Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh

Không sử sách nào ghi chép các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong có lực lượng

pháo binh từ lúc nào, mặc dù ta biết rằng quân đội các bên đã sử dụng súng rất

sớm. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã kể một trận

đánh năm 1620 giữa Tuyên Lộc hầu (Nguyễn Phúc Tuyên, cháu gọi chúa Sãi bằng

chú, con của Nguyễn Phúc Hà) và hai kẻ phản loạn (Văn Nham hầu Nguyễn Phúc

Hiệp và Thạch Xuyên hầu Nguyễn Phúc Trạch, đều là anh của chúa Sãi) như sau:

“Nói đoạn, [Sãi vương] bèn lập đàn tấu cáo với trời đất, quỷ thần và các bậc tiên

vương, rồi sai Tuyên Lộc làm tiên phong, chúa tự mình thống lĩnh đại quân thủy bộ

đi sau tiếp ứng, thẳng tiến đến xứ Cồn Cát xã Ái Tử. Quân đôi bên đối trận đánh

lớn, đạn bay như mưa, súng nổ ầm vang như sấm, nhưng chưa bên nào thắng bại.

Tuyên Lộc cả giận múa tít tay đao sáng loáng như luồng chớp xông tới; Văn Nham,

Thạch Xuyên cả kinh, liệu thế khó bề chống cự, vội vàng tháo lui, quân lính thua

chạy tán loạn”.(1) Như vậy, hai bên đều có lính sử dụng súng, súng đại bác lẫn súng

điểu thương, mà súng điểu thương chiếm phần nhiều, nên mới “đạn bay như mưa”.

Có lính sử dụng súng, nhưng chưa chắc đã có những đội quân chuyên dùng súng,

tức binh chủng pháo binh.

pdf 15 trang kimcuc 5960
Bạn đang xem tài liệu "Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh

Quân đội xứ đàng trong: Pháo binh
50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
* Thành phố Huế.
QUÂN ĐỘI XỨ ĐÀNG TRONG: PHÁO BINH
 Lê Nguyễn Lưu*
1. Lực lượng pháo binh
Không sử sách nào ghi chép các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong có lực lượng 
pháo binh từ lúc nào, mặc dù ta biết rằng quân đội các bên đã sử dụng súng rất 
sớm. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã kể một trận 
đánh năm 1620 giữa Tuyên Lộc hầu (Nguyễn Phúc Tuyên, cháu gọi chúa Sãi bằng 
chú, con của Nguyễn Phúc Hà) và hai kẻ phản loạn (Văn Nham hầu Nguyễn Phúc 
Hiệp và Thạch Xuyên hầu Nguyễn Phúc Trạch, đều là anh của chúa Sãi) như sau: 
“Nói đoạn, [Sãi vương] bèn lập đàn tấu cáo với trời đất, quỷ thần và các bậc tiên 
vương, rồi sai Tuyên Lộc làm tiên phong, chúa tự mình thống lĩnh đại quân thủy bộ 
đi sau tiếp ứng, thẳng tiến đến xứ Cồn Cát xã Ái Tử. Quân đôi bên đối trận đánh 
lớn, đạn bay như mưa, súng nổ ầm vang như sấm, nhưng chưa bên nào thắng bại. 
Tuyên Lộc cả giận múa tít tay đao sáng loáng như luồng chớp xông tới; Văn Nham, 
Thạch Xuyên cả kinh, liệu thế khó bề chống cự, vội vàng tháo lui, quân lính thua 
chạy tán loạn”.(1) Như vậy, hai bên đều có lính sử dụng súng, súng đại bác lẫn súng 
điểu thương, mà súng điểu thương chiếm phần nhiều, nên mới “đạn bay như mưa”. 
Có lính sử dụng súng, nhưng chưa chắc đã có những đội quân chuyên dùng súng, 
tức binh chủng pháo binh. 
Tuy nhiên ta biết hồi bấy giờ, đối với các chúa Nguyễn, nhu cầu phục vụ 
chiến tranh được đặt lên hàng đầu, nên song song với việc mua súng và đúc súng 
các loại, chúa Nguyễn cũng sớm thành lập các đội quân chuyên sử dụng súng, ngay 
trong thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614-1635). Họ không hoạt động độc lập. 
Một đạo bộ binh hay thủy binh thường phiên chế thêm một hay hai, ba đội (thuyền) 
súng, chẳng hạn binh Nội Bộ (đạo quân bộ của phủ chúa) có các thuyền Tả Vệ, Hữu 
Vệ, Nội Hoàng Kiếm, Trung Chi, Tiểu Chi, Tân Hậu Bộ, Trung Hậu Bộ..., Hữu 
Súng, Tả Súng, Tiền Súng, Hậu Súng, Toàn Nhất, Toàn Nhị..., hay binh Nội Thủy 
(đạo quân thủy của phủ chúa) có các thuyền Trung Kính, Trung Thủy, Tả Thủy, 
Hữu Thủy..., Tiền Trung Súng, Hậu Trung Súng, Nhuệ Súng, Trạch Đao.... Như thế 
là quân bộ hay quân thủy đều có những đơn vị súng kèm theo để hỗ trợ. Trong các 
đơn vị súng này, chắc vừa có lính sử dụng đại bác, vừa có lính sử dụng súng điểu 
thương. Súng điểu thương là loại súng “bắn chim”, tức súng tay, cũng gọi là súng 
hỏa mai, nhồi thuốc, nạp đạn rồi châm ngòi. Theo các chứng nhân phương Tây, 
51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
lính xứ Đàng Trong sử dụng súng rất thành thạo. Giáo sĩ Friar Domingo Navarrette 
viết: “Quân lính của vương quốc này hoàn hảo nhất trong cả vùng, rất có kỷ luật. 
Nhà vua giữ lại ở triều đình 40.000 lính. Những người lính này tập bắn bia mỗi 
ngày và ai nhắm trúng nhất sẽ được thưởng một tấm lụa. Tôi đã nhiều lần nghe 
người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nói rằng họ đều là những nhà thiện xạ...”.(2) 
Chính quân đội này đã hai lần thị uy với tàu nước ngoài đến Thuận Hóa mon men 
gây sự, và lần nào cũng thắng lợi.(3) Giáo sĩ C. Borri cũng viết: “Họ tự huấn luyện 
để đảm bảo khả năng bằng các cuộc thực tập liên tục và các cuộc bắn bia; họ khá 
thành công vì thế họ kiêu ngạo về chuyện đó và tự tán tụng giá trị của mình; khi 
các tàu Âu châu đến hải cảng của họ, các thủy binh của nhà vua liền thách đố các 
xạ thủ của chúng ta, những người này biết rằng không thể so sánh với họ nên tránh 
cuộc thách thức chừng nào họ tránh được, vì do kinh nghiệm, họ biết rất rõ rằng 
những người lính thủy kia có thừa khả năng bắn trúng đích với đại bác của mình 
mà những người khác không làm được như với một khẩu súng hỏa mai được điều 
chỉnh chính xác”.(4)
Cứ theo Đại Nam thực lục tiền biên, thì năm Nhâm Ngọ (1642), chúa Thượng 
Nguyễn Phúc Lan sai đắp đất lập trường bắn tại xã Hoằng Phúc(5) để thao luyện 
thủy quân: “Một hôm, chúa ngự thuyền rồng đi chơi Cửa Eo, thấy thủy quân không 
được chỉnh tề, bèn ra lệnh cho ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang làm 
trường thao diễn thủy quân ở xã Hoằng Phúc (tức xã Hồng Phúc thuộc huyện Phú 
Vang bây giờ), đắp núi đất cao hơn 30 thước, rộng hơn 150 thước, cứ đến kỳ tháng 
7 thì thao diễn phép bơi chèo và bắn súng, ai trúng thì thưởng vàng lụa”.(6) Lê Quý 
Đôn cũng nói đến việc này, nhưng hơi khác vài điểm: “Năm thứ 8, Nhâm Ngọ, sai 
