Quan niệm về Việt Nam học

Việt Nam học hiện đang được giới nghiên cứu trong nước và nước

ngoài quan tâm sâu sắc. Tuy vậy, đây lại là lĩnh vực đang gây nhiều tranh cãi.

Các học giả người nước ngoài nghiên cứu Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau.

Còn người Việt Nam nghiên cứu Việt Nam vì đó là “quốc học”. Nghiên cứu

Việt Nam phụ thuộc vào nhãn quan và tâm thế của người nghiên cứu. Do đó

luôn tồn tại những cách thức tiếp cận khác nhau. Một hình ảnh chân thật về

Việt Nam không bao giờ có được nếu chỉ nhìn từ một giác độ.

pdf 11 trang kimcuc 10000
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm về Việt Nam học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm về Việt Nam học

Quan niệm về Việt Nam học
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 92 
QUAN NIỆM VỀ VIỆT NAM HỌC 
NGUYỄN PHONG NAM * 
Tóm tắt: Việt Nam học hiện đang được giới nghiên cứu trong nước và nước 
ngoài quan tâm sâu sắc. Tuy vậy, đây lại là lĩnh vực đang gây nhiều tranh cãi. 
Các học giả người nước ngoài nghiên cứu Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau. 
Còn người Việt Nam nghiên cứu Việt Nam vì đó là “quốc học”. Nghiên cứu 
Việt Nam phụ thuộc vào nhãn quan và tâm thế của người nghiên cứu. Do đó 
luôn tồn tại những cách thức tiếp cận khác nhau. Một hình ảnh chân thật về 
Việt Nam không bao giờ có được nếu chỉ nhìn từ một giác độ. 
Từ khóa: Việt Nam học, quốc học, nghiên cứu, quan niệm, đặc điểm. 
1. Kể từ khi nước ta bước vào quá 
trình hội nhập quốc tế đến nay, Việt 
Nam học (Vietnamese studies) là lĩnh 
vực được giới nghiên cứu trong nước và 
nước ngoài quan tâm sâu sắc. Điều này 
thể hiện rất rõ qua các hoạt động nghiên 
cứu cũng như số lượng công trình khoa 
học được công bố. Tuy vậy, xung quanh 
lĩnh vực này lại đang có sự khác biệt rất 
lớn trong quan niệm của các nhà nghiên 
cứu. Tựu trung, nổi lên hai vấn đề: Việt 
Nam học là gì (?) và, ở nước ta, Việt 
Nam học đang diễn tiến ra sao? 
Việt Nam học là gì? Đây là câu hỏi 
không dễ trả lời, mặc dù thoạt nhìn, có vẻ 
như mọi thứ đã rất hiển nhiên: Việt Nam 
học là nghiên cứu Việt Nam. Cái khó 
nằm ở việc xác định đối tượng của hoạt 
động nghiên cứu này. “Việt Nam” trong 
mối quan hệ với chủ thể (nhà khoa học) 
có thể hiểu là sự vật, hiện tượng (của 
Việt Nam), lại cũng có thể hiểu là các 
đặc điểm, tính chất (những giá trị thuộc 
về Việt Nam), thậm chí chỉ là phương 
pháp nhận thức (đối với Việt Nam)... 
Điều này rất dễ dẫn đến một tình thế khá 
hài hước: Việt Nam học là “tất cả” - một 
ngành khoa học nghiên cứu về mọi thứ 
(miễn có gắn thêm định ngữ chỉ dân tộc); 
hoặc đơn giản, chỉ là cách nhận thức, 
hướng tiếp cận (một cái) “thế giới” được 
xác định về không gian.(*) 
Tuy nhiên, bất chấp những rắc rối và 
vướng mắc về thuật ngữ, trên thực tế, 
các công trình nghiên cứu Việt Nam cứ 
ngày mỗi nhiều; số người nghiên cứu ở 
các nước ngày càng đông thêm. Những 
nghiên cứu ấy đích thị là “Việt Nam 
học” chứ không thể gọi là cái gì khác 
được. Thế nên để trả lời câu hỏi “Việt 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Đà Nẵng. 
Quan niệm về Việt Nam học 
 93 
Nam học là gì?” thì không thể định 
nghĩa hoặc truy tầm từ nguyên, mà đành 
phải đi theo con đường khác; chẳng hạn, 
phác thảo diện mạo lịch sử, miêu tả sự 
vận hành của nó, chỉ ra cái mục đích 
(trực tiếp hoặc gián tiếp) cần hướng tới 
của hoạt động nghiên cứu này. 
