Sử dụng công nghệ nghịch đảo địa thống kê kết hợp với dữ liệu địa chấn 3D để khoanh vùng các lớp cát mỏng trong môi trường trầm tích châu thổ (delta)
Phương pháp địa chấn được sử dụng phổ biến trong công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhưng khi ứng dụng ở môi trường trầm tích
châu thổ (delta) chứa các lớp cát mỏng đứt đoạn thì các mạch sóng ghi được thường mờ nhạt, tính liên tục cũng như cường độ phản xạ
giảm mạnh nên rất khó nhận diện ranh giới giữa các tầng chứa sản phẩm. Đây là trở ngại rất lớn khi khoanh vùng các cồn cát bị chôn vùi
sâu có chứa sản phẩm dầu khí, dẫn đến xác định sai vị trí giếng khai thác (gây ra số lượng giếng khô cao, chi phí tăng.).
Bể trầm tích San Jorge (Argentina) được khai thác từ năm 1907, chủ yếu chứa các lớp sét ao hồ phân lớp dày và vùng ngập lụt, xen
kẽ bởi các lớp cát bồi tích mỏng, không liên tục, chủ yếu nhỏ hơn 4m, bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. Sau thời gian khai thác rất
dài cho thấy 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giếng khai thác chỉ đạt
13.000m3/giếng. Số lượng giếng khô hoặc không kinh tế được xác định là do vị trí đặt giếng khoan trước kia dựa vào tài liệu địa chấn 2D
chất lượng thấp.
Cuối thế kỷ XX, sau khi ứng dụng công nghệ đảo ngược địa thống kê dựa trên phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên vào xử lý số liệu
địa chấn 3D, các sai lầm về tư duy lẫn kỹ thuật trong minh giải địa vật lý đã được khắc phục. Hiện nay, sản lượng khai thác ở bể San Jorge
chiếm 32% tổng sản lượng khí đốt của Argentina.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng công nghệ nghịch đảo địa thống kê kết hợp với dữ liệu địa chấn 3D để khoanh vùng các lớp cát mỏng trong môi trường trầm tích châu thổ (delta)
59DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 PETROVIETNAM bị thay đổi bởi sự xen kẽ các lớp tuff vụn mỏng, có nơi bề dày đến vài mét. Cả độ rỗng tại chỗ (insitu- porosity) và độ thấm của thân cát bị chi phối bởi thành phần tuff và sự biến dạng cấu tạo sau đó. Ở đây, cát chứa dầu liên quan đến thành tạo Bajo Barreal (tuổi Cretaceous giữa và Cretaceous muộn) bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. Hình 1 thể hiện khoảng 450 giếng khai thác trong cánh Nam của vùng Canadon de la Escondida, được phân bố dưới dạng các cụm phân tán. Sự phân bố này có thể dựa trên tính chất không liên tục theo phương nằm ngang của lớp chứa gây ra song cũng có thể do phương pháp chọn vị trí đặt giếng dựa trên kết quả phát triển vành đai đặt giếng đón đầu giới hạn diện tích mỏ. Trong quá khứ vị trí đặt giếng chỉ dựa trên việc xem xét cấu trúc tầng triển vọng (structural play) từ các nghiên cứu địa chất trên mặt đất và đôi khi từ kết quả thăm dò địa chấn 2D. Bởi vì trong thời gian đó, các chuyên gia địa chất có quá ít thông tin về sự có mặt của cát ở dưới sâu hoặc về tính liên tục theo phương nằm ngang của thân cát đó. Theo thống kê, 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giếng khai thác chỉ thu được 6m3/ngày và tổng sản lượng cộng dồn là 13.000m3/giếng. SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ NGHỊCH ĐẢO ĐỊA THỐNG KÊ KẾT HỢP VỚI DỮ LIỆU ĐỊA CHẤN 3D ĐỂ KHOANH VÙNG CÁC LỚP CÁT MỎNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH CHÂU THỔ (DELTA) TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 9 - 2019, trang 59 - 66 ISSN-0866-854X Tóm tắt Phương pháp địa chấn được sử dụng phổ biến trong công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhưng khi ứng dụng ở môi trường trầm tích châu thổ (delta) chứa các lớp cát mỏng đứt đoạn thì các mạch sóng ghi được thường mờ nhạt, tính liên tục cũng như cường độ phản xạ giảm mạnh nên rất khó nhận diện ranh giới giữa các tầng chứa sản phẩm. Đây là trở ngại rất lớn khi khoanh vùng các cồn cát bị chôn vùi