binh dân ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang đắp trường tập thủy binh 
ở xã Hồng Phúc, đắp một gò đất cao hơn 30 thước, rộng hơn 120 thước, cứ đến 
tháng 7 thì thao luyện thủy quân, bơi thuyền bắn súng. Chiến thuyền bắn đại bác 
hễ trúng đích thì thưởng bạc lụa, bắn sai đích thì theo dấu mà tìm lấy đạn. Do đó 
thủy quân đều tinh thủy chiến”.(7) Đến năm Quý Mão (1663), vào tháng Năm, chúa 
Hiền Nguyễn Phúc Tần lại “cho rằng trong trận đánh ở Nhật Lệ, nghề bắn của 
quân ta chưa được tinh, muốn bắt chước phép tập bắn của Thái Tổ, sai đắp ụ ở 
Hoằng Phúc (chiều cao hơn 30 thước, chiều rộng hơn 130 thước), trước mặt đặt 
một cái xạ hầu, khiến thủy sư đi lại mà bắn thi, lấy bắn trúng hay không trúng mà 
định thưởng phạt. Từ đấy quân sĩ đều cố gắng, phép bắn ngày càng thêm tinh”.(8) 
Tất nhiên không riêng gì thủy quân mới tập bắn.
Có lẽ lần này không phải làm chỗ mới, mà do chỗ cũ chỉnh đốn lại. Về sau, 
triều Nguyễn cũng mấy lần sửa đắp, như năm Minh Mạng thứ 2 (1821), tháng Năm, 
“Đắp ụ bắn súng ở Thanh Phước (tên xã), sai tướng sĩ hàng ngày diễn tập (ngày 2 
lần, sáng từ trước khi mặt trời mọc một khắc bắt đầu, giọt đồng hồ xuống 5 khắc 
thì nghỉ; chiều giọt đồng hồ xuống 8 khắc bắt đầu, mặt trời lặn thì nghỉ. Tới khi 
52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
gặp mưa thì thôi). Vua nhiều lần đến xem, định rõ lệ thưởng phạt (làm thuyền giả, 
bắn trúng mũi thuyền, cột buồm, thủy quân một phát thưởng 15 quan tiền, lục quân 
thưởng 10 quan tiền; trúng thân thuyền, thủy quân một phát thưởng 10 quan tiền, 
lục quân 5 quan tiền; có trúng mà một phát không vào ụ thì không theo lệ ấy). Lại 
cấp quần áo tây cho lính pháo thủ để tiện bắn súng”,(9) năm Minh Mạng 5 (1824), 
tháng Bảy nhuận, “Sửa đắp ụ súng Thanh Phước, sai thủy quân tập bắn súng, chia 
hạng mà thưởng tiền theo thứ bậc”.(10) Trường Bắn hay Trường Bia Thanh Phước 
tiêu trầm từ sau khi Thuận An thất thủ (1883).(11) Hiện nay chỉ còn một khoảnh đất 
cao hoang phế, cây cối um tùm, nhân dân gọi là Hòn Mô, Hòn Bia hay Mô Súng, 
tọa lạc ở cuối làng Thanh Phước. Có lẽ lính xạ thủ ngồi trên thuyền dàn dưới bờ 
sông khoảng ngang với chợ Lại Ân, hướng súng lên bắn vào những “xạ hầu” (tấm 
đích) trồng trên gò đất. Vùng này được mang tên xứ Mô Súng (hoặc Mộ Súng), xứ 
Hậu Mô Súng, và đã được ghi trong địa bạ năm Cảnh Trị 7 (1669).
Trong cuộc duyệt binh năm 1653, ta thấy trong quân đội Chính dinh Phú 
Xuân chỉ có bốn cơ súng (Tả Súng, Hữu Súng, Tiền Súng, Hậu Súng), mỗi cơ 6 
thuyền với hơn 1.050 lính. Về sau, theo thống kê của Lê Quý Đôn, ngoài bốn cơ 
súng ấy (mỗi cơ 6 thuyền, mỗi thuyền 45 lính, cộng 1.080 lính), còn thêm nhiều 
thuyền súng phiên chế vào các cơ bộ binh hay thủy binh, như cơ binh Nội Bộ có 
các đội thuyền Tả Súng, Hữu Súng, Tiền Súng, Hậu Súng, mỗi đội thuyền từ 50 
đến 80 lính; ở binh Nội Thủy cũng có hai thuyền Tiền Trung Súng, Hậu Trung 
Súng, mỗi thuyền từ 50 đến 70 lính; cơ Tả Trung Kiên có đến bảy thuyền Súng 
Nhất, Tả Nhuệ Súng, Hữu Nhuệ Súng, Tiền Nhuệ Súng, Hậu Nhuệ Súng, Tráng 
Súng, Hữu Kiên Súng, mỗi thuyền 50 lính; cơ Hữu Trung Kiên có bốn thuyền 
Tráng Nhất Súng, Tráng Nhị Súng, Súng Nhất, Súng Nhị, mỗi thuyền cùng 50 
lính.... Tuy thế, từ sau khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn chấm dứt (1672), các đơn vị 
pháo binh tuy vẫn được duy trì, thao luyện, nhưng sự tinh nhuệ dần dần mai một đi, 
nhất là pháo binh hạng nặng, hình như đại bác chỉ để phục vụ lễ nghi, trang hoàng, 
còn điểu thương thì chỉ dùng khi săn bắn!
2. Vấn đề súng đồng
Lê Quý Đôn cho biết: “Họ Nguyễn trước dùng đồng rất phí, như hai năm 
Canh Dần, Tân Mão, thợ bạc hai cơ Tả Trung, Hữu Trung lĩnh đồng đỏ và kẽm nấu 
lẫn thành thau chế đinh thát bao (?), đinh cúc cước (?) để trang sức những nhà, 
hiên, đình, các và các thuyền ghe của họ dùng, có đến 11.201 cân 7 lạng 2 đồng 
cân đồng và đến 4.430 cân kẽm, ty Nội ngân tượng được lĩnh để hàng năm ngày tết 
Chính Đán trang sức các nhà (đường) đến 165 cân 12 lạng đồng và 66 cân 4 lạng 
8 đồng cân kẽm, họ lấy đồng trắng để trang sức mới ba tòa nhà Di Nhiên Đường 
đến 1.074 hốt 3 lạng 5 đồng cân, đó chẳng phải là phí tổn vô ích hay sao? Bấy giờ 
lệ phát 1 cân đồng đỏ và 6 lạng 4 đồng cân kẽm thì tiền than 24 đồng, chế thành 
53Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
thau thì sắc cũng vàng như thau do thợ kinh làm ở Lò Cam vậy. Người thợ bạc Vũ 
