Sự phát triển của các thư viện, trung tâm thông tin tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với quản lý Nhà nước

Trong những thập niên gần đây với chính

sách đổi mới của Đảng, sự quan tâm đầu

tư của Nhà nước, hoạt động thông tin -

thư viện (TT-TV) Việt Nam đã có những

bước phát triển mạnh mẽ. Việc ứng dụng

các thành tựu của công nghệ thông tin

(CNTT) và các công nghệ mới đã làm thay

đổi nhiều hoạt động trong thư viện và

trung tâm thông tin theo hướng tự động

hóa. Có thể thấy các thư viện và trung tâm

thông tin (TV&TTTT) Việt Nam hiện nay

đang chuyển dịch từ mô hình truyền thống

sang hiện đại. Sự thay đổi này mang đến

nhiều lợi ích cho người dùng tin và các

thư viện. Tuy nhiên, đây cũng là nguyên

nhân làm bộc lộ nhiều bất cập trong công

tác quản lý, đặc biệt là quản lý ở cấp vĩ mô

(quản lý nhà nước). Từ những luận điểm

trên, việc nghiên cứu sự thay đổi trong các

TV&TTTT tại Việt Nam dưới tác động của

CNTT và luận giải những vấn đề đặt ra

đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với

hoạt động quản lý nhà nước sẽ góp phần

phát triển bền vững sự nghiệp TT-TV nước

nhà và nâng cao hiệu quả hoạt động của các

TV&TTTT tại Việt Nam.

pdf 15 trang kimcuc 4200
Bạn đang xem tài liệu "Sự phát triển của các thư viện, trung tâm thông tin tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với quản lý Nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phát triển của các thư viện, trung tâm thông tin tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với quản lý Nhà nước