sâu có chứa sản phẩm dầu khí, dẫn đến xác định sai vị trí giếng khai thác (gây ra số lượng giếng khô cao, chi phí tăng...). Bể trầm tích San Jorge (Argentina) được khai thác từ năm 1907, chủ yếu chứa các lớp sét ao hồ phân lớp dày và vùng ngập lụt, xen kẽ bởi các lớp cát bồi tích mỏng, không liên tục, chủ yếu nhỏ hơn 4m, bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. Sau thời gian khai thác rất dài cho thấy 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giếng khai thác chỉ đạt 13.000m3/giếng. Số lượng giếng khô hoặc không kinh tế được xác định là do vị trí đặt giếng khoan trước kia dựa vào tài liệu địa chấn 2D chất lượng thấp. Cuối thế kỷ XX, sau khi ứng dụng công nghệ đảo ngược địa thống kê dựa trên phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên vào xử lý số liệu địa chấn 3D, các sai lầm về tư duy lẫn kỹ thuật trong minh giải địa vật lý đã được khắc phục. Hiện nay, sản lượng khai thác ở bể San Jorge chiếm 32% tổng sản lượng khí đốt của Argentina. 1. Giới thiệu Bể trầm tích San Jorge được đưa vào khai thác từ năm 1907, đến nay vẫn chiếm 32% tổng sản lượng khai thác dầu khí của Argentina. Quá trình tiến hóa địa chất thời kỳ đầu của bể trầm tích này là do liên quan đến cùng một quá trình tạo rift mở rộng Đại Tây Dương xảy ra vào đầu kỷ Jurassic. Các hoạt động đứt gãy và quá trình bào mòn địa phương đi kèm theo sự tiến triển của rift, tạo thuận lợi cho lắng đọng trầm tích lục nguyên không có nguồn gốc biển xảy ra chủ yếu trong kỷ Cretaceous sớm. Tại thời điểm đó, chế độ địa kiến tạo Andean trở thành tác nhân chính cung cấp nguồn vật liệu vụn núi lửa tập trung trong cột trầm tích; đồng thời cũng là tác nhân tạo ra sự có mặt phổ biến các xâm nhập batholic trong khu vực này. Trầm tích vụn (clastic) lắng đọng trong khu vực tạo hydrocar- bon đặc trưng bằng sét phân lớp dày có nguồn gốc ao hồ và vùng ngập lụt xen kẽ với các thân cát chứa dầu khí khá mỏng, thưa thớt. Sự tập trung của các thân cát mỏng tương đối nhỏ trong cột trầm tích được giải thích bằng các cấu trúc bồi tích và sông ngòi phát triển diễn ra rất ngắn, phát triển thành các lớp với bề dày chỉ khoảng từ 1 - 15m (trong đó chủ yếu là các lớp mỏng hơn 4m). Cột trầm tích tiếp tục 60 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ Để cải thiện công tác phát triển mỏ, các chuyên gia địa vật lý tìm cách khai thác thông tin về phạm vi kéo dài theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng của đối tượng chứa dầu khí thông qua sử dụng thông tin chứa trong biên độ phản xạ sóng địa chấn 3D sau cộng sóng (post-stack) các mạch ghi. Các thuộc tính địa chấn chuẩn (standard seismic attributes) đều là chỉ số mơ hồ về tính liên tục của thân cát do hiệu ứng điều hướng trên mạch ghi (tuning effects) gây ra. Do đó trước khi nghiên cứu các mối quan hệ về vật lý đá (petrophysical) giữa sự có mặt của cát và tín hiệu đáp- địa chấn (seimic response), các ảnh hưởng của sóng nguồn (wavelet footprint) phải được loại bỏ khỏi dữ liệu địa chấn. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghịch đảo địa chấn theo từng mạch ghi (trace-based inversion), sau đó tìm cách cải thiện độ phân giải thẳng đứng bằng kết quả đầu ra của kỹ thuật nghịch đảo địa thống kê dựa trên phương pháp mô phỏng quá trình ngẫu nhiên (stochastic simulation). Ý tưởng của việc làm này là để nâng cao thêm độ phân giải (tốt) theo phương nằm ngang của tài liệu địa chấn để tương thích với dữ liệu có độ phân giải thẳng đứng cao hơn nhiều từ tài liệu giếng khoan. Nghịch đảo địa chấn địa thống kê cho phép tích hợp các thông tin có được từ các nguồn đo khác nhau vào một hình ảnh đơn nhất, phù hợp của tầng chứa sản phẩm. 2. Phương pháp thực hiện và kết quả của phương pháp luận trong việc khoanh giới hạn phân bố các lớp cát mỏng trong trầm tích delta 2.1. Dữ liệu