 
Quốc thân thiện, hòa bình và tôn trọng 
luật pháp quốc tế. Các làn sóng biểu tình 
tại Việt Nam và Philippines phản đối 
Trung Quốc đã cho thấy, chính “trò chơi 
bá quyền” với phƣơng thức “gian lận lịch 
sử ngoạn mục” mà Trung Quốc là tác giả 
đã nhanh chóng hủy hoại và đẩy hình ảnh 
“nƣớc lớn phát triển hòa bình” “vào vòng 
xoáy ác tính” của chủ nghĩa dân tộc cực 
đoan tại Việt Nam và Philippines. 
Đối với truyền thông Trung Quốc, 
thái độ của các nƣớc trong khu vực về cơ 
bản là tiêu cực. Bởi ngay cả khi các hiện 
tƣợng thực phẩm ô nhiễm, sơn nhiễm độc, 
trò chơi trẻ em không an toàn, săm lốp ô 
tô tiềm ẩn tai họa... ở Trung Quốc bị báo 
chí thế giới phơi bày, thì phản ứng của 
truyền thông nƣớc này vẫn thống nhất một 
thông điệp “99% sản phẩm xuất khẩu 
Trung Quốc đạt tiêu chuẩn”. Do đó, việc 
Sức mạnh mềm văn hóa 45 
Trung Quốc xếp thứ 183 trên tổng số 197 
quốc gia về tự do báo chí trong bảng xếp 
hạng năm 2014 của Freedom House 
không phải điều đáng ngạc nhiên. 
Riêng đối với các Học viện Khổng 
Tử, hiện nay không ít ý kiến cho rằng, 
Học viện Khổng Tử nhƣ những tổ chức 
đem đến nguy cơ xâm lƣợc văn hóa và 
tuyên truyền hệ tƣ tƣởng của Nhà nƣớc 
Trung Quốc. Sự nở rộ thần tốc của nó 
đang khiến dƣ luận quốc tế đi từ thán phục 
sang băn khoăn, nghi ngờ về chất lƣợng. 
Theo các tác giả, qua thực tế phát triển 
của Học viện Khổng Tử, khó có thể tin 
rằng tác dụng kép của Học viện Khổng Tử 
trong việc phát triển thái độ tích cực và 
ảnh hƣởng chính sách có thể trở thành 
hiện thực, ít nhất là đối với hai trƣờng hợp 
Nhật Bản và Việt Nam. 
4. Gợi ý chính sách cho Việt Nam 
Việt Nam có vị trí địa chiến lƣợc đặc 
biệt quan trọng trên ngã tƣ chiến lƣợc nối 
liền Đông Bắc Á và Đông Nam Á, giữa 
lục địa và đại dƣơng. Bởi vậy Việt Nam 
luôn là đối tƣợng đầu tiên trong các bƣớc 
đi của Trung Quốc nhằm hiện thực hóa 
tham vọng chi phối trật tự Đông Á. Việc 
sử dụng sức mạnh mềm văn hóa hiện nay 
cũng nhƣ trong tƣơng lai của Trung Quốc 
luôn liên quan mật thiết với sức mạnh 
tổng hợp quốc gia nhằm chi phối, lôi kéo, 
ràng buộc và kiềm chế Việt Nam. Cụ thể 
là: lôi kéo, dẫn dắt, ràng buộc Việt Nam 
vào mối quan hệ bất cân xứng về sức 
mạnh; thu hút Việt Nam vào mô hình 
“cƣờng quốc văn hóa xã hội chủ nghĩa 
Trung Quốc”. 
Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế và 
quân sự, Trung Quốc đang gia tăng sức 
mạnh mềm văn hóa đối với Việt Nam. 
Chính sách vừa hỗ trợ tạo ảnh hƣởng tìm 
kiếm lợi ích, vừa kiềm chế để kiểm soát 
của Trung Quốc đã và đang đặt ra cho 
Việt Nam những thách thức lớn cần giải 
quyết. Để chủ động tiếp nhận, hấp thu, 
tiếp biến có chọn lọc những tác động tích 
cực, đồng thời chống đỡ, hóa giải những 
tác động tiêu cực từ các chiều hƣớng gia 
tăng của sức mạnh mềm văn hóa trong 
mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống sức 
mạnh quốc gia của Trung Quốc, các tác 
giả đề xuất một số định hƣớng chính sách 
sau. Thứ nhất, cần chủ động tiếp nhận một 
cách có kiểm soát các tác động tích cực 
của sức mạnh mềm văn hóa trong quan hệ 
với sức mạnh tổng thể quốc gia. Thứ hai, 
linh hoạt và mềm dẻo trong việc sử dụng 
các kênh tác động nhằm tuyên truyền rộng 
rãi sự nhất quán trong phát ngôn cũng nhƣ 
hành động của Việt Nam đối với các tranh 
chấp trên biển do Trung Quốc gây ra, từ 
đó củng cố lòng tin và hƣớng dƣ luận thế 
giới tới nhận thức rõ ràng hơn về tham 
vọng bá quyền cũng nhƣ cách hành xử bất 
nhất của Trung Quốc. Thứ ba, đối với các 
kênh tác động trực tiếp của sức mạnh 
mềm văn hóa Trung Quốc trên phƣơng 
diện ngoại giao văn hóa và truyền thông, 
cần tỉnh táo, thận trọng trong việc tiếp 
nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những 
tác động tích cực từ sức mạnh mềm văn 
hóa Trung Quốc, đồng thời tăng cƣờng 
“nội lực” văn hóa nhằm chống đỡ, hóa 
giải đƣợc những tác động nguy hại, gây 
xói mòn các giá trị nền tảng, làm giảm đi 
bản sắc văn hóa, chủ quyền văn hóa quốc 
gia. Thứ tư, sức mạnh mềm văn hóa là 
một hệ thống lý thuyết đã đƣợc triển khai 
tại nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam 
xét trong cấu trúc sức mạnh mềm là một 
quốc gia có nhiều điều kiện, cơ hội để gia 
tăng sức mạnh mềm văn hóa. Do sự đa 
dạng và phức tạp của sức mạnh mềm văn 
hóa quốc gia nên việc tạo dựng và phát 
huy nguồn sức mạnh này đòi hỏi phải có 
một quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, thống 
nhất. Cần xem xét khả năng xây dựng một 
“chiến lƣợc nâng cao sức mạnh mềm văn 
hóa Việt Nam”  

File đính kèm:

  • pdfsuc_manh_mem_van_hoa_trung_quoc_tac_dong_toi_viet_nam_va_mot.pdf