Bàn về Việt Nam học, theo chúng tôi 
tốt nhất là nên bắt đầu từ hoạt động của 
giới nghiên cứu ở nước ngoài. Điều này 
không phải là trái khoáy vì họ tìm hiểu 
Việt Nam từ rất sớm. Cứ liệu thư tịch 
cho thấy, người Trung Quốc đã có chiến 
lược tiếp cận và thâu tóm xứ này cách 
hàng nghìn năm về trước. Kế đến là 
người phương Tây với những cơ quan 
nghiên cứu quy mô lớn, được đầu tư 
nhiều tiền của và có nhiều thành tựu 
ngay từ thế kỷ XVII trở đi; rồi người 
Nga, người Nhật Bản, người Mỹ, trong 
khoảng thời gian từ nửa cuối thế kỷ XX 
đến nay cũng đã nghiên cứu Việt Nam 
một cách rất chuyên nghiệp, rất hiện đại. 
Đối với những người nước ngoài, con 
đường nghiên cứu Việt Nam hầu như 
đều tiến triển theo một cơ chế khá giống 
nhau. Chúng tôi tạm gọi đấy là cơ chế 
thực nghiệp (colonial). Chính hoàn cảnh 
lịch sử đặc biệt của Việt Nam với những 
cuộc đụng đầu khốc liệt, kéo dài hàng 
chục, thậm chí hàng trăm năm là một 
trong những điều kiện chủ yếu để ngành 
Việt Nam học ở phía các “đối thủ” sớm 
hình thành và phát triển. Những cú “va 
đập” giữa các “trục” của thế giới mà 
Việt Nam là đại diện (với Trung Quốc, 
Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Nga...) đã làm nảy 
sinh nhu cầu này. Nói cách khác, Việt 
Nam học là hoạt động nhận thức được 
nảy sinh từ những hiệu ứng lịch sử 
chính trị cụ thể. Nếu không có những 
điều kiện đó, chưa chắc đã có một nền 
tảng Việt Nam học sâu rộng và sớm như 
thế ở các nước này. Từ khởi nguồn, Việt 
Nam học ở ngoại quốc chủ yếu được 
tiến hành vì những mục tiêu vụ lợi khác, 
ngoài khoa học. 
Có lẽ không cần phải chứng minh 
tính thực dụng, không mấy vô tư của 
Việt Nam học buổi sơ khai do người 
nước ngoài thực hiện. Sự thật hiển nhiên 
này cần được nhìn nhận với một thái độ 
sòng phẳng và điềm tĩnh. Trong điều 
kiện cụ thể của thế giới thời trung - cận 
đại, hầu như mọi sự giao tiếp từ bên 
ngoài đối với Việt Nam đều diễn tiến 
trên bối cảnh những mưu đồ chính trị. 
Các nhà khoa học ngoại quốc có thể ý 
thức về điều này ở những độ khác nhau, 
nhưng hầu như không mấy người bước 
chệch ra khỏi cái phông nền đó. Chẳng 
phải ngẫu nhiên mà các quốc gia dính 
líu nhiều đến Việt Nam lại có lực lượng 
chuyên gia hùng hậu, có những cơ sở 
nghiên cứu tiếng tăm và đạt nhiều thành 
tựu nhất; khoa học đã bị cuốn vào vòng 
xoáy của những mưu đồ chinh phục, 
thôn tính Việt Nam. Tất nhiên, không 
phải nhà khoa học nào cũng là những gã 
thực dân, trái lại, do bản chất của hoạt 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 94 
động nghiên cứu khoa học (vốn là khách 
quan, phi vụ lợi) khiến cho nhiều khi 
công việc của họ vượt ra ngoài ý muốn, 
thậm chí chống đối lại nhà cầm quyền 
(đấy là chưa nói đến xu thế thời đại làm 
cho mục tiêu Việt Nam học càng ngày 
càng khác đi). 
Với động cơ, mục đích như vừa kể thì 
tất cả mọi thứ thuộc về Việt Nam từ lịch 
sử, văn hóa, địa lý,... cho đến ngôn ngữ 
đều được các nhà Việt Nam học ngoại 
quốc quan tâm. Tuy vậy, có hai phương 
diện được chú ý nhiều nhất (và cũng có 
nhiều thành tựu nhất); đó là những 
nghiên cứu về các giá trị văn hóa - tư 
tưởng và những vấn đề thuộc về lịch sử - 
dân tộc. Điểm mấu chốt trong việc nhận 
thức Việt Nam vẫn là những gì thuộc về 
con người, xã hội. 
Xét về quá trình, người Trung Quốc 
đáng được xếp đầu bảng trong lĩnh vực 
Việt Nam học. Họ tiếp cận đất nước, 
con người Việt Nam sớm nhất, quan tâm 
đến nhiều lĩnh vực nhất và cũng am hiểu 
nhiều thứ nhất. Thành tựu (và cũng là tai 
họa cho Việt Nam) mà họ đã tạo nên 
trong quá khứ được thể hiện qua vô số 
những cứ liệu, thư tịch hiện đang lưu 
giữ ở các thư khố, thư viện. Có thể kể 
đến các trường hợp: Giao Châu ký (có lẽ 
sớm nhất, ngay từ đời Tấn của Lưu Hân 
Kỳ); Thủy kinh chú (của Lịch Đạo 
Nguyên, thời Bắc Ngụy); Phụng sứ An 
Nam thủy trình nhật ký (của Hoàng 
Phúc, đời Minh); An Nam chí nguyên 
(Cao Hùng Trưng, đời Nguyên); An 
Nam tạp ký (Lý Tiên Căn, đời Thanh)... 