Tông Nhân nói rằng 1 cân đồng đỏ cho 8 lạng kẽm vào mà nấu luyện thì chế thau 
mới tốt, nhưng người thợ thấy đồng đắt kẽm rẻ nên lĩnh đồng nhiều cân hơn để 
tiện bớt riêng cho mình”.(12) Tình trạng dùng đồng rất phí chỉ diễn ra sau này, khi 
cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã chấm dứt từ lâu, đồng tích trữ chẳng để làm 
gì, nên các chúa cho đem ra mà trang hoàng nhà cửa, cung điện, đúc các đồ dùng 
hàng ngày, chứ trước kia đây là một chất liệu rất quý, mua của nước ngoài từ các 
tàu buôn nhập vào.
Không chỉ Đàng Trong, mà cả Đàng Ngoài cũng rất cần đồng, cho nên đồng 
thành ra một món hời đối với các lái buôn nước ngoài: “Đồng là một món hàng 
rất đặc biệt. Trước hết đồng là một món hàng cần thiết cho phong kiến thống trị 
đúc súng, thứ súng lớn mà xưa kia gọi là thần công, và được thần thánh hóa gọi 
là “ông súng”. Họ còn dùng đồng để đúc ra những đồ chủ yếu để tượng trưng 
cho sự thống trị của họ, những cái đỉnh, cái vạc, hoặc những đồ nghi trượng khác 
bằng đồng. Nhưng đồng còn dùng vào làm một vật không thể thiếu được khi kinh 
tế hàng hóa đã phát triển khá rồi, tức là dùng để đúc tiền đồng. Ở trong nước, việc 
khai mỏ đồng cũng đã đem lại một số lượng (mỏ Tụ Long ở biên giới Việt - Hoa), 
nhưng vì dùng vào nhiều việc nên đồng vẫn cứ là món hàng bán được cho Việt 
Nam. Năm 1617, những thuyền buôn ở Quảng Đông, Phúc Kiến hay Nhật Bản 
thường chở đồng đến bán, nhà nước thu mua tất cả, cứ 100 cân đồng thì trị giá 
40, 50 quan tiền kẽm (“Đại Nam thực lục”)”.(13) Chẳng những mua đồng, họ còn 
mua hiện vật đồng mà nhất là tiền đồng và súng đồng. Thành Thế Vỹ dẫn tư liệu 
cho biết năm 1635, chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Lan?) viết thư cho lái buôn Nhật 
Chaya Shirojiro (茶屋四郎次郎 Trà Ốc Tứ Lang Thứ Lang) có câu: “Từ giờ về 
sau, hễ bên đó có chuyến tàu nào đến Đường Ngoài là đất thù địch của nước tôi, 
xin chỉ cho mang đến bán những hàng lặt vặt thôi, tôi xin với các viên chủ tàu cấm 
không cho chở diêm sinh, đồ dùng bằng đồng, đạn và súng”.(14) Dĩ nhiên họ không 
quan tâm đến sự đối đầu thù địch giữa hai bên, ở đâu bán được hàng thì cứ chở tới. 
Trong việc mua bán này, các chúa Nguyễn lại cậy đến các vị thừa sai. Bà Li 
Tana dẫn tài liệu của C.R. Boxer (Portuguese conquest and commerce in Southern 
Asia 1500-1650) cho biết: “Một trong số những cuộc tiếp xúc - thực ra rất hiếm 
hoi - đã kết thúc một cách tốt đẹp giữa các thừa sai và các chúa Nguyễn là cuộc 
tiếp xúc vào năm 1658 liên quan đến việc mua vũ khí. Marquez, một thừa sai dòng 
Tên, đã nhận của chúa Hiền (1648-1687) 10.000 nén bạc để mua súng ở Macao. 
Nhưng cuộc hành trình của vị thừa sai này đã kéo dài đến độ cuối cùng chúa Hiền 
đã không còn kiên nhẫn chờ đợi nữa. Lúc ấy là mùa xuân năm 1659. Đoan chắc là 
Marquez đã ôm tiền chạy mất, chúa ra lệnh triệt hạ các nhà thờ trong nước. Nhưng 
vào chính lúc ấy thì có tàu từ Macao đến. Chúa mừng rỡ đến độ đã xông lên tàu 
54 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
và ra lệnh bắn ba phát thần công chào mừng vị thừa sai đã trở lại. Kế đó, chúa vui 
sướng vuốt ve các khẩu đại bác như thể chúa đã nhìn thấy quân của chúa Trịnh bị 
tiêu diệt dưới làn đạn của các khẩu đại bác này. Chúa cũng ra lệnh trả lại cho các 
thừa sai các nhà thờ đã bị tịch thu và chính các thừa sai từ nay được tự do hoạt 
động trên lãnh thổ của chúa”.(15) Không chỉ mua, mà chúa còn gởi tiền nhờ người 
Bồ Đào Nha đúc dùm nữa. Nhìn chung, trong giai đoạn “bất hòa” với họ Trịnh, các 
chúa Nguyễn đặt ưu tiên về súng, mua hay đúc.
Bà Li Tana “không biết đích xác họ Nguyễn có đại bác khi nào”, vì trong thời 
gian Nguyễn Phúc Nguyên trị vì, các “châu ấn thuyền” của Nhật Bản bị cấm buôn 
bán súng. Nhưng các chúa Nguyễn cũng có thể tự đúc súng trước khi mua được 
súng của người phương Tây. Chính Sãi Vương đã tổ chức Ty Nội Pháo Tượng và 
hai đội Pháo Tượng năm 1631. Thợ đại bác không đúc đại bác thì đúc gì? Tất nhiên 
họ cũng đúc súng tay (điểu thương, hỏa mai). C. Borri viết: “Tôi đã nói ở đầu bản 
tường tình này rằng xứ Đàng Trong là một tỉnh của vương quốc lớn Bắc Hà (Đàng 
Ngoài), do người ông của vị chúa đương trị vì, người này được phong làm trấn 
thủ, đã đứng lên chống lại xứ Bắc Hà, ông vững lòng làm chuyện đó bởi vì trong 
một thời gian dài ông đã thu lượm được nhiều đại bác do các tàu chiến Bồ Đào 
Nha và Hòa Lan bị đắm vì đá ngầm đem lại. Các đại bác này được các ngư dân 