địa chấn Dữ liệu địa chấn 3D được lấy mẫu 2ms (mili giây), băng tần số 6 - 85Hz, với tần số trung tâm bằng 35Hz. Tại tần số 50Hz, với giả thiết tốc độ truyền sóng dọc (P) V = 3.200m/s, bước sóng giao thoa (tuning wavelength = λ/4) bằng 12,5m. Đây là độ phân giải thẳng đứng tốt nhất mà ta có thể phục hồi lại từ tài liệu địa chấn. Địa chấn 3D tiến hành ở Canadon de la Escondi- da trên diện tích 194km2, kết quả được trình bày trên Hình 2 dưới dạng lát cắt không gian - thời gian trên đó có thể phân biệt dễ dàng các ranh giới phân chia theo phương thẳng đứng của 3 lớp A (cát nén ép yếu, độ rỗng lớn), B (cát rắn chắc), C (phiến sét, tuffs) trong khu vực khai thác. Phiến sét (shale) chứa nhiều vật chất hữu cơ nên là loại đá sinh hydrocarbon tiềm năng, một phần rất lớn dầu khí đã sinh ra nhưng không di cư nên cũng là một loại đá chứa, tốc độ truyền sóng P trong phiến sét đạt khoảng 7.000 - 17.000ft/sec. Việc xử lý và dịch chuyển thời gian sau cộng sóng đã bảo tồn được các biên độ thật của sóng cũng như cực tiểu hóa nhiễu giả tín hiệu không gian (spatial alias), một dạng nhiễu quy luật gắn liền với thu nổ địa chấn thực địa. 2.2. Dữ liệu cơ lý đá Các biểu đồ đối sánh (crossplot) của trở kháng âm học của sóng dọc P (acoustic impedance AI = V×ρ với V là vận tốc truyền sóng và mật độ đá (ρ)) và dữ liệu mật độ đúc rút từ các kết quả đo trực tiếp trong giếng khoan thể hiện một số quy luật nén ép thú vị. Hình 3 cho thấy rõ 3 phân lớp theo chiều thẳng đứng. Lớp đầu ứng với nhánh parabol phía phải, tăng đơn điệu ứng với số liệu đo trong lòng giếng dọc theo lớp A Hình 2. Lát cắt thời gian với các tầng được minh giải mô tả các giới hạn thẳng đứng của các lớp A, B, C. Logs tỷ phần cát được đặt tại vị trí 4 giếng khoan. Hình 1. Bản đồ cơ sở vùng Canadon dela Escondida - vị trí các giếng (chấm vàng); dữ liệu địa chấn/thời gian sóng đến máy thu sớm (màu đỏ) và thời gian sóng đến máy thu muộn (màu tím) mô tả phân bố không gian tầng cát. Th ời g ia n tr uy ền s ón g (m s) 61DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 PETROVIETNAM trong Hình 2. Tiếp theo, nhánh parabol (nằm giữa hình) giảm nhẹ đơn điệu ứng với số liệu đo trong lòng giếng dọc theo lớp B. Cuối cùng, nhánh parabol phía trên giảm nhẹ đơn điệu ứng với số liệu đo trong lòng giếng dọc theo lớp C. Lớp A có mật độ tăng dần thể hiện trên nhánh A là hệ quả nén ép dưới tác dụng của áp suất thủy tĩnh đối với các hạt sét lẫn trong cát. Lớp B và C thể hiện trên nhánh B, C cho thấy biểu hiện dị thường về địa chất và địa vật lý của thành phần đá so với nhánh/lớp A (Hình 3 - 7). Các nghiên cứu mẫu lõi khoan dẫn đến kết luận tính dị thường trên nhánh B, C là do đá vụn núi lửa (pyroclas- tics) phân lớp mỏng chịu chế độ nén cơ học chi phối chủ yếu lên thành phần sét trong hỗn hợp vụn núi lửa gây ra. Sự khác nhau rõ ràng giữa nhánh B và C là do độ tập trung của vụn núi lửa trong lớp C cao hơn so với trong lớp B (Hình 4). Kết quả của trạng thái này là tuy cùng chịu chế độ nén ép như nhau nhưng lớp C bị nứt vỡ mạnh hơn, làm thay đổi mối quan hệ giữa độ thấm và độ rỗng đối với lực nén. Các lớp phân dị (giữa các mặt minh giải) trên lát cắt thời gian truyền sóng phản xạ ở Hình 2 được giải thích chúng thể hiện giới hạn phân chia nhịp địa chất theo phương thẳng đứng của 3 lớp A, B, C. Mở rộng Hình 3 riêng cho phân lớp C, được biểu đồ đối sánh (AI so sánh với mật độ đá) như trên Hình 4, cho thấy nếu chỉ dựa trên độ phân giải của log thì khó phân biệt các loại thạch học khi chỉ sử dụng duy nhất số liệu trở kháng AI. Cùng một giá trị AI có thể gắn với sét, cát rắn chắc hoặc cát bở rời (có độ rỗng tốt). Tuy nhiên, biểu đồ AI cũng cho thấy sự phù hợp với số liệu mật độ đá đo trong lòng giếng vì nó cũng cho khả năng phân dị rõ ràng dọc theo 3 lớp thạch học (vỉa có mật độ thấp