Cái mạch nghiên cứu này còn kéo dài 
cho đến tận bây giờ, nhất là những vấn 
đề về lịch sử, địa lý, văn học. 
Cũng cần lưu ý một điều, trong lịch 
sử, người Trung Quốc tìm hiểu về Việt 
Nam chủ yếu qua quá trình thôn tính, 
tức là tiếp cận theo cung cách, vị thế của 
kẻ chiếm đoạt. Hơn nữa, với lợi thế 
“đồng chủng, đồng văn”, có vẻ như họ 
không muốn bỏ vào đây quá nhiều công 
sức để nghiên cứu theo đúng nghĩa hoạt 
động khoa học. Ngoại trừ cái cách thức 
thường thấy là nhặt nhạnh tất cả những 
gì có thể chở được để mang về nước 
(thời trung đại) thì điều nổi trội nhất 
trong hoạt động này lại là tư tưởng Hán 
hóa. Bước sang thời hiện đại, phương 
thức tiếp cận nhìn chung có thay đổi, 
nhưng tư duy của một số người vẫn 
trượt theo lối trùm lấp này, khiến họ đưa 
ra những luận điểm sai lệch, ít giá trị. 
Vẫn có những tác giả dường như chỉ 
quan tâm đến mục tiêu chứng minh Việt 
Nam là một bản sao của Trung Quốc. 
Hiện tượng này diễn ra ở nhiều lĩnh vực 
mà rõ nhất là những vấn đề liên quan 
đến lịch sử, văn học(1). 
(1) Có thể xem trường hợp Đổng Văn Thành với 
bài báo “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung 
Quốc và Việt Nam”, Tạp chí Minh Thanh tiểu 
thuyết luận tùng, số 4 (6/1986) và số 5 (9/1987) 
là một ví dụ điển hình. 
Quan niệm về Việt Nam học 
 95 
So với người Trung Quốc, người 
phương Tây (chủ yếu là Pháp) đến Việt 
Nam muộn hơn. Tuy nhiên, họ lại tiến 
hành nghiên cứu một cách chuyên 
nghiệp và có nhiều thành tựu hơn hẳn so 
với hàng nghìn năm tiếp cận của người 
Trung Quốc. Chẳng hạn, về tổ chức có: 
Viện Viễn Đông bác cổ (được thành lập 
từ 1898, do những nhà nghiên cứu giàu 
kinh nghiệm kế tục nhau điều hành), 
Hội Những người bạn cố đô Huế (ra đời 
năm 1913, chuyên nghiên cứu về văn 
hóa Huế, với bộ sách BAVH nổi 
tiếng)...; về học giả có thể kể đến các 
nhân vật như: Alexan de Rhodes, Leopold 
Cardiere, George Condominas, Jacques 
Dournes với các công trình nghiên cứu 
về chữ quốc ngữ, dân tộc học, văn hóa 
Tây Nguyên... 
Thực ra, trong cái nhìn của người 
phương Tây, Việt Nam là một bộ phận 
thuộc “viễn đông” - một khái niệm 
mang nhiều ý nghĩa không gian (địa lý); 
nó không thật sự tách bạch với những 
Lào, Campuchia (Đông Dương), các 
nước thuộc tiểu vùng Mêkông. Cách 
tiếp cận của các học giả này có nhiều 
điểm khác so với người Trung Quốc. 
Với họ, mặc dù cũng nhằm mục đích 
thực dụng, thực dân, nhưng Việt Nam 
trong mắt người phương Tây là một hiện 
tượng hoàn toàn mới lạ, thậm chí là “kỳ 
cục”. Vì thế cách thức, quan điểm tiếp 
cận trước hết và chủ yếu là nhằm giải 
mã ẩn số Việt Nam. Trong cái mạch 
nghiên cứu của người phương Tây vừa 
có mục đích chiếm đoạt vừa có mục 
đích thỏa mãn tâm lý tiếp xúc “xứ lạ”. 