Sự phát triển của các thư viện, trung tâm thông tin tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với quản lý Nhà nước
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 11
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC THƯ VIỆN, TRUNG TÂM 
THÔNG TIN TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ 
ĐẶT RA ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Th S Nguyễn Văn Th iên
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Th S Nguyễn Th anh Th ủy
 Trường Cán bộ quản lý Văn hóa, Th ể thao và Du lịch
Tóm tắt: Th ông qua việc khảo sát thực tế tại 72 thư viện và trung tâm thông tin, bài viết tập 
trung phân tích những thay đổi trong hoạt động thông tin- thư viện tại Việt Nam từ truyền 
thống sang hiện đại. Nghiên cứu thực trạng một số nội dung của quản lý nhà nước về thông tin-
thư viện. Luận giải về những vấn đề đặt ra và đề xuất kiến nghị nhằm đổi mới một số nội dung 
trong quản lý nhà nước về thông tin-thư viện tại Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Quản lý; thư viện; hoạt động thông tin-thư viện; quản lý nhà nước.
Th e development of libraries and information centers in Vietnam and challenges 
for state management 
Abstract: Based on the results of the survey implemented at 72 libraries and information 
centers, the paper analyzes the shift from traditional to modern information and library activities 
in Vietnam. Analyzing the current state management in the fi eld of information and library. 
Identifying challenges and proposing suggestions to improve the state management in the fi eld of 
information and library in some aspects.
Keywords: Management; library; information – library activities; state management.
Mở đầu
Trong những thập niên gần đây với chính 
sách đổi mới của Đảng, sự quan tâm đầu 
tư của Nhà nước, hoạt động thông tin - 
thư viện (TT-TV) Việt Nam đã có những 
bước phát triển mạnh mẽ. Việc ứng dụng 
các thành tựu của công nghệ thông tin 
(CNTT) và các công nghệ mới đã làm thay 
đổi nhiều hoạt động trong thư viện và 
trung tâm thông tin theo hướng tự động 
hóa. Có thể thấy các thư viện và trung tâm 
thông tin (TV&TTTT) Việt Nam hiện nay 
đang chuyển dịch từ mô hình truyền thống 
sang hiện đại. Sự thay đổi này mang đến 
nhiều lợi ích cho người dùng tin và các 
thư viện. Tuy nhiên, đây cũng là nguyên 
nhân làm bộc lộ nhiều bất cập trong công 
tác quản lý, đặc biệt là quản lý ở cấp vĩ mô 
(quản lý nhà nước). Từ những luận điểm 
trên, việc nghiên cứu sự thay đổi trong các 
TV&TTTT tại Việt Nam dưới tác động của 
CNTT và luận giải những vấn đề đặt ra 
đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với 
hoạt động quản lý nhà nước sẽ góp phần 
phát triển bền vững sự nghiệp TT-TV nước 
nhà và nâng cao hiệu quả hoạt động của các 
TV&TTTT tại Việt Nam.
1. Phương pháp nghiên cứu
 Để xác định được sự thay đổi của các 
TV&TTTT Việt Nam, thực trạng hoạt động 
quản lý nhà nước về lĩnh vực TT-TV, tác 
giả của bài nghiên cứu này đã sử dụng các 
phương pháp nghiên cứu sau:
- Điều tra khảo sát:
Tiến hành khảo sát tại 72 TV&TTTT lớn 
tại Việt Nam, trong đó: 41 thư viện đại học 
và trung tâm học liệu (Khu vực Hà Nội - 18, 
12 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
các tỉnh phía Bắc - 7, các tỉnh miền Trung - 6, 
Th ành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền 
Nam - 10); 23 thư viện công cộng (Khu vực 
Hà Nội - 2, các tỉnh miền Bắc - 8, các tỉnh 
miền trung - 6, Th ành phố Hồ Chí Minh 
và các tỉnh miền Nam - 7) và 08 thư viện 
chuyên ngành. Đối tượng khảo sát là cán bộ 
lãnh đạo quản lý. Mẫu khảo sát được chọn 
theo nguyên tắc phân tầng, bởi đối tượng 
khảo sát không đồng nhất. Khảo sát nhiều 
loại hình TV&TTTT khác nhau: đại học, 
công cộng, chuyên ngành. Phạm vi tổ chức 
khảo sát bao quát các miền Bắc, Trung, Nam 
của Việt Nam.
- Phỏng vấn: 
Tiến hành phỏng vấn một số cán bộ quản 
lý nhà nước về lĩnh vực TT-TV; Cán bộ quản 
lý một số TV&TTTT.
2. Kết quả và thảo luận
2.1. Th ực trạng phát triển của các 
TV&TTTT tại Việt Nam từ mô hình truyền 
thống sang hiện đại 
Quá trình chuyển dịch của các TV&TTTT 
tại Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại 
được xem xét từ khi các TV&TTTT ứng 
dụng máy tính, phần mềm vào quản lý các 
hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Quá trình 
này có thể được phân chia thành các giai 
đoạn sau:
- Giai đoạn 1986 - 2000: Đây là giai đoạn các 
TV&TTTT ở Việt Nam bắt đầu được trang bị 
