Phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới

Toàn cầu hóa đã được phân tích

trong nhiều sách, báo và sự kiện truyền

thông nhưng mới hơn nửa năm trở lại

đây vẫn làm cho chúng ta bất ngờ với

tính nhiều mặt của nó. Sự phồn vinh

mà nó đem lại hóa ra quá mong manh;

trong nền kinh tế và đời sống xã hội của

mỗi quốc gia là thành viên của WTO (kể

cả nhiều nước chưa vào WTO) đều có

hai phần thật và ảo: hàng hóa ảo, tiền

ảo, tiềm năng ảo, tăng trưởng ảo và cả

giá trị ảo. Trong điều kiện thuận lợi, khi

con người có niềm tin vào sự chuyển đổi

tiềm năng thành hiện thực thì cái ảo (ví

dụ, tri thức, giá trị thương hiệu, thị giá

cổ phiếu và chỉ số tăng của thị trường

chứng khoán.) có thể trở thành cái thật

(tiền thật, giá trị hàng hóa.) sau một

khoảng thời gian nhất định. Nhưng khi

niềm tin của những người tham gia giao

dịch bị giảm thiểu hay bị sụp đổ thì cái

ảo không thể trở thành cái thực, mặc dù

phần đóng góp của nó đã được tính đến

trong các bảng cân đối tài sản và báo

cáo tài chính của các công ty và được trả

lương, đưa vào tiêu dùng theo kiểu “đếm

cua trong lỗ”. Cuộc khủng hoảng kinh tế

thế giới, xuất phát từ khủng hoảng tài

chính Mỹ, đang diễn ra cho thấy phần

ảo được tích tụ trong nhiều năm nay đã

lớn hơn phần thật nhiều lần; càng

những nước có nền kinh tế tri thức và

công nghệ thông tin phát triển thì phần

ảo càng nhiều; thế giới đã tiêu xài thực

hơn rất nhiều so với cái có thể làm ra;

con người đã trở thành con nợ của chính

mình và phải trả nợ trong nhiều năm

tương lai trước mắt.

 