Người Mỹ đến Việt Nam muộn nhất 
và những hoạt động nghiên cứu của họ 
phát triển rất mạnh kể từ trong và sau 
cuộc chiến 1954 -1975. Cách tiếp cận 
của người Mỹ thoạt nhìn có nhiều điểm 
khác với thực dân Pháp nhưng thực ra 
bản chất thì cũng như vậy. Người Pháp 
đến Việt Nam với chiêu bài khai hóa 
thuộc địa, truyền bá văn minh cho 
những người bản xứ; họ cần hiểu rõ tình 
hình để cải biến con người, xã hội ở xứ 
sở bán khai này. Còn người Mỹ, với tính 
cách trịch thượng của kẻ mang ảo tưởng 
tạo lập thế giới “tự do” theo mô hình đã 
được lập trình, lại tiếp cận Việt Nam 
theo lối áp đặt. Đây là một sai lầm 
nghiêm trọng và đương nhiên phải trả 
giá đắt. Kết thúc cuộc chiến 1954 - 1975 
đã khiến cho người Mỹ bị sốc và nó 
khiến giới nghiên cứu cũng phải thay 
đổi cách tiếp cận. Cũng vì thế mà câu 
hỏi “Why Vietnam?” trở thành vấn đề 
bao trùm của hoạt động nghiên cứu thời 
hậu chiến(2). Cái quan trọng nhất đối với 
giới Việt Nam học ở Mỹ là cách lý giải, 
(2) “Why Vietnam: Prelude to America's 
Albatross” - tiêu đề cuốn hồi ký của tác giả 
người Mỹ, Aachimdes L. A. Patti, xuất bản 
vào năm 1980, đã được Lê Trọng Nghĩa dịch, 
Nxb Đà Nẵng ấn hành. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 96 
nhận thức về một bài học lịch sử. Như 
vậy, cả người Pháp và người Mỹ trong 
quá trình tiếp cận Việt Nam, dù biểu 
hiện có thể khác nhau song mục đích cốt 
lõi thì cũng chỉ là một. 
Tất nhiên như đã nói, không phải mọi 
nghiên cứu về Việt Nam của người nước 
ngoài đều để phục vụ mục tiêu xâm 
lược; cũng không phải mọi học giả đều 
thuộc về các guồng máy cướp bóc. 
Nhiều trí thức chân chính ở các quốc gia 
(thậm chí ngay cả ở những nước vốn là 
cừu địch như Trung Quốc, Pháp, Mỹ...) 
đã nghiên cứu Việt Nam vì mục đích 
khoa học thực sự. Đến với Việt Nam, họ 
mong muốn khám phá một phần của 
nhân loại, của thế giới. Việt Nam là một 
bộ phận của thế giới; có một nền văn 
hóa dung hợp nhiều loại giá trị; đó là 
một đất nước trải qua rất nhiều hình 
thái, thể chế, chế độ xã hội, với nhiều kỳ 
tích không thể hình dung được... Đất 
nước, dân tộc đó rõ ràng có sức cuốn hút 
mạnh mẽ đối với bất cứ ai. Họ đã có 
những khám phá thú vị, những đóng góp 
quan trọng cho khoa học. 
Có một thực tế là, các học giả ngoại 
quốc (nhất là người phương Tây) khi 
tiếp cận Việt Nam thường thực hiện rất 
tốt khâu tư liệu; sưu tầm đầy đủ, khảo tả 
công phu, lưu trữ cẩn thận. Tuy vậy, do 
bị chi phối bởi tâm thế hiếu kỳ, kỳ thị 
nên điều họ quan tâm và phát hiện luôn 
có thiên hướng theo đuổi cái khác 
thường. Chính tâm lý này đã ảnh hưởng 
không ít tới chất lượng sản phẩm. 
Cái tâm lý “kỳ thị”, “hiếu kỳ” trong 
nghiên cứu mà một số học giả phương 
Tây đã cảm nhận được và cố tìm cách 
thoát ra là điều có thực. Có thể kể đến 
trường hợp nhà dân tộc học người Pháp 
G. Condominas như một ví dụ mang 
tính điển hình. Nhà khoa học này đã tự 
cải biến thành một người dân tộc 
M’nong Gar “chính hiệu” trong nhiều 
năm để sống, chiêm nghiệm và nghiên 
cứu. Cũng chính từ hoàn cảnh như vậy, 
ông mới nghiệm thấy sự hạn chế của các 
phương pháp luận nghiên cứu đương 
thời. Cái hạn chế đó bắt nguồn từ nhãn 
quan, từ chỗ đứng để nhận thức. Trong 
tác phẩm có cái tên rất ấn tượng, Kỳ lạ 
mỗi ngày, công trình khảo cứu về dân 
tộc M’nông Gar ở Tây Nguyên, Condominas 
có dành một phần để nói đến tâm thế khi 
nghiên cứu(3). Ông cho rằng (đối với 
người nghiên cứu gốc Âu Châu), dù có 
nỗ lực cách gì thì anh ta cũng khó thoát 
được ám ảnh của “văn hóa nền” (văn 
hóa mẹ đẻ) đối với đối tượng nghiên 
cứu. Họ bao giờ cũng lấy bảng giá trị 
(văn hóa) của mình làm cơ sở để so sánh 
với đối tượng nghiên cứu. Đây là một 
(3) Georges Condominas (1921-2011), nhà dân 
tộc học người Pháp. Tiểu luận Kỳ lạ mỗi ngày 
đã được giới thiệu trên chuyên san NgokLinh, 
Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Khoa học xã hội & 
nhân văn Đại học Đà Nẵng, số 1 (3/2001). 