nhất là vỉa có độ rỗng lớn nhất) nhưng nghịch đảo địa chấn sau cộng sóng (chuyển từ bản ghi địa chấn sau cộng sang số liệu trở kháng âm học) khó giúp phân biệt rõ ràng đặc điểm thạch học của từng vỉa nhỏ của từng lớp địa chất. Muốn phân chia thạch học lớp mỏng khi chỉ dùng dữ liệu địa chấn bắt buộc phải kết hợp với số liệu đo một tham số phụ khác liên quan đến trở kháng AI. 2.3. Tính đơn nhất thạch học và độ phân giải thẳng đứng Để hiểu được khả năng phân tách các loại thạch học bằng tài liệu địa chấn, nghiên cứu [1] đã sử dụng phép lọc tần số low-pass (lọc lấy tần số thấp) đối với các đường log AI và mật độ đá để chỉ giữ lại các thành phần tần số dưới 85Hz. Hình 5 trình bày biểu đồ đối sánh giữa AI và mật độ đá (sau khi lọc giữ tần số thấp), cho thấy dù dữ liệu log chỉ còn tần số thấp, các tập điểm trên biểu đồ đối sánh tương ứng với 3 lớp nén ép (A, B, C) gần như vẫn còn giữ hình Hình 3. Biểu đồ mô tả mối liên hệ giữa AI và mật độ đá thể hiện khuynh hướng nén ép khác nhau trong 3 lớp A, B, C Hình 4. Biểu đồ mô tả liên hệ giữa AI và mật độ đá trong lớp C Hình 5. Biểu đồ mô tả mối liên hệ giữa AI và mật độ đá cùng một băng tần số của dữ liệu địa chấn. Giá trị mật độ đá thay đổi từ lớp A xuống lớp B, C dao động từ 2,39g/cm3 đến > 2,5g/cm3. M ật đ ộ (g /c m 3 ) Compartment B Compartment C Compartment A AI (g/cm3 × ft/s) A B C M ật đ ộ (g /c m 3 ) Cát rắn chắc Phiến sét/tuffs Cát thường AI (g/cm3 × ft/s) M ật đ ộ (g /c m 3 ) Compartment B Compartment C Compartment A AI (g/cm3 × ft/s) A B C 62 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ dạng như trước. Điều đặc biệt là các điểm mẫu (của log giếng khoan) tại các tập (packet) cát (điểm màu xanh lá cây) xuất hiện rõ ràng hơn ứng với các giá trị AI cao nhất trong mỗi lớp nén ép. Mặc dù độ phân giải thẳng đứng (vertical resolution) thấp của dữ liệu địa chấn so với dữ liệu giếng khoan ngăn cản việc xác định vỉa cát đơn lẻ tồn tại trong một không gian rộng nhưng vẫn có thể cho phép phân tách được các tập cát (hoặc hỗn hợp sét - cát trong đó thành phần cát chiếm ưu thế) từ các nhịp (sequences) sét hoặc tuff. Như vậy, vấn đề không phân tách được thạch học (không đơn nhất thạch học) dựa trên AI tại độ phân giải log có thể có đáp án có tính đơn nhất khi sử dụng dữ liệu AI từ địa chấn (mặc dù độ phân giải thẳng đứng trên tài liệu địa chấn bị giảm). 2.4. Phương pháp nghịch đảo mạch ghi sóng địa chấn 3D Phương pháp nghịch đảo mạch ghi sóng địa chấn 3D được tiến hành với thuật toán sparse-spike (thuật toán xung nhọn thưa thớt), giúp phục hồi các sự kiện địa chấn lên đến 70Hz với độ phân giải cao (không kèm theo nhiễu). Để ước lượng sóng nguồn (wavelet), các tác giả sử dụng số liệu check-shot và số liệu VSP (tuyến địa chấn thẳng đứng) từ 17 giếng kiểm soát. Logs mật độ và logs âm học được chỉnh sửa và xử lý (cân bằng) nhằm cực tiểu hóa một cách nhất quán các hiệu ứng của các điểm gồ ghề/mấp mô trong lòng giếng để thể hiện rõ các tính chất vỉa chứa nằm sâu. Các điều kiện ràng buộc (bound constraints) hạn chế không gian các nghiệm nghịch đảo (địa chấn) nhằm bảo đảm tính ổn định của nghiệm ở một mức độ tin tưởng được khi số liệu xử lý có mặt các nhiễu. Hình 6 cho thấy các biên trên và dưới được chọn theo các dữ liệu giếng kiểm tra để thể hiện đúng nhất khuynh hướng nén ép (đường đen đậm ở giữa biểu đồ) và theo dạng biến thiên của đường ghi số liệu AI trong lòng giếng (đường ngoằn ngoèo màu tím giữa 2 biên được chọn). Thông tin tần số thấp không có sẵn trong số liệu địa chấn nhưng rất cần thiết để cung cấp khuynh hướng nén ép (0 - 6Hz trong trường hợp đang xét) được mô phỏng dưới dạng số thông qua nội suy số liệu AI lòng giếng theo phương nằm ngang có trọng số, lấy từ các giếng kiểm soát trong khu vực nghiên cứu. Thông tin này (band 6Hz) được dùng để xây dựng