vớt lên, người ta thấy có đến 60 khẩu, và một vài khẩu rất lớn”.(16) Chắc là những 
đại bác đầu tiên thu lượm được tại hải phận quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa,(17) 
và điều này chứng tỏ họ Nguyễn có đại bác từ rất sớm. Ngay năm 1631, trước khi 
đặt Ty Nội Pháo Tượng và hai Ty Tả Hữu Pháo Tượng, lũy Trường Dục làm xong, 
sách Đại Nam thực lục mô tả: “Lũy cao 1 trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim, trong 
đắp đất, làm năm bực, voi ngựa đi được, dựa núi men khe, dài hơn 3.000 trượng, 
mỗi trượng đặt một khẩu súng quá sơn, cách 3 hoặc 5 trượng lập một pháo đài, 
đặt một khẩu súng nòng lớn. Thuốc đạn chất như núi”.(18) Bấy giờ, những súng ấy 
chắc là những thứ vớt được ngoài biển như đã nói trên đây.
Nhưng rồi chúa Sãi cũng tự mình tổ chức việc đúc súng và đã thành công. Lê 
Quý Đôn viết: “Hai thôn Phan Xá và Hoàng Giang huyện Khang Lộc đều khéo đúc 
súng. Họ Nguyễn lấy 60 người Phan Xá đặt làm hai đội thợ Tả Súng Hữu Súng, 
12 người chánh ty quan, cấp ngụ lộc mỗi người một mẫu ruộng, mỗi năm 10 quan 
tiền; 40 người lính, mỗi người lương hàng năm là 10 thúng thóc, 5 quan tiền, do 
quan ngoại tả, ngoại hữu thay nhau trông coi. Sau lại thêm mỗi đội 20 người. Chế 
tạo khí giới, đúc súng trụ thì lệ phát mỗi khẩu sắt 15 khối, tiền than 3 quan 5 tiền, 
gang 10 cân, dầu 1 lường; đúc súng nhỏ thì cứ mỗi 10 khẩu lệ phát sắt 30 khối, tiền 
than 10 quan, gang 30 cân. Lại lấy 40 người Hoàng Giang đặt làm ty thợ Nội Súng, 
trong đó có một người thủ hợp, mỗi năm 20 quan, một người ty quan, mỗi năm 30 
quan; quân nhân thì lương hàng năm gạo 10 hộc và tiền 5 quan. Công việc làm 
55Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
cũng như trên. Đinh súng thì thợ rèn làm, cò máy thì thợ bạc làm, tai súng thì thợ 
tai làm, báng súng thì thợ mộc làm, quân ba đội chỉ đúc lòng súng mà thôi. Thuận 
Hóa có hai đội ty thợ đúc, đều 30 người. Có phường đúc ở bờ nam sông Phú Xuân, 
đều là người kiều ngụ ở lộn, cũng biết đúc súng đồng và vạc, chảo, nồi, xanh, cây 
đèn, cây nến, mọi vật”.(19) Cũng trong thế kỷ XVII, Joaõ da Cruz, một người Bồ 
Đào Nha, đã đến Thuận Hóa giúp chúa Nguyễn phần kỹ thuật đúc súng của phương 
Tây và trang trí tr ... có vòng tường 
thấp, rộng chừng một hai dặm, vương phủ ở trong ấy”.(40) Nhà du hành phương Tây 
James Bean đến phủ Dương Xuân yết kiến Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cũng 
miêu tả như sau: “...Cánh cửa mở ra và chúng tôi bước vào sân rất rộng và đẹp, 
dưới rải sỏi và trên trang trí rất tráng lệ. Ở một phía kia là tàu tượng, nơi voi của 
vua ở, đối diện là tàu ngựa. Những bức tường cao ba bộ (feet) đối nhau. Bên phải 
là một sảnh khá rộng giống như chỗ ngồi của quan tòa. Cuối nơi này nhìn ra con 
kênh lớn và lù lù vài khẩu trong số những đại thần công đẹp nhất mà tôi đã từng 
thấy...”.(41) Cùng với đó là việc tập luyện cũng hời hợt. Dân Đàng Trong an hưởng 
thái bình một thời gian dài ngót trăm năm, nhất là tại Thuận Hóa - Phú Xuân, ngay 
lính tráng cũng sống nhàn nhã và xa xỉ, đến nỗi năm 1740, thương nhân Pière 
Poivre viết: “Người Đàng Trong không biết sử dụng đại bác sao cho có lợi. Một 
khẩu súng không có được tới 6 tay súng giỏi và đa số các quả đạn lại không đúng 
kích thước”.(42)
Đồng là thứ kim loại tồn tại lâu dài nhất, nhưng ngày nay chúng ta lại có rất 
ít di vật súng đồng thời chúa Nguyễn trên địa bàn Thừa Thiên Huế. Nguyên nhân 
chủ yếu là do quân đội của chúa Trịnh đã tịch thu hết, khẩu nào tốt thì chở về Bắc, 
khẩu nào “có vấn đề” thì nấu đúc tiền. Lê Quý Đôn cho biết: “Mùa xuân năm Bính 
Thân, vâng truyền rằng phàm bắt được súng đồng ở Thuận Hóa, nòng súng đã 
rộng không dùng được, cùng là đồ đồng, tấm đồng nặng lớn không dùng được và 
không chở đi được, thì đem phá hủy gấp mà đúc tiền cất chứa, đồng tiền nặng 1 
đồng cân, đề chữ “Cảnh Hưng thông bảo”, rồi xem đúc được bao nhiêu, làm khải 
đệ lên, để chứa dùng vào việc ngoài biên. Kiêm đốc suất Đoan quận công sai Tả 
Tượng cơ là Lai Trung hầu coi việc đúc, mở xưởng đúc ở phía hữu trấn dinh, lấy 
cai đội cũ là Luận Bình hầu Văn Thế Nghị đảm nhiệm việc ốp làm, lấy người am 
hiểu các xã làm thợ. Đỉnh to, vạc lớn, thùng lớn của họ Nguyễn từ rộng 7, 8 thước, 
cao 3, 4 thước, nặng 700, 800 cân trở xuống, đều phá để đúc tiền. Ngày 22 tháng 2 
bắt đầu làm, ngày 30 tháng 6 thì xong”.(43) Sau khi trừ chi phí, đúc được đến 23.962 
quan. Rõ ràng là danh xưng Trường Tiền bắt đầu xuất hiện từ đấy, chính xác là 
61Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
ngày 22 tháng Hai năm Bính Thân (10/4/1776), vị trí của nó là ở phía hữu trấn 
dinh, tức đô thành Phú Xuân, bên bờ bắc Sông Hương, nay ở trong khoảng từ đầu 
cầu Trường Tiền đến Thương Bạc. Vì vậy mà có danh xưng phố Trường Tiền, bến 
đò Trường Tiền. Trước đây, nhiều người “đi tìm” nguồn gốc danh xưng này, đều 
chỉ là võ đoán. Nhà Huế học L. Cadière điều tra cẩn thận cũng đành chịu, không trả 
lời được cụ thể, chỉ ghi chú: “Xưa kia ở gần chỗ này, nhưng ở một chỗ và một thời 
điểm không nhất định, có một sở đúc tiền, nó không những đặt tên cho bến đò mà 
ngay cả con sông Huế nữa, được người Annam và những người châu Âu đầu tiên 
gọi là sông Trường Tiền”. Có người lại cho là ở chỗ khách sạn Morin (tức khách 
sạn Saigon - Morin hiện nay), gần bờ nam Sông Hương; cũng có người cho là bên 
cạnh Trường Trung học cơ sở Nguyễn Tri Phương hiện nay, cách rất xa bờ nam 
Sông Hương. Phan Thuận An theo tài liệu của Phan Văn Dật cũng viết: “Ngày xưa, 
ở khu vực gần đầu phía bắc của cầu Trường Tiền hiện nay, đã có một “Sở đúc tiền 
đồng” của triều đình. Sở này đặt dưới quyền điều khiển của một ông thị lang Bộ 
Hộ”.(44) Không rõ bậc tiền bối họ Phan dựa vào tư liệu nào, nhưng triều đình nhà 
Nguyễn đã có cơ sở đúc ở xã Dương Xuân rồi (Phường Đúc vừa có sẵn phương 
tiện, vừa có sẵn nguyên liệu, vừa có sẵn thợ thuyền, rất tiện), lại có cục Bảo Tuyền 
ở ngoài Bắc Thành nữa; đúc tiền cũng không phải là việc thường xuyên, thường 
tiến hành khi vua mới lên ngôi, đổi niên hiệu, nên cần gì phải dựng thêm cơ sở 
riêng cho tốn kém; vả chăng, theo sử sách, mỗi khi có nhu cầu, vua xuống chỉ giao 
cho cục Bảo Tuyền ở Bắc Thành đúc rồi chở vào, vì ngoài ấy nguyên liệu dồi dào 
hơn ở Huế (đồng có thể sản xuất ở mỏ Tụ Long). Cho nên danh xưng này xuất 
hiện vào cuối thế kỷ XVIII, khi quân Trịnh chiếm đóng Thuận Hóa thời gian 1775-
1786, đã mở một cuộc đúc tiền lớn như Lê Quý Đôn viết (đã dẫn trên). 
 L N L 
CHÚ THÍCH
(1) Nguyễn Khoa Chiêm (2003), Nam triều công nghiệp diễn chí, bản dịch: Ngô Đức Thọ & 
Nguyễn Thúy Nga, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 115.
(2) Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.65.
(3) Lần thứ nhất năm Ất Dậu (1585), công tử Nguyễn Phúc Nguyên mới 23 tuổi, lính tuần báo 
có năm chiếc tàu Tây Dương (châu Âu) của “Hiển Quý tặc” (thật ra là tàu buôn của thương 
gia Nhật tên Bạch Tần Hiển Quý) đến đậu ngoài khơi vùng biển Cửa Việt, thả xuồng vào 
cướp phá ven duyên hải. Ông vâng mệnh chúa Tiên ra đánh chìm hai chiếc, còn ba chiếc 
chạy dài. Chúa Tiên khen ngợi: “Con ta thật là anh kiệt!”. Lần thứ hai năm 1644, ba chiếc 
tàu Ô Lan (tức Hà Lan) đến giúp quân Trịnh, tiến vào Cửa Eo diệu võ dương oai, chúa 
Thượng sai con là Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần ra đánh đuổi chạy tan, viên đô đốc tử 
trận trong chiếc tàu bị cháy chìm.
(4) C. Borri, “Bản tường trình về xứ Đàng Trong”. Bản dịch: Tạp chí Những người bạn Cố đô 
Huế, (BAVH tập XVIII năm 1931), Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 401.
62 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
(5) Xã Hoằng Phúc có thể xem như một căn cứ địa của chúa Nguyễn cũng như vua Nguyễn. Có 
trường tập bắn, có xưởng đóng và sửa chữa tàu thuyền, lại có kỳ đài, lầu canh.... Xã được 
thành lập khoảng năm 1473 với tên Hoằng Phúc trên đất xứ Ô Thủy thuộc huyện Kim Hoa 
(vị khai canh là Niêm Long hầu, thuộc quân Cẩm Y Vệ thời Lê Thánh Tông); thời Lê - Mạc 
thuộc huyện Tư Vinh; sau năm 1687, đổi tên Hồng Phúc, thuộc tổng Mậu Tài, huyện Phú 
Vang; thời Tây Sơn đổi tên Hồng Ân (vì húy tên thân phụ vua Quang Trung là Hồ Phi Phúc); 
đầu thế kỷ XIX (theo địa bạ thời Gia Long), trở lại tên Hồng Phúc; sau năm 1835, thuộc tổng 
Vĩnh Trị, huyện Hương Trà; từ năm 1848, đổi tên Thanh Phước (vì vua Tự Đức tên Hồng 
Nhậm, phải húy cả chữ “Hồng”); Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, thuộc xã Hương 
Phong, huyện Hương Trà; từ năm 1958, thuộc xã Quảng Lộc, quận Quảng Điền; sau năm 
1975, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Trà; từ năm 1981, thuộc xã Hương Phong, 
huyện Hương Điền; từ năm 1991, thuộc xã Hương Phong, huyện Hương Trà.
(6) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, bản dịch: Viện Sử học, tập Một, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội, tr. 55.
(7) Lê Quý Đôn (1964), Phủ Biên tạp lục, bản dịch: Viện Sử học, Nxb Khoa học, Hà Nội, tr. 46.