các máy tính điện tử, sử dụng các phần mềm 
tư liệu nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) 
thư mục, tạo lập mục lục điện tử, quản trị 
nguồn lực thông tin và tạo lập các sản phẩm 
thông tin.
- Giai đoạn 2001 - 2006: Đây là giai đoạn 
hiện đại hoá phát triển ở mức cao hơn tại các 
TV&TTTT Việt Nam. Nhiều dự án lớn về xây 
dựng thư viện điện tử, trung tâm học liệu đã 
được triển khai. Các dự án này tập trung đầu 
tư vào cơ sở hạ tầng của thư viện điện tử như: 
trụ sở, tòa nhà, trang thiết bị hiện đại, máy 
tính điện tử, phần mềm quản lý thư viện, 
Những công nghệ mới của thế giới đã được 
các TV&TTTT Việt Nam lựa chọn áp dụng 
nhằm tự động hóa cao hơn các khâu trong 
dây chuyền xử lý thông tin tư liệu.
- Giai đoạn từ 2007 - nay: Ở giai đoạn này, 
các TV&TTTT Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh 
quá trình tự động hóa. Xu hướng xây dựng 
thư viện số thể hiện rõ tại các thư viện đại 
học và một số thư viện lớn thuộc hệ thống 
thư viện công cộng.
Kết quả khảo sát cho thấy, thực trạng thay 
đổi trong các TV&TTTT tại Việt Nam được 
thể hiện trên một số phương diện sau:
Diện mạo các TV&TTTT Việt Nam đã 
thay đổi một cách rõ rệt. Nhiều TV&TTTT 
đã được trang bị các thiết bị hiện đại, nhất là 
thiết bị về CNTT nhằm thực hiện mục tiêu 
tin học hoá, tự động hoá các khâu nghiệp 
vụ, xây dựng thư viện điện tử, phát triển hệ 
thống mạng thông tin. Kết quả khảo sát cho 
thấy, đa số các TV&TTTT lớn đã thiết lập 
được hạ tầng CNTT. Có 60/72 TV&TTTT đã 
có hệ thống máy chủ riêng để cài đặt phần 
mềm phục vụ các hoạt động chuyên môn 
(chiếm 83%). Trong đó hệ thống các thư viện 
chuyên ngành, đa ngành chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Có 90% số thư viện chuyên ngành, đa ngành 
được khảo sát đã có hệ thống máy chủ. Nhiều 
thư viện, trung tâm học liệu có hàng chục 
máy chủ: Trung tâm Học liệu Huế 15 máy; 
Trung tâm Học liệu Đà Nẵng - 13 máy; Trung 
tâm TT-TV, Đại học Quốc gia Hà Nội - 15 
máy; Th ư viện Quốc gia Việt Nam - 14 máy. 
Bên cạnh sự đầu tư trang bị về hệ thống máy 
tính là sự đầu tư trang bị phần mềm quản trị 
thông tin. Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, 
các TV&TTTT Việt Nam đã áp dụng nhiều 
phần mềm khác nhau vào quản lý các hoạt 
động (Bảng 1). 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 13
 (1) Bao gồm cả thư viện đại học, trung tâm học liệu theo quy định của Pháp lệnh Th ư viện.
Loại phần mềm
Chuyên, đa ngành1 Công cộng Tổng số
SL % SL % SL %
Hệ thống thư viện tích 
hợp (ILS) 42 82,4 14 66,7 56 78
Phần mềm thư viện số 22 43,1 4 19,0 26 36
Phần mềm tìm kiếm 
tập trung 3 5,9 0 0,0 3 4
Phần mềm khác 8 15,7 7 33,3 15 21
Bảng 1. Th ực trạng các hệ phần mềm được ứng dụng
Số lượng
Số liệu tổng hợp trong Bảng 1 minh họa 
thực trạng sử dụng phần mềm trong các 
TV&TTTT. Phân tích số liệu cho thấy, có 
56/72 (chiếm 78%) số thư viện được khảo sát 
đã áp dụng hệ thống thư viện tích hợp (ILS). 
Có 26/72 (chiếm 36%) thư viện được khảo sát 
đã áp dụng phần mềm thư viện số vào quản 
lý và xây dựng CSDL toàn văn, các bộ sưu tập 
tài liệu số. Kết quả này cho thấy xu hướng 
xây dựng thư viện số đã hình thành và đang 
phát triển mạnh tại các TV&TTTT lớn ở Việt 
Nam hiện nay, đặc biệt là trong hệ thống các 
thư viện chuyên, đa ngành.
Phần mềm tìm kiếm tập trung là phần 
mềm mới trong lĩnh vực TT-TV. Đây là phần 
mềm hỗ trợ các TV&TTTT quản lý tích 
hợp được nhiều loại CSDL khác nhau trong 
một hệ thống và cung cấp cho người dùng 
một giao diện duy nhất nhưng có thể truy 
cập đến nhiều nguồn tin, nhiều CSDL khác 
nhau. Trên thế giới phần mềm này chủ yếu 
được thư viện lớn thuộc các nước phát triển 
lựa chọn áp dụng bởi chi phí đầu tư lớn. Đến 
thời điểm hiện nay, tại Việt Nam đã có ba 
TV&TTTT lựa chọn và áp dụng, đó là: Viện 
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia 
Tp. Hồ Chí Minh. 
Bên cạnh sự đầu tư về hạ tầng CNTT, việc 
đầu tư phát triển nguồn lực thông tin hiện 
đại cũng được chú ý. Đó là các nguồn tin 
điện tử như: sách, tạp chí, các CSDL điện 
tử, hoặc đầu tư xây dựng thư viện số được 
các TV&TTTT quan tâm đầu tư ở những 
quy mô khác nhau. Th ực tế này đã làm 
thay đổi cơ cấu nguồn lực thông tin trong 
các TV&TTTT lớn tại Việt Nam. Kết quả 
khảo sát trong Bảng 2 cho thấy tại các thư 
viện chuyên ngành, đa ngành, các trung tâm 
thông tin và trung tâm học liệu tỷ lệ các tài 
liệu điện tử ngày càng gia tăng so với tài liệu 
truyền thống. Th ậm chí trong một số thư 