Quan niệm về Việt Nam học 
 97 
trạng thái tinh thần mà người nghiên 
cứu, vì nhiều lý do, rất khó thoát khỏi. 
Và với những cơ chế văn hóa đặc thù, 
với sự khác biệt rất lớn về hình thái xã 
hội, đương nhiên học giả Châu Âu có 
khuynh hướng thiên về việc nắm bắt cái 
“kỳ lạ”, “dã man” của người bản xứ (kể 
cả người Thượng lẫn người Kinh). 
Những bình luận của Condominas về 
tình trạng này là rất đáng lưu ý bởi nó 
phản ánh khá sát hợp với thực tế nghiên 
cứu Việt Nam của học giới ngoại quốc. 
Tất nhiên, khi nhận thức được như thế 
thì Condominas đã vượt lên được rào 
cản tâm lý để có một nhãn giới thích 
hợp (và thực tế công trình Kỳ lạ mỗi 
ngày đã chứng minh). Tuy vậy, tính chất 
“hiếu kỳ” trong giới nghiên cứu ngoại 
quốc là một thực tế có tính phổ biến. 
Như vậy, nhìn từ bên ngoài, có thể 
coi Việt Nam học là một hoạt động 
nghiên cứu của giới học giả nhằm nhận 
thức một đối tượng có tính tổng hợp, với 
những mục đích khác nhau. Việt Nam 
học do vậy là một lĩnh vực hoạt động rất 
phong phú, đa dạng và phức tạp. 
2. Ở nước ta, Việt Nam học đã phát 
triển như thế nào? Đây cũng là một câu 
hỏi gây nhiều tranh cãi. Một số người 
cho rằng, so với thế giới, thành tựu về 
Việt Nam học của người Việt Nam còn 
quá khiêm tốn, thậm chí nếu nhìn nhận 
một cách nghiêm túc, chúng ta chưa có 
một ngành Việt Nam học đúng nghĩa. 
Sự hạn chế của lĩnh vực nghiên cứu này 
thể hiện ở chỗ, phương pháp tiếp cận lạc 
hậu cũ mòn; thành tựu chưa nhiều; giá 
trị khoa học không cao; những nghiên 
cứu đạt tầm cỡ quốc tế, theo chuẩn mực 
quốc tế còn thiếu vắng Nói cách khác, 
có một khoảng cách khá xa giữa nội địa 
và bên ngoài trong giới nghiên cứu về 
Việt Nam. 
Nếu nói rằng ở Việt Nam hoạt động 
nghiên cứu chưa đáp ứng được đòi hỏi 
của cuộc sống, còn nhiều “khoảng trống 
học thuật”, chưa được khám phá một 
cách đầy đủ thì điều đó là đúng; nhưng 
coi Việt Nam học tại “chính quốc” như 
thể đang ở dạng sơ khai là không thỏa 
đáng. Nhận định như thế là thiếu khách 
quan và không công bằng. Thực tế là, ở 
nước ta Việt Nam học đã có một quá 
trình phát triển rất lâu dài và thành tựu 
mà các thế hệ trí thức người Việt Nam 
xây đắp nên cũng không đến nỗi sơ sài. 
Nói theo cách của tiền nhân, thời phong 
kiến, “các bậc vua chúa, các quan công 
khanh và đại phu, chẳng ai là không để 
tâm trí vào việc học thuật” (Phan Phu 
Tiên); giới sĩ lâm nước nhà “đời nào 
cũng có, văn chương nảy nở như rừng. 
Nếu chẳng phải trải qua cướp bóc, đốt 
phá mà hóa tro tàn, thì hẳn là trâu kéo 
đến toát mồ hôi, chứa đầy đến tận xà 
nhà” (Phan Huy Ích). Đấy hẳn nhiên 
không phải là lối nói khoa trương, cường 
điệu. Nhưng đáng tiếc là các công trình 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 98 
trứ tác học thuật cũ còn lại không nhiều. 