(8) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Một, tr. 80.
(9) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Hai, tr. 135-136.
(10) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, ĐNTL, sđd, tập Hai, tr. 368.
(11) Đầu thế kỷ XX, nhà truyền giáo nước ngoài R. Morineau viết bài miêu tả in trên BAVH 
năm 1914: “Trường bia nằm bên tả ngạn sông Hương, phía trên ở làng Thanh Phước của 
huyện Hương Trà, tổng Vĩnh Trị và nối tiếp với xưởng tàu cũ cũng đặt tại làng ấy. Trường 
bia ấy không còn quan trọng như ngày xưa nữa. Nó đã bị sông nước xói mòn và khi gió 
mùa đông bắc dâng nước sông lên và làm lở dần vì bị sóng vả vào bờ, nếu sóng cứ tiếp 
tục không chuyển hướng thì trường bia ấy sẽ tiêu dần. Ngay mặt bằng của trường bia 
chỗ rộng nhất là 40m, trên cao chỉ còn được 3m, chiều dài mặt bằng còn 28m, nhưng 
phía trên chỉ được 8,5m. Chiều cao của ụ đất tối đa được 8m. Trường bia ấy làm toàn 
đất sét lấy cạnh đấy, đất của các ụ tàu xưởng sửa chữa ngày xưa” (Tạp chí Những người 
bạn Cố đô Huế, số năm 1914, bản dịch: Phạm Như Tùng, Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 89).
(12) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr. 240.
(13) Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, Nxb Sử học, 
Hà Nội, tr.102.
(14) Thành Thế Vỹ, sđd, tr. 99-100.
(15) Li Tana, sđd, tr. 63.
(16) C. Borri, “Bản tường trình về xứ Đàng Trong”, sđd, tr. 401.
(17) Đội Hoàng Sa được thành lập từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, sau đó là đội Bắc Hải. 
Theo tư liệu dã sử, thì chính con rể của chúa, một người Nhật, đã giúp chúa tổ chức đội 
này, còn sách Thực lục thì viết: “Mùa thu, tháng Bảy [năm Giáp Tuất (1754)], dân đội Hoàng 
Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước 
Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi đưa cho về. Chúa sai viết thư [cám ơn] (Ở ngoài 
biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc 
đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là “Vạn 
lý trường sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba 
v.v Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm, đến 
63Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về 
nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương 
sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật, đội này cũng 
do đội Hoàng Sa kiêm quản” (ĐNTL, sđd, tập Một, tr. 164).
(18) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 47.
(19) Lê Quý Đôn, PBTL, sđd, tr. 357-358.
(20) Phan Thanh Hải, “Phủ Phước Yên”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên 
Huế, số 2/1998, tr.23.
(21) Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam 1592 - 1802, pp. 97-99.
(22) L.Cadière, “Le quartier des Arènes” (Khu vực Hổ Quyền), Bulletin des Amis du Vieux Hué 
(BAVH), 1924, p.312; Manguin (1972), Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Champa, 
pp.205 - 206.
(23) Giấy tờ của làng Minh Hương đầu thế kỷ XIX, Giáo sư Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) có 
sử dụng khi nghiên cứu làng Minh Hương và phố Thanh Hà.
(24) Hồi ký của Lefèbvre và Boiret đều dùng ngữ “installé à Thợ Đúc” chứ không dùng từ 
“Phường Đúc”.
(25) Trong PBTL, Lê Quý Đôn cũng không xem phường đúc là một địa danh.
(26) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr.558. Hoặc giả Lê Quý Đôn muốn nói một Trường Đúc 
khác; nếu thế, ta phải phân biệt hai cơ sở: Trường Đúc là nơi xây dựng các lò đúc, còn 
Trường Đồng là nơi có các nhà kho tập kết nguyên liệu và phế liệu đồng.
(27) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, sđd, tr.558.
(28) Chúng tôi có tham khảo ý kiến của nghệ nhân Phường Đúc Nguyễn Đạt trong phần viết về 
Phường Đúc này, trong một dịp tham dự lễ giỗ Tổ tại nhà thờ họ Nguyễn Kinh Nhơn.
(29) L.Cadière, M.G.Coedès, “Les deux canons cochinchinois au Ministère de Bangkok”, BAVH, 
1919, pp.528-532. Theo nghĩa tiếng Pháp, “La croix” là cái thập tự giá, nên dùng dấu cộng 
để viết tắt.
(30) L.Cadière, “Le quartier des Arènes”, BAVH, 1924, p.308.
(31) Maybon, Russier, Notion d’histoire d’Annam, Histoire moderne du pays d’Annam, p.97 - 
Trần Trọng Kim (1958), Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, tr.339.
(32) Li Tana, Sđd, tr.63, 64. Ngay năm 1658, Giáo sĩ dòng tên Marquez còn nhận 10.000 lạng bạc 
của chúa Hiền để mua súng tại Macao, như đã dẫn ở trên.
(33) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 313.
(34) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 313.