viện đại học, tỷ lệ tài liệu điện tử và truyền 
thống gần tương đương nhau. Ví dụ: Đại học 
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Trung tâm Học 
liệu Th ái Nguyên. 
14 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Như vậy, qua việc khảo sát tại một số 
TV&TTTT lớn ở Việt Nam, từ các phương 
diện như: hạ tầng công nghệ thông tin, 
nguồn lực thông tin, hoạt động xử lý và tổ 
chức thông tin, dịch vụ TT-TV cho thấy các 
thư viện Việt Nam đã có rất nhiều sự thay 
đổi. Quá trình áp dụng CNTT vào hoạt động 
thư viện đã tạo ra nhiều thay đổi trong cơ 
cấu nguồn lực thông tin, quy trình tổ chức 
và phân phối thông tin. Có thể nhận định 
rằng, các TV&TTTT lớn ở Việt Nam hiện 
nay đã và đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ 
từ mô hình thư viện truyền thống sang mô 
hình thư viện hiện đại.
 2.2. Luận giải về những vấn đề đặt ra và 
một số kiến nghị đối với hoạt động quản lý 
nhà nước về lĩnh vực thông tin- thư viện tại 
Việt Nam hiện nay
Th eo giáo trình quản lý hành chính nhà 
nước: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ 
 Bảng 2. Tài liệu điện tử tại một số thư viện lớn của Việt Nam (Tính theo tên tài liệu)
Tên thư viện
 Số lượng Tài liệu truyền thống Tài liệu điện tử
Đại học Quốc gia Tp. HCM 71.000 53.000*
Đại học Th ái Nguyên 44.000 38.000
Đại học Quốc gia Hà Nội 157.000 47.000*
Đại học Huế 25.000 10.000*
Đại học Vinh 28.000 25.000
Đại học Bách khoa Hà Nội 110.000 30.000*
Đại học Đà Nẵng 50.000 3.500*
Th ư viện Quốc gia Việt Nam 2.500.000 30.000*
Ghi chú: * (Còn bao gồm nhiều CSDL khác)
 Các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ như xử lý và tổ chức thông tin, cung cấp dịch vụ đã 
được tự động hoá. Số liệu trong Bảng 3 là tổng hợp các khâu công việc chuyên môn đã được ứng 
dụng CNTT tại các TV&TTTT Việt Nam. 
Hoạt động
 Số lượng
Chuyên, đa ngành Công cộng Tổng số
SL % SL % SL %
Bổ sung 11 21,6 6 28,6 17 24
Biên mục 49 96,1 17 81,0 66 92
Quản lý ấn phẩm định kỳ 35 68,6 12 57,1 47 65
Lưu thông tài liệu 37 72,5 10 47,6 47 65
Tra cứu 49 96,1 17 81,0 66 92
Quản lý bạn đọc 40 78,4 13 61,9 53 74
Th ống kê 15 29,4 5 23,8 20 28
Quản lý tài chính 6 11,8 0 0,0 6 8
Xây dựng bộ sưu tập số 22 43,1 4 19,0 26 36
Xây dựng Website 32 62,7 15 71,4 47 65
Bảng 3. Các khâu công việc đã ứng dụng tin học trong các thư viện
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 15
chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước 
đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt 
động của con người để duy trì và phát triển 
các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật 
nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm 
vụ của nhà nước” [1]. Như vậy, quản lý nhà 
nước là hoạt động mang tính chất quyền lực, 
sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh 
các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được 
xem là một hoạt động chức năng của nhà 
nước trong quản lý xã hội và có thể xem là 
hoạt động chức năng đặc biệt. 
Quản lý nhà nước về lĩnh vực TT-TV có 
thể hiểu là quá trình nhà nước sử dụng trong 
phạm vi quyền lực của mình tác động có tổ 
chức và điều chỉnh vào các quan hệ nảy sinh 
trong hoạt động TT-TV nhằm đảm bảo cho 
hoạt động TT-TV diễn ra theo đúng quy 
định của pháp luật và thực hiện đúng chức 
năng nhiệm vụ của lĩnh vực này. Nói cách 
khác, quản lý nhà nước về lĩnh vực TT-TV 
là sự tác động có chủ đích, có định hướng 
của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động 
liên quan đến TT-TV bằng quyền lực của 
nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, 
công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài 
chính nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước về hoạt động TT-TV 
bao gồm nhiều nội dung khác nhau trong đó 
tập trung vào những nội dung quan trọng 
mang tính quyết định đến sự phát triển của 
sự nghiệp TT-TV như [5]: 
- Xây dựng chiến lược phát triển;
- Quy hoạch mạng lưới;
- Ban hành các văn bản pháp quy;
- Đầu tư kinh phí;
- Đào tạo nguồn nhân lực;
- Nghiên cứu khoa học và ứng dụng các 
 thành tựu khoa học công nghệ;
- Hợp tác quốc tế;
- Th anh tra, kiểm tra;
- Cơ chế phối hợp với các tổ chức nghề 
 nghiệp khác.
Kết quả khảo sát thực tế cho thấy, các 
TV&TTTT tại Việt Nam đang có sự chuyển 
dịch từ mô hình truyền thống sang hiện đại. 
Sự chuyển dịch này đã đặt ra những vấn đề 
cần phải giải quyết đối với hoạt động quản 
lý nhà nước, trong đó tập trung vào các nội 