Mà còn nhiều làm sao được khi đất nước 
phải thường xuyên đối mặt với chính 
sách tận diệt văn hóa của kẻ xâm lược 
(!). Trải qua hàng nghìn năm binh hỏa 
can qua, dân tộc tồn tại được đến giờ đã 
là kỳ tích. Cái sự bảo tồn được văn hóa 
Việt Nam như thế không thể nói là thiếu 
vắng vai trò của “Việt Nam học” (mà 
đúng ra nên gọi là “quốc học”). Dĩ nhiên, 
cần hình dung hoạt động này theo một 
cách nhìn khoáng đạt hơn, nghĩa là 
không thể chỉ có một “kiểu” nghiên cứu 
(như thao tác của học giả hiện đại), cũng 
không chỉ có một dạng sản phẩm (bằng 
sách vở) mà còn nhiều dạng khác nữa 
(thậm chí sản phẩm ở dạng “vô ngôn”, 
tiềm ẩn, phi vật thể...). 
Nếu nhìn sang thời hiện đại, nhất là 
từ giữa thế kỷ XX lại đây, thành quả 
Việt Nam học (theo lối của người Việt 
Nam) được thực hiện ở cả hai miền 
Nam - Bắc, cả trong nước lẫn nước 
ngoài lại càng phong phú, đa dạng. Tôi 
cho rằng trong lĩnh vực Việt Nam học, 
quả có cái gọi là insiders (nhận thức nội 
tại) và outsiders (tìm hiểu từ bên ngoài), 
song sự khu biệt ở đây rất mong manh; 
hơn nữa sự khác biệt chủ yếu cũng nằm 
ở quan niệm và tâm thức văn hóa chứ 
không tùy thuộc vào giới hạn không - 
thời gian (của chủ thể); tức là không bị 
hạn định vào biên giới quốc gia hay 
chủng tộc của nhà nghiên cứu. Và do 
đó, số lượng học giả, số lượng công 
trình trứ thuật của người Việt Nam là 
không dễ gì kể đếm hết được; trong cái 
"biển" văn bài đó cũng không hẳn toàn 
những thứ tầm thường. Vậy thì, một 
nhận định theo lối đối lập giữa Việt 
Nam học “trong nước” và “nước ngoài”, 
vô hình trung đã phô bày một dạng thái 
tư duy có phần tự ti không cần thiết 
trong nghiên cứu khoa học. 
Trên một phương diện khác, rất khó 
để so sánh những công trình nghiên cứu 
Việt Nam học thuộc dạng insiders và 
outsiders hơn kém nhau như thế nào. Ở 
đây không thể lấy một công trình nào 
đó làm (cái) chuẩn mực để rồi dùng làm 
thước đo định giá trị cho công trình 
khác được. Điều duy nhất có ý nghĩa 
khi đặt các công trình bên cạnh nhau 
chỉ là để tham chiếu chứ không phải là 
xếp thứ hạng. Bởi vì sự khác nhau giữa 
các công trình theo lối insiders và 
outsiders thực chất là biểu hiện của sự 
phong phú, đa dạng về cách tiếp cận và 
mục tiêu nghiên cứu chứ không phải là 
độ vênh giữa chuẩn mực và lệch chuẩn 
(cho dù chúng đều đề cập đến cùng một 
đối tượng). 
Nếu so sánh giữa cái gọi là Việt Nam 
học của người nước ngoài với nghiên 
cứu của người Việt Nam về chính đất 
nước, dân tộc mình (chủ yếu trong lĩnh 
vực xã hội và nhân văn), thì đúng là có 
nhiều điểm khác biệt. Điều này, như đã 
Quan niệm về Việt Nam học 
 99 
nói, có nguyên do từ tâm thế và mục 
tiêu của hoạt động nghiên cứu. Đối với 
học giả người Việt Nam, nghiên cứu về 
dân tộc mình là một hoạt động nghiên 
cứu đặc thù, là nghiên cứu quốc học, 
chứ không thuần túy là một hoạt động 
nhằm để nhận thức, chiếm lĩnh (như với 
một đối tượng khoa học bất kỳ nào). 
Nhà khoa học Việt Nam tiếp cận và xử 
lý những vấn đề cụ thể (thuộc lĩnh vực 
quốc học) không giống như cái cách một 
học giả ngoại quốc thực hiện, cho dù 
những công cụ, phương pháp được sử 
dụng hoàn toàn giống nhau chăng nữa. 
Bởi vì, đối với hoạt động của người 
nghiên cứu điều quan trọng nhất nhiều 
khi lại nằm ở chỗ nhận biết để làm gì 
(?), tức là hướng đến giá trị thực tiễn. 
Thực ra, giữa Việt Nam học (ở nước 
ngoài) và nghiên cứu quốc học không 
phải là không có những điểm tương 
đồng. Dù là học giả ngoại quốc hay nhà 
khoa học người Việt Nam thì khi thực 
hiện hoạt động nghiên cứu, mối quan 
tâm cũng đặt vào một đối tượng với 
những sự vật, hiện tượng ấy mà thôi. Và 
với đối tượng như thế, các phương pháp 
tiếp cận không phải không có những 
điểm chung. Tuy nhiên, chính cái điểm 
mấu chốt (tâm thế, mục tiêu, quan 
niệm...) lại khiến cho hai phương thức 
nghiên cứu trở nên có nhiều khác biệt 
quan trọng. 