đường ghi trở kháng âm học tổng hợp bằng cách chập band 6Hz vào với đường ghi trở kháng âm học rút ra từ số liệu địa chấn. Hình 7 thể hiện lát cắt AI tổng (cộng kết quả mô phỏng AI tần số thấp/simulated low-frequency AI/với AI đảo Hình 6. Cách chọn biên trên và biên dưới trong quá trình đảo ngược số liệu địa chấn thành trở kháng AI Hình 7. Lát cắt AI nghịch đảo dọc lát cắt ở Hình 2. Thang màu thể hiện giá trị AI từ phần đáy đến đỉnh các lớp đá trong miền tần số thấp. Hình 8. Cận cảnh bức tranh trở kháng âm học nghịch đảo dọc theo lát cắt ở Hình 2. Giá trị cao của logs ứng với đoạn chứa cát trùng với giá trị AI cao (Xem thêm thang màu ở Hình 7). Th ời g ia n (g iâ y) 1.0 1.4 1.5 1.6 1.7 1.8 1.9 2 AI (g/cm3 × ft/s) 15000 20000 25000 30000 35000 40000 63DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 PETROVIETNAM ngược tần số cao/inverted high-frequency AI/) dọc theo cùng một tuyến với lát cắt ở Hình 2. Việc kiểm soát chất lượng chặt chẽ, rộng rãi không chỉ tiến hành qua so sánh sự phù hợp giữa trở kháng âm học đo trong lòng giếng với trở kháng âm học rút ra từ số liệu địa chấn mà còn cả trong việc xây dựng băng địa chấn tổng hợp cũng như chọn sóng nguồn (wavelet) trung bình cho toàn diện tích nghiên cứu của đề án. Nhìn chung, số liệu thu được qua các bước xử lý trên đạt chất lượng rất tốt. Trong phạm vi tần số thấp, các lớp cát do logs chỉ ra được thể hiện qua dị thường AI cao hơn và các tập sét trùng với giá trị dị thường AI thấp hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả ở Hình 5 và 8. 2.5. Nghịch đảo địa thống kê (geostatistical inversion) Công trình nghiên cứu xác định đặc trưng tầng chứa Canadon de la Escondida có đặc điểm đặc biệt, đó là số lượng lớn tài liệu giếng khoan và các giới hạn địa chất nhất định được bổ sung cho tài liệu địa chấn. Về nguyên tắc, do tần số lấy mẫu không gian của dữ liệu giếng khoan tương đối cao, có khả năng giúp gia tăng khả năng phân giải thẳng đứng cho các tập cát phát hiện được trên dữ liệu địa chấn. Mục tiêu của nghiên cứu, do đó, sẽ là khả năng phân tách các đơn vị cát độc lập hơn là các tập cát có chứa sét. Công trình trước đây của Haas và Dubrule đã thành công trong việc sử dụng đồng thời số liệu địa chấn tích hợp với số liệu khoan trong phương pháp ước lượng địa thống kê (geostatistical estimates) của các tham số vỉa chứa trong không gian giữa các giếng khoan. Kỹ thuật được sử dụng trong phương pháp này dựa trên mô phỏng quá trình xác suất bước ngẫu nhiên (random-walk sto- chastic simulation) cho trường trở kháng âm học với cổng chấp nhận hoặc loại trừ kết quả dựa trên sự phù hợp hay không phù hợp với dữ liệu địa chấn hiện có. Sử dụng kỹ thuật này, phương pháp trên đã giới hạn được không gian nghiệm nghịch đảo trong khoảng khá hẹp và ít phụ thuộc vào các dạng biểu đồ biến thiên (variogram) hơn so với phương pháp nghịch đảo địa thống kê chuẩn. Các nghiên cứu về bể trầm tích San Jorge đã sử dụng kỹ thuật ước lượng tương tự trong đó ngoài việc nghịch đảo các giá trị của AI, một bước đồng mô phỏng quá trình xác suất (stochastic cosimulation) sinh ra các mẫu mô phỏng thực độc lập (independent realization) cho thạch học và giá trị mật độ của loại thạch học đó. Các mẫu mô phỏng thực ngẫu nhiên (random realizations) này cần thỏa mãn các hàm mật độ xác suất (probability density function - PDFs) và được hiệu chỉnh từ biểu đồ thống kê Hình 9. Biểu đồ thống kê mẫu (histogram) của trở kháng âm học AI đo trong lòng giếng. Sự phù hợp rất tốt với biểu đồ phân bố Gauss (đường màu xanh) được trình bày để làm chuẩn. Cách thể hiện lưỡng thức trong histogram được chọn là do ảnh hưởng của 2 loại đá chính trong vùng nghiên cứu. Hình 10. Ví dụ về biểu đồ biến thiên theo chiều ngang và chiều thẳng đứng ước định từ các giá trị AI. Đường màu xanh, đỏ sậm và đỏ được