dung sau: 
- Về xây dựng chiến lược phát triển
Xây dựng chiến lược phát triển là một trong 
những nội dung rất quan trọng của quản lý 
hoạt động thư viện ngày nay, bởi nó giúp 
cho cơ quan quản lý xác định được sứ mệnh, 
những nhiệm vụ phải hoàn thành nhằm đạt 
được mục tiêu [7]. Tại Việt Nam, nhận thức 
được vai trò to lớn của TV&TTTT, đồng 
thời nắm bắt xu thế phát triển chung của thế 
giới về lĩnh vực này, Đảng và Nhà nước đã 
sớm định hướng chiến lược phát triển hoạt 
động TT-TV trong nhiều văn bản quy phạm 
pháp luật, như: Pháp lệnh Th ư viện; Nghị 
định; Báo cáo của Ban chấp hành Trung 
ương; Quyết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh 
hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước cần có sự 
đánh giá và hoàn thiện chiến lược phát triển 
về lĩnh vực TT-TV. Kết quả nghiên cứu thực 
trạng xây dựng mục tiêu chiến lược phát 
triển lĩnh vực TT-TV ở Việt Nam cho thấy 
chiến lược phát triển đã được đề cập nhưng 
nằm tản mạn ở nhiều các văn bản khác nhau 
do các cấp khác nhau ban hành. Một số nội 
dung mới đã được đề cập trong mục tiêu 
chiến lược nhưng còn sơ sài, chung chung 
như: hiện đại hóa, tự động hóa, tin học hóa 
công tác TT-TV, Các nội dung này chưa 
bao quát được các lĩnh vực hoạt động trọng 
điểm của hoạt động TT-TV hiện nay.
Th eo Kumar (2007), việc lập kế hoạch cần 
thiết phải cân nhắc tới những yếu tố thay đổi 
nhanh chóng của môi trường bên trong và 
bên ngoài thư viện. Công nghệ ứng dụng vào 
16 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thư viện luôn thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi 
việc lập kế hoạch chiến lược, kế hoạch dài 
hạn không chỉ có sự phân tích đánh giá môi 
trường một cách khoa học, khách quan mà 
còn phải có khả năng dự đoán, tiên liệu sự 
phát triển của KH&CN trong tương lai. 
Có thể thấy tính đến thời điểm hiện nay, một 
mục tiêu chiến lược cụ thể, rõ ràng cho lĩnh 
vực TT-TV Việt Nam hiện vẫn chưa được xác 
định. Để hoàn thiện chiến lược phát triển thư 
viện Việt Nam, trước hết cần căn cứ vào các 
yếu tố chính tác động đến sự phát triển của 
thư viện hiện đại, các đặc trưng của thư viện 
hiện đại, bối cảnh thế giới và Việt Nam hiện 
nay trong lĩnh vực TT-TV Chỉ như vậy việc 
xây dựng chiến lược phát triển mới phù hợp 
và đúng trọng tâm. 
- Về mô hình quản lý và quy hoạch mạng lưới
Mô hình quản lý nhà nước về lĩnh vực 
TT-TV đã được thiết lập, tuy nhiên còn tồn 
tại những bất cập cần có sự điều  ...  khảo để tìm 
kiếm thông tin mới. Trong quá trình tìm kiếm 
thông tin, người dùng tin thường có hành vi 
tìm kiếm thông tin từ các tài liệu được trích 
dẫn trong danh mục tài liệu tham khảo. Chẳng 
hạn, từ một khái niệm hay định nghĩa được 
trích dẫn trong bài viết, người dùng tin sẽ thực 
hiện hành vi liên kết nguồn trích dẫn đó với 
một quá trình tìm kiếm mới nhằm tìm tài liệu 
được trích dẫn đó và kiểm tra tính xác thực 
của thông tin được trích dẫn.
- Chọn lọc (berrypicking): đặt ra những câu 
hỏi từ kết quả tìm kiếm thông tin mới, hành 
vi này diễn ra trong suốt quá trình tìm tin. 
Đây là biểu hiện của hành vi thông tin có sự 
phản biện. Nghĩa là họ chọn lọc những tài 
liệu phù hợp thông qua việc đặt ra câu hỏi từ 
kết quả tìm kiếm.
- Th ải hồi (bouncing): thoát khỏi nguồn 
thông tin một cách nhanh chóng ngay khi 
người dùng tin nhận ra thông tin, nguồn thông 
tin đó không thích hợp với nhu cầu và yêu cầu 
tìm tin. Hành vi thông tin này đòi hỏi người 
dùng tin có cách đánh giá nhanh chóng và 
bao quát, bởi lẽ họ không tốn nhiều thời gian 
vào việc tìm và đọc những tài liệu không phù 
hợp với yêu cầu mà họ đang tìm kiếm. Hay nói 
cách khác, việc nhận diện tính thích hợp của 
tài liệu đối với yêu cầu tin của người dùng tin 
giúp họ tiết kiệm nhiều thời gian và công sức; 
đặc biệt, trong hệ thống thông tin số, điều này 
giúp người dùng tin hạn chế được những tác 
nhân gây mất tập trung vào mục tiêu tìm kiếm 
đã đặt ra ban đầu.
2. Vai trò của cán bộ thư viện đại học trong 
việc hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin
Bối cảnh thông tin kỹ thuật số mang đến cho 
thư viện đại học những cơ hội mới để khẳng 
định vai trò của mình trong xã hội thông tin, 
bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ 
đối với hoạt động và phát triển của thư viện. 
Khi đó, đòi hỏi cán bộ thư viện cần phải thích 
ứng với những vai trò và nhiệm vụ mới, trong 
đó bao gồm vai trò quản lý hệ thống thông tin 