Thông thường, các nhà nghiên cứu 
người Việt Nam tiếp cận đối tượng theo 
hai xu hướng có vẻ trái ngược nhau. 
Một mặt, tập trung vào các chuyên 
ngành, các lĩnh vực chuyên sâu. Sự phân 
xuất này theo thời gian ngày càng cụ 
thể, thu hẹp dần. Chẳng hạn như, khi 
nghiên cứu văn hóa, trong chiều hướng 
vận động của loại hình nghiên cứu này, 
có tình trạng chuyển dần sự quan tâm 
đến những vấn đề có tính chuyên biệt; 
các đối tượng nghiên cứu ngày càng 
được xác định tách bạch hơn, sâu hơn 
(không dừng ở những nghiên cứu có 
tính chất đại cương, khái luận nữa mà đi 
sâu vào từng yếu tố của văn hóa Việt 
Nam). Đây là một hướng phát triển có 
tính tất yếu bởi nó phát huy được lợi thế 
của người bản xứ khi nghiên cứu quốc 
học. Trong nghiên cứu khoa học, càng 
chuyên sâu thì càng tinh sắc. Tất nhiên 
là, muốn chuyên sâu thì cần có những 
điều kiện đảm bảo nhất định (kiến thức 
chuyên môn, tiềm năng văn hóa, sự 
thông thuộc ngôn ngữ...). 
Mặt khác, lối nghiên cứu hỗn dung, 
tổng hợp trên một đối tượng giới hạn về 
không - thời gian cũng đang được sử 
dụng khá rộng rãi và có những thành tựu 
tốt đẹp. Đây cũng là phương pháp tiếp 
cận được các học giả ngoại quốc ưa 
thích và có vẻ là sở trường của họ. 
Những nghiên cứu có tính chất liên 
ngành này không phải là sự quay về 
trạng thái “bất phân” thuở sơ khai của 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 100 
hoạt động khoa học, mà là sự tương hỗ, 
hỗ trợ trong nghiên cứu. 
Trên thực tế, cả hai xu hướng nghiên 
cứu này đều hàm chứa trong những 
điểm hạn chế vốn có. Trong nghiên cứu 
khoa học không có phương pháp nào là 
hoàn hảo. Cũng vì thế, nếu nói rằng 
ngành Việt Nam học ở nước ta chưa 
phát triển, nghiên cứu quốc học của 
chúng ta còn lạc hậu về phương pháp thì 
đó là một khái quát không thuyết phục. 
Ở Việt Nam, nghiên cứu quốc học 
thường chỉ tập trung vào những vấn đề 
thuộc lịch sử - văn hóa - tư tưởng. Công 
việc này ban đầu được thực hiện bởi các 
bậc nho sĩ, trí thức có uy vọng lớn hoặc 
là các tổ chức thuộc Nhà nước (Quốc sử 
quán, Hàn lâm viện), các học phái 
Đây là một hiện tượng đáng quan tâm 
bởi nó liên quan đến một điểm có tính 
chất cốt yếu trong nghiên cứu Việt Nam: 
quan niệm và yêu cầu của thực tiễn cuộc 
sống. Từ xưa đến nay, nghiên cứu quốc 
học của chúng ta về cơ bản là một hoạt 
động mang nặng tính thực tế, thậm chí 
là thực dụng. Nó không phải là một 
công việc mang tính học thuật thuần túy, 
mà là một hoạt động nhận thức vì sự tồn 
vong của dân tộc. Nhiệm vụ chủ yếu của 
nó là chứng minh và khẳng định các giá 
trị Việt Nam. Nhà nghiên cứu, bậc thức 
giả thực hiện hành vi của mình với một 
nhãn quan nghiên cứu và một tâm thế 
công dân đặc biệt. Chính điều này dần 
dần sẽ kéo theo những sự khác biệt quan 
trọng ở hoạt động của giới nghiên cứu 
trong nước và nước ngoài. 
Đọc các công trình trứ tác của tiền 
nhân thời trung đại về lịch sử và văn hóa 
dân tộc, không khó để nhận ra cái tinh 
thần bao quát chủ yếu trong đó. Xuyên 
suốt toàn bộ là một cuộc đối thoại giả 
định (ngầm đối thoại) nhằm khẳng định 
những giá trị truyền thống, đề cao văn 
hiến Việt Nam. Tinh thần này cũng 
được truyền nối sang cả thời hiện đại, 
với những biểu hiện thực ra cũng không 
khác mấy so với trước, đấy là mục tiêu 
khẳng định bản sắc Việt Nam. 