dùng để xác định hướng các thăng giáng và các mẫu trên cùng chiều, chiều cắt ngang hoặc thẳng đứng. Bảng số phía dưới chỉ số hiệu của các mẫu trong số liệu ước định cách nhau 1m. Hình 11. Lát cắt ngang của mật độ đá tầng chứa cạnh giếng kiểm tra. Giá trị AI lấy từ kết quả nghịch đảo ghi địa chấn. Đường đen đậm là mặt phản xạ trong lát cắt. Thang màu thứ hai (bên trái) mô tả bậc của AI với giá trị thấp và cao tương ứng đáy và đỉnh của mỗi lớp. 64 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ mẫu (sample histogram) của số liệu giếng khoan. Cả 2 loại mẫu mô phỏng thực (realizations) này được hiệu chỉnh thỏa mãn độ dài tương quan địa phương (lo- cal correlation length) được xác định bởi các variograms Hình 12. Cận cảnh mật độ đá tầng chứa lấy cạnh giếng kiểm tra. Đường AI (xanh) và logs mật độ (đỏ) ở giữa hình. Đơn vị ở thang bên trái (AI) là g/cm3 × ft/s; đơn vị ở thang thứ 2 (mật độ) là g/cm3. Hình 13. Hình ảnh 3D của các khối cát riêng lẻ (màu xanh) cạnh giếng kiểm tra dựa trên dữ liệu nghịch đảo địa thống kê. Hình 14. Hình ảnh mặt nằm ngang diễn tả bề dày tổng của lớp cát giữa tầng B và C. Vị trí giếng khoan đề xuất (ô trắng) từ kết quả nghiên cứu của đề án. Các lớp cát dày phân bố hẹp (màu đỏ) và các lớp cát mỏng, phân bố rộng (màu tím). tương ứng. Trên chiều thẳng đứng, các variograms được ước định từ các phép đo trong lòng giếng và theo chiều nằm ngang, các variograms được ước lượng từ các giá trị AI được nghịch đảo từ mạch ghi địa chấn (Hình 10). Các mẫu mô phỏng thực địa - thống kê (geostatistical realizations) được giới hạn tiếp sao cho giá trị trùng khớp với số liệu đo tại giếng khoan. Sinh ra ngẫu nhiên độc lập trong quá trình mô phỏng, mỗi cặp mẫu mật độ - thạch học sau đó được áp vào mô hình vật lý đá giả định (assumed petrophysical relationship) và cho ra chỉ với một giá trị AI độc nhất. Mô hình vật lý đá này được giả định mang tính đại diện cho các biểu hiện trong vỉa chứa tại dải tần số đo được. Tiếp theo, các giá trị AI được dùng để tạo băng địa chấn tổng hợp (mô phỏng), sau cộng (poststack), bằng cách tích chập chúng với cùng sóng nguồn được sử dụng trước đây trong phép nghịch đảo AI từ mạch ghi địa chấn. Nếu băng địa chấn tổng hợp quá khác so với số liệu địa chấn thực thì cặp mẫu mật độ - thạch học từ mô phỏng ngẫu nhiên này bị loại bỏ và một cặp mẫu ngẫu nhiên mới được sinh ra từ hàm mật độ xác suất (PDF) tương ứng. Thủ tục này được tự động lặp lại cho đến khi tiêu chuẩn trùng hợp/tương thích (matching) được thỏa mãn tốt nhất trên toàn bộ cube địa chấn. Kết thúc quá trình này sẽ thu được 3 cubs thuộc tính: AI, mật độ đá và thạch học (loại đá trong lát cắt địa chấn/địa chất), cả 3 tính chất này đều liên quan với nhau thông qua các quan hệ vật lý đá (petrophysical) được lấy làm cơ sở. Việc tìm kiếm các hàm phân bố phù hợp với đặc điểm thạch học và mật độ đá có thể cần khối lượng tính toán lớn trên máy tính bởi vì cần có hàng chục realizations để mô tả chính xác các bộ tập hợp nghiệm thu được (thông thường kết quả của phép nghịch đảo dữ liệu là không đơn nhất). Các chuyên gia nghiên cứu công nghệ xử lý số liệu Argentina đã triển khai kỹ thuật mô phỏng “làm mềm” (simulated annealing technique) để lấy mẫu các hàm phân bố xác suất PDFs. Một số thuật toán hiệu quả được sử dụng trong quá trình tìm kiếm như Metropolis hoặc lấy mẫu ad hoc (nhằm mục đích trước mắt) Monte Carlo hay có thể sử dụng máy tính song song. Để đơn giản chỉ chọn 3 loại đá (phiến sét/tuff; cát rắn chắc; cát xốp). Các hàm phân bố xác suất PDF cho thạch học được lấy mẫu từ nhiều dữ liệu đo logs, tương ứng với xác suất 80%, 15% và 5% gán lần lượt cho 3 loại đá trên. Mối quan hệ vật lý đá (petrophysical) được áp lên dữ liệu dựa theo bảng tương tự như ở Hình 4, mỗi bảng cho một compartment thẳng đứng. Phương pháp