số và hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng. 
Quản lý hệ thống thông tin số đòi hỏi năng 
lực bao quát gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ 
và cách thức cần thiết để tạo lập, lưu trữ, phân 
tích, tổ chức, tìm và phân phối thông tin số 
(văn bản, hình ảnh, âm thanh) trong thư viện 
số hay bất kỳ loại thông tin nào. Như vậy, việc 
quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi 
thông tin đòi hỏi người cán bộ thư viện phải 
thể hiện ở các vai trò khác nhau.
2.1. Vai trò tích hợp của cán bộ thư viện 
truyền thống và cán bộ thư viện số 
Người cán bộ thư viện ngày nay bên cạnh 
những kiến thức chuyên môn-nghiệp vụ cơ 
bản của một người cán bộ thư viện truyền 
thống cũng cần có những sự hiểu biết và những 
kỹ năng cần thiết trong vai trò của cán bộ thư 
viện số. Cán bộ thư viện là người thực hiện 
những công việc nhằm đảm bảo vai trò tích 
hợp của mình trong hệ thống thông tin số, bao 
gồm khai thác nguồn lực thông tin số; quản lý 
thư viện số; tổ chức thông tin và tri thức số; 
phổ biến thông tin số từ nguồn lực thông tin 
số mà thư viện tạo lập và khai thác; cung cấp 
dịch vụ tham khảo số và dịch vụ thông tin điện 
tử; xử lý và bảo quản thông tin số; biên mục 
và phân loại tài liệu số, v.v... Trong đó, khai 
thác, thu thập thông tin số là một trong những 
nhiệm vụ cần thiết của cán bộ thư viện số. Có 
rất nhiều nguồn thông tin khác nhau trong 
môi trường số, nhiệm vụ của cán bộ thư viện 
số chính là sử dụng các kỹ thuật tìm tin khác 
nhau bao gồm tra cứu siêu dữ liệu, tra cứu tài 
liệu toàn văn nhằm phát triển nguồn lực thông 
tin của thư viện, phục vụ người dùng tin. Với 
kiến thức về việc lựa chọn nguồn thông tin 
thư viện số, cán bộ thư viện có năng lực sẽ thể 
hiện vai trò như một chuyên gia thông tin số 
khi thu thập thông tin số hỗ trợ người dùng 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 23
tin. Có nhiều công cụ khác nhau có thể hỗ trợ 
cán bộ thư viện số tìm kiếm thông tin số như 
mục lục truy cập công cộng trực tuyến (OPAC), 
CSDL trực tuyến, các công cụ trên nền Internet 
như: email, website, các công cụ xuất bản điện 
tử, v.v... Bên cạnh đó, việc tìm kiếm và tra cứu 
thông tin trong hệ thống thông tin số cũng yêu 
cầu cán bộ thư viện có kiến thức tổng hợp về 
công cụ tra cứu nhằm cung cấp các yêu cầu tìm 
tin tương thích với hệ thống tìm tin. Dù ở bất kỳ 
nhiệm vụ nào, thì mục tiêu cuối cùng của cán 
bộ thư viện trong vai trò tích hợp này chính là 
đảm bảo tốt vai trò của cán bộ thư viện trong 
môi trường thư viện truyền thống và phát huy 
hiệu quả của hệ thống thông tin số trong hỗ trợ 
hành vi của người dùng tin của thư viện trong 
môi trường số hiện nay. 
2.2. Vai trò quản lý thư viện và hệ thống 
thông tin số
Ở vai trò cơ bản này, cán bộ thư viện là người 
quản lý, giám sát chính hoạt động của thư viện 
không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn là phạm 
vi quốc tế. Bởi lẽ, thư viện số không chỉ còn 
giới hạn trong phạm vi bức tường của một thư 
viện thông thường. Quá trình quản lý này đòi 
hỏi nhiều yếu tố khác nhau của người cán bộ 
thư viện. Năng lực chuyên môn là yêu cầu tiên 
quyết của người quản lý thư viện và hệ thống 
thông tin số. Năng lực này đòi hỏi người cán 
bộ thư viện phải có trình độ và khả năng nhận 
diện, phân tích và đánh giá mối tương quan 
nguồn thông tin trong môi trường thông tin 
số và nguồn lực của thư viện, hệ thống thông 
tin. Hay nói cách khác, trước khi nguồn thông 
tin trở thành một phần của nguồn lực trong 
hệ thống, cán bộ thư viện với vai trò quản lý 
cần có sự xem xét, đánh giá năng lực của thư 
viện, hệ thống thông tin số như: nguồn nhân 
lực có đảm bảo các điều kiện cần và đủ để thực 
hiện; nguồn kinh phí có đảm bảo để thư viện 
tiếp cận, sử dụng nguồn thông tin chất lượng 
và khả năng duy trì lâu dài hay không; cơ sở 
vật chất, hạ tầng, kỹ thuật công nghệ có đảm 
bảo vận hành hiệu quả; những tác động của 
bối cảnh bên ngoài như sự thay đổi của môi 
trường số, sự đa dạng của nguồn lực thông tin, 
quy luật phát triển của thông tin số, tính pháp 
lý liên quan, v.v.... cũng là những mối quan 
tâm khác của người cán bộ thư viện khi thể 
hiện vai trò quản lý. 
Không chỉ vậy, người cán bộ thư viện cũng 
cần biết nhận diện và đánh giá sự tương thích 
giữa nguồn thông tin và nhu cầu của người 
dùng tin, khai thác, lưu trữ, tổ chức và phân 
phối thông tin cho người dùng tin, v.v... Làm 
tốt vai trò này góp phần đảm bảo nâng cao 