(35) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.312 - 350.
(36) L.Cadière, bđd, BAVH 24, tr.315.
(37) Đây là ý kiến chúng tôi lấy từ các nghệ nhân Phường Đúc Huế, tiêu biểu là ông Nguyễn Đạt, 
thuộc họ Nguyễn Kinh Nhơn, và chúng tôi cũng cho như thế là chính xác.
(38) Li Tana, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 64, 65.
(39) Tứ đại khí: bốn vật dụng lớn bằng đồng của nước ta, gồm tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm 
(Đông Triều, cao khoảng 20m), tháp Báo Thiên (12 tầng, cao khoảng 70m), chuông Quy Điền 
(cao khoảng 3 sải - có lẽ là ba sải tay), vạc chùa Phổ Minh (sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 
6.150 cân); thời thuộc Minh (1407-1427), cả bốn thứ đều bị giặc lấy phá để đúc súng, chỉ còn 
bia đá ghi lại sự tích.
64 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (138) . 2017
(40) Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, bản dịch của Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 
Viện Đại học Huế, Huế, tr. 34.
(41) Nguyễn Sinh Duy, “Nhật ký hành trình của James Bean”, tạp chí Huế Xưa & Nay, số 21, năm 
1997, tr. 45.
(42) Li Tana, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 67.
(43) Lê Quý Đôn, PBTL, sđd, tr. 243.
(44) Phan Thuận An, “Một đoạn tư liệu quý hiếm bằng chữ Hán về chợ Đông Ba”, in trong kỷ yếu 
hội thảo: Một trăm năm chợ Đông Ba, tr.48.
TÓM TẮT
Trong lực lượng quân đội của các chúa Nguyễn, pháo binh được coi là một binh chủng bên 
cạnh tượng binh, tuy chưa phải là lực lượng nòng cốt như bộ binh. Ngoài các cơ súng hoạt động 
độc lập, còn có các thuyền súng phiên chế vào các cơ bộ binh và thủy binh để hỗ trợ tác chiến. 
Thời kỳ Nguyễn Phúc Tần ở ngôi chúa là thời kỳ căng thẳng của chiến tranh Trịnh - Nguyễn, 
chúa cho lập trường tập bắn ở làng Hoằng Phúc (Thanh Phước, huyện Hương Trà). Theo những 
người phương Tây đã từng đến Đàng Trong, thì lính của chúa Nguyễn bấy giờ sử dụng súng rất 
giỏi. Súng là thứ vũ khí quan trọng, nhất là khi phòng thủ cũng như khi công đồn (đánh thành), 
gồm điểu thương (súng tay) và đại bác. Xứ Đàng Trong có nhu cầu rất cao về đại bác các cỡ, đặc 
biệt là trong thời gian chống nhau với quân Trịnh (1627-1672). Bấy giờ, đại bác của chúa Nguyễn 
xuất từ ba nguồn, một là vớt được ngoài biển do tàu phương Tây bị tai nạn chìm trừ trước, hai 
là do hoạt động thương mại, gởi mua ở các nước ngoài, và ba là do tượng ty (cục thợ) của nhà 
nước đúc, chỉ cần mua nguyên liệu đồng. Theo Lê Quý Đôn, thợ Phú Xuân (gốc hai làng Phan 
Xá và Hoàng Giang ở Quảng Bình) đúc súng rất khéo. Từ khi dời phủ chính vào Kim Long và Phú 
Xuân, các chúa Nguyễn thiết lập cơ sở đúc súng tại bờ nam Sông Hương, trên đất xã Dương 
Xuân, gọi là Trường Đồng hay Trường Đúc, tại đây, đã có một người thợ phương Tây tham gia 
về kỹ thuật và trang trí, là Joaõ da Cruz. 
ABSTRACT
ARMED FORCES OF COCHINCHINA: ARTILLARY
Under the Nguyen lords, beside elephant troops, artillery was considered one of the armed 
forces though it was not a core force as the infantry. In addition to independent artillery troops, 
there were also gunboats in infantry troops and naval forces to support in combat. During the 
rule of Lord Nguyễn Phúc Tần, when the Trịnh – Nguyễn war was intensive, the Lord had a 
firing range built in Hoang Phuc village (Thanh Phuoc commune, Huong Tra district). According 
to Westerners who once came to Cochinchina, the Nguyen soldiers used their guns very well. 
Guns, including muskets and cannons, are an important weapon in defence as well as in assault 
(attacking fortifications). During the war against the Trịnh Lords (1627-1672), Cochinchina had a 
very high demand for cannons of all sizes. At that time, cannons of the Nguyễn Lords came from 
three sources;, the first was from western shipwrecks at sea, the second from trading with foreign 
merchants, and the third was cast by the arsenal. According to Lê Qúy Đôn, craftmen in Phú Xuân 
(coming from Phan Xá and Hoàng Giang villages, Quảng Bình province) were skilful at casting 
cannons. When transferring the residence to Kim Long and Phú Xuân, Nguyễn Lords set up gun 
casting plant on the south bank of Perfume River, in the area of Duong Xuan Commune, called 
Trường Đồng or Trường Đúc. There was a western craftman, Joaõ da Cruz, taking part in that 
work as a technician and decorator.

File đính kèm:

  • pdfquan_doi_xu_dang_trong_phao_binh.pdf