nghịch đảo được tiến hành trên miền thời gian, số liệu giếng khoan được lấy mẫu lại cách nhau 0,5ms để cho phép cải thiện độ phân giải theo phương 65DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 PETROVIETNAM thẳng đứng. Bằng cách này độ phân giải thẳng đứng có thể tăng gấp 4 lần so với độ phân giải của riêng số liệu địa chấn. Các bảng vật lý đá được thay đổi để biểu diễn chính xác độ phân giải thẳng đứng mong muốn. Hình 9 là một biểu đồ thống kê mẫu ước lượng từ dữ liệu giếng khoan. Hình 10 trình bày các variograms dựng từ các mẫu AI. Hình 11 trình bày lát cắt mật độ (density) ước lượng tại vùng gần kề giếng kiểm tra. Hình ảnh phân bố của mật độ được sinh ra từ việc trung bình hóa của 30 mẫu mô phỏng thực (realizations) ngẫu nhiên, mỗi mẫu mô phỏng thực đều thỏa mãn đồng thời số liệu giếng khoan cũng như số liệu địa chấn. Để tiện so sánh, phân bố AI ước lượng từ nghịch đảo mạch ghi địa chấn được trình bày trên Hình 11. Sự khác biệt về độ phân giải thẳng đứng giữa 2 kết quả rất tốt. Đặc biệt, tập cát pha sét ước lượng trên lớp (compartment) A với số liệu nghịch đảo mạch ghi địa chấn bây giờ có thể thấy rõ ràng (trên lát cắt mật độ) dưới dạng các lớp cát mỏng có cùng khuynh hướng theo phương ngang. Trong vùng lân cận giếng, mật độ đá ước lượng có độ phân giải thẳng đứng cao hơn so với phân bố AI tính toán theo kết quả nghịch đảo mạch ghi địa chấn. Ra xa giếng khoan, độ phân giải của mật độ đá suy giảm về tiệm cận với độ phân giải thẳng đứng của phân bố AI thu được từ nghịch đảo số liệu địa chấn thông thường. Để có 30 mẫu mô phỏng thực đòi hỏi phải sử dụng 45 giờ làm việc của CPU trên máy tính công suất lớn SGI Octane (195MHz). Hình 12 biểu diễn mặt cắt tổng hợp mô tả phân bố ước lượng mật độ đá cùng với số liệu địa chấn đầu vào/gốc (các đường lượn sóng màu đen (wiggle) và sai số địa chấn tồn dư (resid- uals) tương ứng sau xử lý (biểu diễn bằng đường lượn sóng màu lam). Trong diện tích quan tâm, wiggle tồn dư không xiên lệch (unbiased) và nhỏ hơn các wiggle địa chấn. Phân bố mật độ đá đạt được sau xử lý sau khi đã áp chỉ tiêu so sánh (bằng việc giới hạn sai số) bình phương tối thiểu nhỏ hơn 1% giữa số liệu đầu vào và số liệu địa chấn mô phỏng. Kết quả (Hình 11, 12) đã được tác giả chọn lọc, đánh giá ảnh hưởng của số liệu trên các variograms, histograms và các bảng vật lý đá đối với các kết quả cuối cùng. Mặc dù đây là các thông số điều hòa quan trọng, nhưng sự phù hợp với dữ liệu địa chấn làm cho kết quả cuối cùng của các giá trị ước định ít nhạy cảm hơn đối với các thay đổi nhỏ trong histograms và variograms so với giá trị ước lượng bằng phương pháp địa thống kê tiêu chuẩn. Sự khác nhau giữa phương pháp nghịch đảo AI địa thống kê và phương pháp nghịch đảo dựa trên số liệu mạch ghi địa chấn là phương pháp nghịch đảo AI địa thống kê không cần đến mô phỏng số (numerically simu- late) các thông tin tần số thấp. Thành phần tần số thấp của số liệu AI được trộn lẫn tự nhiên vào trong nghịch đảo địa thống kê khi (a) đảm bảo dữ liệu nghịch đảo tại vị trí giếng trùng dữ liệu giếng khoan và (b) thể hiện độ dài tương quan theo phương ngang bao hàm trong việc lấy mẫu các variogram. 2.6. Áp dụng trong công tác khoan giếng Hai phương thức nghịch đảo địa thống kê và dựa theo đường ghi địa chấn đã giúp cải thiện việc phát triển các mỏ dầu khí trong bể trầm tích San Jorge. Hiện nay, việc áp dụng bộ lọc một ngưỡng đơn giản đối với số liệu AI và/hoặc với mật độ đá dẫn đến kết quả thu được các hình ảnh 3 chiều của các thân cát (Hình 13). Điều này có thể giúp xác định các khả năng đan dày hoặc định hướng khoan phát triển, đặc biệt trong việc liên kết với play cấu tạo. Tuy nhiên, chú ý tới tính chất bất liên tục theo phương nằm ngang của các thực thể cát nằm xa nhau ở bể trầm tích này thì thông thường chiến