chất lượng phục vụ của thư viện và hệ thống 
thông tin số đối với người dùng tin, tiết kiệm 
nguồn lực, khẳng định vai trò và năng lực của 
cán bộ thư viện nói riêng và hiệu quả của hệ 
thống thông tin nói chung. 
Ngoài ra, một đòi hỏi khác ở vai trò quản lý 
hệ thống thông tin số đó chính là khả năng liên 
quan đến tạo lập và sử dụng nguồn lực thông 
tin số, ví dụ như khả năng tạo lập CSDL, phân 
phối CSDL, thiết kế giao diện người sử dụng, 
thiết kế ngôn ngữ truy vấn, các hoạt động khác 
liên quan đến tạo lập sản phẩm thông tin đa 
phương tiện, các phương thức để khai thác dữ 
liệu, tri thức, v.v... Nhìn chung, những yêu cầu 
trên có thể thực hiện tốt hơn khi người cán bộ 
thư viện hiểu rõ hệ thống thông tin số của thư 
viện với cách tiếp cận đa chiều, từ bản thân 
cán bộ thư viện, từ hệ thống và từ người dùng 
tin. Các yếu tố cần hiểu rõ về hệ thống thông 
tin số như: thành phần của hệ thống thông tin 
số, đầu vào nguồn dữ liệu, cách thức xử lý từ 
dữ liệu sang thông tin, đầu ra sản phẩm thông 
tin, lưu trữ, kiểm soát hiệu suất hoạt động của 
hệ thống và các yếu tố khác. 
Như vậy, dù rằng vai trò quản lý của cán bộ 
thư viện trong môi trường số được thể hiện 
ở những hoạt động khác nhau, thì vai trò này 
cũng gắn liền với mục tiêu hỗ trợ người dùng 
tin sử dụng thư viện hiệu quả nhất.
2.3. Vai trò định hướng và hỗ trợ người dùng 
tin trong hệ thống thông tin số 
Với vai trò này, người cán bộ thư viện cần 
24 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
biết sử dụng các phương tiện hiện đại trong 
hoạt động thư viện, có kiến thức và kỹ năng tốt 
trong việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm 
xử lý, phân phối thông tin số và hỗ trợ người 
dùng tin. Đặc biệt, đối với hành vi thông tin 
của người dùng tin, cán bộ thư viện có vai trò 
hỗ trợ và hướng dẫn người dùng tin truy cập, 
tra cứu và sử dụng máy tính để tìm tin, bởi 
lẽ hệ thống tìm tin là một trong những công 
cụ hỗ trợ cho người dùng tích cực. Để thực 
hiện được vai trò này, đòi hỏi cán bộ thư viện 
phải có kiến thức tổng hợp về công cụ tra cứu 
và cấu trúc hệ thống tra cứu, từ đó giúp cán 
bộ thư viện có thể thực hiện được yêu cầu tìm 
tin, có được kết quả tìm tin phù hợp dành cho 
người dùng tin, khai thác tối đa hiệu quả của 
công cụ tìm tin mang lại. Ngoài ra, người cán 
bộ thư viện cần hiểu rõ hành vi thông tin của 
người dùng tin biểu hiện ở mức độ nào và với 
loại hình nào. 
Việc xác định từng loại hình hành vi thông 
tin của người dùng tin cho thấy, cán bộ thư 
viện là người có thể tiếp cận và tác động vào 
hành vi tìm kiếm thông tin của người dùng tin 
trong hệ thống thông tin của thư viện. Chẳng 
hạn, ở hành vi đọc lướt sâu cán bộ thư viện 
chính là người góp phần quyết định việc người 
dùng tin tiếp tục hay không tiếp tục đọc tài 
liệu khi họ đọc phần tóm tắt hay tiêu đề của tài 
liệu. Trong thực tế, ngoài tiêu đề là bắt buộc, 
một số bài viết không có sẵn phần tóm tắt 
nội dung tài liệu từ tác giả, ban biên tập hay 
từ nhà xuất bản, khi đó việc tạo các bản tóm 
tắt chất lượng là yêu cầu của cán bộ thư viện 
khi thực hiện vai trò này. Điều chắc chắn rằng, 
người dùng tin sẽ đọc toàn văn tài liệu đó khi 
họ nhận thấy phần tóm tắt phù hợp với yêu 
cầu tin của họ. Như vậy, cán bộ thư viện cần 
phải đảm bảo có những kỹ năng về tóm tắt tài 
liệu một cách đầy đủ, cô đọng, chính xác nhất 
trước khi tạo sản phẩm cung cấp cho người 
dùng tin. 
Một loại hình hành vi thông tin khác mà 
trong đó vai trò của cán bộ thư viện thể hiện 
rõ, đó là hành vi tích trữ thông tin. Th ực vậy, 
khi người dùng tin có nhu cầu thu thập và lưu 
trữ tài liệu trước khi họ bắt đầu đọc, cán bộ 
thư viện cần hỗ trợ người dùng ở các nhiệm 
vụ sau: 
Th ứ nhất, cán bộ thư viện cần giúp người 
dùng tin hiểu rõ và sử dụng hiệu quả các công 
cụ tra cứu như: hệ thống mục lục trực tuyến, 
danh mục tài liệu mới, hay cách thức tra cứu 
tin để người dùng tin có thể chủ động tìm tài 
liệu phù hợp.
Th ứ hai, việc lưu trữ tài liệu từ quá trình 
tìm kiếm của người dùng tin cần sự hỗ trợ từ 
cán bộ thư viện. Cụ thể, cán bộ thư viện cần 
cung cấp các hướng dẫn về kỹ năng thông tin 
hay phần mềm ứng dụng trong quản lý nguồn 
thông tin số, trong đó bao gồm kỹ năng tìm và 
lưu trữ thông tin một cách khoa học và logic. 
Điều này giúp người dùng tin dễ dàng tìm thấy 
tài liệu họ cần trong toàn bộ tài liệu mà họ đã 
thu thập được. 
Ngoài ra, hành vi thải hồi của người dùng 