Do đòi hỏi của thực tế, hoạt động 
nghiên cứu quốc học luôn được tiến 
hành trong sự chi phối sâu sắc của điều 
kiện lịch sử xã hội. Điều này ảnh hưởng 
rất lớn (thậm chí có khi còn mang tính 
quyết định) đến việc hình thành nên tâm 
thế, nhãn quan của nhà nghiên cứu. 
Trước áp lực phải làm sao vượt thoát ra 
khỏi sự “diệt chủng văn hóa”, nghiên 
cứu quốc học chỉ có một lối đi duy nhất 
là khẳng định giá trị Việt Nam; phương 
pháp phổ biến nhất là đối lập với các đối 
tượng khác (đối lập Ta với Người) để 
tìm ra “bản sắc”, nét độc đáo. Không chỉ 
trong văn hóa, nghệ thuật mà thậm chí 
cả trong những lĩnh vực đòi hỏi một thái 
độ khách quan nghiêm ngặt như xã hội 
học, sử học... cũng thường xảy ra tình 
hình như vậy. Chính sự tập trung trong 
Quan niệm về Việt Nam học 
 101 
điểm nhìn, sự ưu ái trong quan sát, lựa 
chọn; trong thái độ quán chiếu, đánh 
giá... đã dẫn đến tình trạng ấy. 
Rõ ràng là, sự ưu ái, ưu tiên, thậm chí 
thiếu khách quan trong nghiên cứu quốc 
học là một thực tế (dù biểu hiện ở từng 
trường hợp có khác nhau). Tuy nhiên, 
cần thấy rằng đó không hẳn do định kiến 
hay sai lầm về phương pháp, mà do 
quan niệm và tâm thế nghiên cứu. Chính 
các học giả người Việt đã nhận thấy và 
bàn luận rất thấu đáo về hiện tượng này 
từ lâu chứ không phải chờ đến khi có 
điều kiện đối chiếu với công trình của 
học giả ngoại quốc. Những nghị luận 
của Lê Quý Đôn, Vũ Khâm Lân, Ngô 
Thì Sĩ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ 
Trạch, Phan Chu Trinh, Phan Khôi, 
Hoàng Xuân Hãn... về nghiên cứu quốc 
học của học giới nước nhà là rất xác 
đáng. Dù ở thời nào thì "tính mục đích" 
trong nghiên cứu quốc học cũng là điều 
không thể không tính đến. Tất nhiên, 
như thế không có nghĩa là bất chấp thực 
tế khách quan, cố chứng minh một cách 
khiên cưỡng cái hay cái tốt của Việt 
Nam. Nhưng đấy lại là một câu chuyện 
khác, câu chuyện về phương pháp chiếm 
lĩnh, về năng lực chuyên môn, bản lĩnh 
của nhà nghiên cứu. Điều đang bàn ở 
đây là đặc điểm của hoạt động nghiên 
cứu Việt Nam học. 
Dù sao, trong nghiên cứu khoa học xã 
hội nhân văn, cái gọi là “tính khách 
quan” cần được hiểu với ý nghĩa tương 
đối. Nó không thể giống như nghiên cứu 
những vấn đề về tự nhiên, hay những 
giải pháp kỹ thuật, công nghệ. Bởi thế, 
nên coi sự hiện diện của cái tâm thế, 
nhãn quan nghiên cứu trong công trình 
Việt Nam học là một đặc điểm chứ 
không phải là biểu hiện thuộc về thứ 
hạng, đẳng cấp hay chất lượng. 
Có thể nói rằng, Việt Nam học là một 
lĩnh vực nghiên cứu đặc thù; nét khu 
biệt của nó nằm ở đối tượng nghiên cứu, 
phương pháp tiếp cận và cả ở mục tiêu 
đạt đến. Cái đích của ngành khoa học 
này không phải là các sự vật, hiện tượng 
hiện hữu dưới hình thái cụ thể nào đó, 
mà là những giá trị, tính chất được hàm 
chứa trong đó. Nghiên cứu Việt Nam 
(hay quốc học) do vậy bao giờ cũng phụ 
thuộc vào nhãn quan và tâm thế của 
người nghiên cứu. Điều đó cũng có 
nghĩa luôn tồn tại những cách thức tiếp 
cận khác nhau. Một hình ảnh chân thật 
về Việt Nam không bao giờ có được nếu 
chỉ tiếp cận bó hẹp trong một phạm vi 
(dù là chuyên sâu hay liên ngành); 
không bao giờ có thể hiểu được Việt 
Nam nếu chỉ nhìn từ một giác độ. Trong 
điều kiện hiện nay, cách hành xử khôn 
ngoan nhất có lẽ là nhắm đến một sự 
điều chỉnh sao cho đạt đến sự dung hòa, 
hợp lý chứ không phải là cố gắng để tạo 
ra (hay theo đuổi) một chuẩn mực sẵn 
có nào. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(76) - 2014 
 102 

File đính kèm:

  • pdfquan_niem_ve_viet_nam_hoc.pdf