lược khoan thẳng đứng áp dụng ở những nơi cát dày nhất và các lớp cát có dạng cồn hoặc tại các bẫy thạch học - địa tầng là thuận lợi nhất. Đối với các thực thể cát rắn chắc có chứa sản phẩm và sét vừa là đá mẹ vừa là đá chứa thì dùng công nghệ áp dụng trong mỏ phi truyền thống để tạo hệ thống lỗ hổng nguyên sinh và vi kẽ nứt liên thông sẽ mang lại kết quả mong muốn. Hình 14 thể hiện cảnh quan theo mặt nằm ngang bề dày tổng các lớp cát mỏng, xen kẽ nằm trong tầng/lớp B và C thể hiện trong Hình 13. Các bản đồ tương tự trình bày vị trí các giếng khoan phát triển mới (các mũi tên chỉ trong Hình 14) được xây dựng. Tổng sản lượng cộng dồn của các giếng này lớn gấp 3 lần giá trị trung bình của khu vực Canadon de la Escondida. Đến nay, các giếng đề xuất theo phương thức trên đều xác minh sự hiện diện của các thực thể chứa đã dự báo qua công trình nghiên cứu này. Các chuyên gia tầng chứa có thể tập trung sự chú ý vào các biến số khác như di cư dầu khí, độ trưởng thành của sản phẩm... để kiểm soát sản lượng khai thác tối ưu. 3. Kết luận Argentina đã thành công ở bể trầm tích San Jorges sau thất bại kéo dài trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Đối với môi trường trầm tích delta phân lớp mỏng, tướng đá thay đổi nhanh, đối tượng tìm kiếm chính là các bẫy chứa thạch học - địa tầng, tạo ra một môi trường vật lý bất đồng nhất, bất đẳng hướng phức tạp thì cần phải có các phần mềm xử lý số liệu địa chấn kết hợp với số liệu địa vật 66 DẦU KHÍ - SỐ 9/2019 GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ lý giếng khoan (logs) phù hợp. Lấy số liệu mẫu lõi khoan làm tiêu chuẩn kiểm tra đối chứng kết quả xử lý - minh giải địa chất tài liệu địa chấn thì mới có được hình ảnh chính xác chứ không phải chỉ dựa vào các phần mềm standard do các công ty dịch vụ địa vật lý cung cấp. Với tham số trở kháng âm học AI, kết quả xử lý cuối cùng đã giúp nhận diện đúng bản chất thạch học cùng các tính chất vật lý đá trong từng lát cắt địa chất trong không gian 3D, không phải chỉ dừng lại ở cấu trúc hình học của các thực thể địa chất trong môi trường nghiên cứu (Hình 11, 13, 14). Đối với Việt Nam, công tác thăm dò khai thác dầu khí trong nước đang đối diện với các thách thức: Địa bàn ngày càng bị thu hẹp, gia tăng trữ lượng đạt mức thấp, yếu tố an ninh chi phối ngày càng lớn. Cho nên nhiệm vụ trọng tâm đặt ra hiện nay là tìm ra các mỏ mới, các đối tượng mới phục vụ kế hoạch trung hạn/dài hạn, đồng thời đánh giá lại các khu vực có tiềm năng dầu khí. Theo “Địa chất và Tài nguyên Dầu khí Việt Nam”, hơn 70% số giếng khoan tìm kiếm thăm dò tại bể Sông Hồng đều gặp biểu hiện khí nhưng chỉ đưa vào khai thác được mỏ Tiền Hải (trữ lượng rất nhỏ). Vì vậy, đối với các bể trầm tích châu thổ ví dụ như Sông Hồng cần mở rộng các khái niệm kinh điển trong lý thuyết lẫn công nghệ địa chất dầu khí truyền thống, sang phi truyền thống, nghiên cứu lại theo kinh nghiệm của Argentina. Tài liệu tham khảo 1. Carlos Torres-Verdin, Marcos Victoria, German Merlette, John Pendrel. Trace-based and geostatistical inversion of 3-D seismic data for thin-sand delineation: An application in San Jorge Basin, Argentina. The Leading Edge. 1999; 18(9): p. 1070 - 1077. 2. Trần Ngọc Toản. Thị trường Dầu khí. Tạp chí Dầu khí. 2019; 7: trang 75 - 78. 3. A.Haas, O.Dubrule. Geostatistical inversion - a sequential method of stochastic reservoir modelling contrained by seismic data. First Break. 1994; 12(11): p. 561 - 569. 4. John V.Pendrel, Paul Van Riel. Estimating porosity from 3D seismic inversion and 3D geostatistics. 1997 SEG Annual Meeting, Dallas, Texas. 2 - 7 November, 1997. Trần Ngọc Toản Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ cao Đại học Duy Tân, Đà Nẵng
File đính kèm:
- su_dung_cong_nghe_nghich_dao_dia_thong_ke_ket_hop_voi_du_lie.pdf