tin sau khi tìm thấy thông tin không thích hợp 
cũng cần sự phối hợp và hỗ trợ của cán bộ thư 
viện. Ví dụ, nhằm hạn chế tối đa việc mất thời 
gian vào quá trình tìm tài liệu trong hệ thống 
thông tin và kết quả thu được là tài liệu không 
thích hợp, thì cán bộ thư viện cần có sự định 
hướng và hướng dẫn người dùng tin ngay từ 
thao tác tìm kiếm đầu tiên, cách thức đặt biểu 
thức tìm hay cách thức sử dụng thuật ngữ, 
toán tử tìm kiếm. Điều này giúp người dùng 
tin tránh lãng phí công sức, thời gian, đồng 
thời giúp người cán bộ thư viện thể hiện tốt 
vai trò của mình trong việc phối hợp và hỗ trợ 
người dùng tin. Trong trường hợp tương tự, 
cán bộ thư viện cũng có thể cung cấp các sản 
phẩm, dịch vụ TT-TV theo yêu cầu cụ thể của 
người dùng tin.
Bên cạnh những vai trò kể trên, cán bộ thư 
viện còn có rất nhiều những vai trò, nhiệm vụ 
khác phụ thuộc theo đặc thù từng vị trí công 
việc khác nhau, đòi hỏi mức độ chuyên môn 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 25
hóa cao hơn. Tuy vậy, dù với bất kỳ nhiệm vụ 
nào, đối với hành vi thông tin của người dùng 
tin, thông qua hệ thống thông tin số, cán bộ 
thư viện cần giữ vai trò là người định hướng, 
tác động, hỗ trợ và phục vụ người dùng tin, 
giúp người dùng tin thỏa mãn nhu cầu tin, 
khai thác và sử dụng thông tin đúng mục tiêu 
đã đề ra. Đó chính là ý nghĩa thực sự hướng 
tới việc xác định giá trị của thông tin đối với 
người dùng tin trong bối cảnh thông tin số 
hiện nay. 
Kết luận
Có thể thấy, hành vi thông tin là chuỗi hoạt 
động của một cá nhân tương tác với nguồn 
tin nhằm thỏa mãn nhu cầu tin của bản thân. 
Th ư viện đại học là một trong những nguồn 
tin có giá trị lớn, trong đó người cán bộ thư 
viện đóng vai trò đắc lực của một chuyên gia 
thông tin, một người truyền giao tri thức đến 
người dùng tin. Để thực hiện tốt điều này, 
mỗi cán bộ thư viện cần không ngừng đổi 
mới, nâng cao kiến thức chuyên môn-nghề 
nghiệp và thể hiện tốt vai trò của mình, nhằm 
định hướng và hỗ trợ hành vi thông tin của 
người dùng tin một cách hiệu quả và chất 
lượng nhất. 
------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bates, M.J. (1989), “Th e design of 
browsing and berrypicking techniques for 
the online search interface”, Online Review, 
13 (5), 407-24. 
2. Bates, M.J. (2007), “What is browsing-
really? A model drawing from behavioural 
science research”, Information Research, 12 
(4). Retrieved October 10, 2011 from http://
InformationR.net/ir/12-4/paper330.html. 
3. Guest S.S. (1987), “The use of 
bibliographic tools by humanities faculty at 
the State University of New York at Albany”. 
Reference Librarian 18 : 157-172.
4. Majid, S. and Kassim, G.M. (2000), 
“Information seeking behavior of 
international Islamic University Malaysia 
Law Faculty members”, Malaysian Journal of 
Library and Information Scene, 5(2): 1-17.
5. Leckie, G.J., Pettigrew, K.E., Sylvain, C. 
(1996). “Modelling the information seeking 
of professionals: A general model derived 
from research on engineers, health care 
professionals, and lawyers”, Library Quarterly 
66 (2): 161-193.
6. Palmer, C.L., Teff eau, L.C. & Pirmann, 
C.M. (2009), “Scholarly Information 
Practices in the Online Environment: Th emes 
from the Literature and Implications for 
Library Service Development”. Retrieved 
March 21 2012 from www.oclc.org/research/
publications/library/2009/2009- 02.pdf. 
7. Rowlands, I. & Fieldhouse, M. (2007), 
“Information behaviour of the researcher 
of the future, Work Package I: Trends in 
Scholarly Information Behaviour”. Retrieved 
March 21 2012 from www.jisc.ac.uk/media/
documents/programmes/reppres/ggwor 
kpackagei.pdf. 
8. Shokeen, A., & Kushik, S.K. (2002), 
“Information seeking behavior of social 
scientists of Haryana universities”. Library 
Herald, 40 (1), 8-11.
9. Smith, E.S. (1987). “Document supply: 
Developments and problems”, IAALD 
Quarterly Bulletin 32 (1): 19-23.
10. Sreenivasulu, V. (in publication), “Role 
of information technologies in electronic 
information transfer and in providing value 
added information services’’, DESIDOC 
Bulletin of Information Technology. 
11. Wilson, T. (2000), “Human information 
behavior”, Incoming Scene, 3(2): 49-55.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 12-10-2015; 
Ngày phản biện đánh giá: 09-12-2015; Ngày 
chấp nhận đăng: 06-01-2016).

File đính kèm:

  • pdfsu_phat_trien_cua_cac_thu_vien_trung_tam_thong_tin_tai_viet.pdf