pdf 7 trang kimcuc 7100
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới

Phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và khủng hoảng kinh tế thế giới
 PHáT TRIểN VĂN HóA Và CON NGƯờI VIệT NAM TRONG 
BốI CảNH TOàN CầU HóA Và KHủNG HOảNG KINH Tế THế GIớI 
Đỗ Minh C−ơng (*) 
ấn đề phát triển văn hóa và con 
ng−ời Việt Nam đang đ−ợc thảo 
luận trong một bối cảnh đặc biệt: thế 
giới còn chao đảo trong cuộc khủng 
hoảng tài chính–kinh tế, trong n−ớc 
đang đối mặt với khó khăn của tình 
trạng giảm phát, thất nghiệp gia tăng 
và mối lo xung quanh việc tranh chấp 
biển, đảo với một số quốc gia láng 
giềng... Tình hình mới đã xuất hiện 
những thời cơ và thách thức của nó, 
đồng thời cũng bộc lộ rõ hơn những vấn 
đề và khía cạnh phức tạp cần đ−ợc phân 
tích, đánh giá cả từ ph−ơng diện nghiên 
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. 
1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và khía cạnh mới 
của kinh tế tri thức và văn hóa 
Toàn cầu hóa đã đ−ợc phân tích 
trong nhiều sách, báo và sự kiện truyền 
thông nh−ng mới hơn nửa năm trở lại 
đây vẫn làm cho chúng ta bất ngờ với 
tính nhiều mặt của nó. Sự phồn vinh 
mà nó đem lại hóa ra quá mong manh; 
trong nền kinh tế và đời sống xã hội của 
mỗi quốc gia là thành viên của WTO (kể 
cả nhiều n−ớc ch−a vào WTO) đều có 
hai phần thật và ảo: hàng hóa ảo, tiền 
ảo, tiềm năng ảo, tăng tr−ởng ảo và cả 
giá trị ảo. Trong điều kiện thuận lợi, khi 
con ng−ời có niềm tin vào sự chuyển đổi 
tiềm năng thành hiện thực thì cái ảo (ví 
dụ, tri thức, giá trị th−ơng hiệu, thị giá 
cổ phiếu và chỉ số tăng của thị tr−ờng 
chứng khoán...) có thể trở thành cái thật 
(tiền thật, giá trị hàng hóa...) sau một 
khoảng thời gian nhất định. Nh−ng khi 
niềm tin của những ng−ời tham gia giao 
dịch bị giảm thiểu hay bị sụp đổ thì cái 
ảo không thể trở thành cái thực, mặc dù 
phần đóng góp của nó đã đ−ợc tính đến 
trong các bảng cân đối tài sản và báo 
cáo tài chính của các công ty và đ−ợc trả 
l−ơng, đ−a vào tiêu dùng theo kiểu “đếm 
cua trong lỗ”. Cuộc khủng hoảng kinh tế 
thế giới, xuất phát từ khủng hoảng tài 
chính Mỹ, đang diễn ra cho thấy phần 
ảo đ−ợc tích tụ trong nhiều năm nay đã 
lớn hơn phần thật nhiều lần; ∗càng 
những n−ớc có nền kinh tế tri thức và 
công nghệ thông tin phát triển thì phần 
ảo càng nhiều; thế giới đã tiêu xài thực 
hơn rất nhiều so với cái có thể làm ra; 
con ng−ời đã trở thành con nợ của chính 
mình và phải trả nợ trong nhiều năm 
t−ơng lai tr−ớc mắt. Hoa Kỳ, một n−ớc 
có nền kinh tế phát triển nhất thế giới 
và là đầu tàu của trào l−u toàn cầu hóa 
và kinh tế tri thức, đã bộc lộ những mặt 
trái và điểm yếu căn bản trong khủng 
hoảng; từ một chủ nợ lớn cách đây hơn 
(∗)
 TS., Ban Tổ chức Trung −ơng. 
V
Phát triển văn hóa 
13
20 năm nay đã trở thành con nợ lớn 
nhất thế giới. Theo công bố của Bộ Tài 
chính Mỹ, thâm hụt ngân sách của n−ớc 
này trong năm tài chính 2008, tính từ 
1/10/2007 đến 30/9/2008, đã tăng gấp 3 
lần so với năm tr−ớc, chiếm 3,2% GDP. 
Dự đoán năm 2009 có thể lên đến 10-
12% GDP! Hoa Kỳ có một thể chế tài 
chính đ−ợc coi là hình mẫu của thế giới 
với tầng lớp học thuật, chuyên gia và 
tầng lớp quản trị doanh nghiệp tinh 
hoa, với các thiết chế quản lý vĩ mô 
hùng mạnh nh− Cục Dự trữ Liên bang 
(FED, hoạt động từ năm 1915), Uỷ ban 
Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC, thành lập 
năm 1934 với 3.798 nhân viên năm 
2007), các công ty kiểm toán, các công ty 
đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp 
hàng đầu thế giới... nh−ng cũng không 
có khả năng dự báo và ngăn chặn đ−ợc 
sự sụp đổ của các ngân hàng và công ty 
bảo hiểm lớn; cũng không kiểm soát 
đ−ợc các vụ lừa đảo tài chính có quy mô 
hơn 50 tỷ USD của Bernard Madoff, 
khoảng 8 tỷ USD của Allen Stanford (1). 
Ngoài n−ớc Mỹ cũng đã xuất hiện các vụ 
lừa đảo tài chính quy mô lớn nh− vụ lợi 
dụng công nghệ thông tin để giao dịch 
ảo làm mất 7,3 tỷ USD của Ngân hàng 
lớn thứ hai n−ớc Pháp Société Générale 
(SocGen) (2), Tập đoàn tin học Satyam 
đứng hàng thứ t− ấn Độ thừa nhận gian 
lận kế toán và tạo lợi nhuận ảo lên đến 
1 tỉ USD... 
Chính lòng tham của con ng−ời và 
sự phát triển v−ợt tr−ớc quá xa của công 
nghệ, tr−ớc hết là công nghệ thông tin 
và công nghệ tài chính, so với năng lực 
kiểm soát của các chính phủ là nguyên 
nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng 
tài chính-kinh tế hiện nay. 
Nguyên nhân của khủng hoảng xuất 
phát từ nhiều ph−ơng diện: kinh tế, 
chính trị, năng lực lãnh đạo-quản lý của 
chính quyền, khoa học-công nghệ và văn 
hóa. ở đây, chúng tôi muốn đi sâu vào 
nguyên nhân văn hóa và công nghệ. 
Một là, công nghệ thông tin, bao 
gồm tin học, viễn thông, Internet, mạng 
xã hội ảo, v.v... đã tạo ra một xã hội ảo 
tồn tại song song với xã hội thực và đã 
khiến con ng−ời ngày càng bị thu hút và 
phải phụ thuộc vào nó. Con ng−ời sẽ ra 
sao nếu vào ngày làm việc mà không có 
điện, điện thoại và mất Internet? Các 
công việc hiện đại ngày nay- thuộc về 
nền kinh tế tri thức - đều hoạt động dựa 
vào nguồn tài nguyên ảo và các công cụ 
ảo hóa thế giới hiện thực. Thông tin là 
hình ảnh chứ không phải là bản thân 
của hiện thực. Nh−ng công nghệ thông 
tin hiện đại đã tạo ra một thế giới ảo 
nhiều chiều (3D, 4D...) giống nh− thật 
và có −u điểm hơn thế giới thật về tốc độ 
và phạm vi tìm kiếm, truyền tải, phản 
ánh và trao đổi tri thức, giao dịch 
th−ơng mại, đầu t− và thanh toán tài 
chính... Đồng thời, với lĩnh vực hoạt 
động tài chính, với nhiều loại hàng hóa, 
dịch vụ, công cụ phức tạp, rất khó kiểm 
tra mức độ xác thực của các báo cáo, 
thông tin về lợi nhuận, tài sản và giá trị 
thực của các công ty, ngân hàng, quỹ 
đầu t−... Cái giả th−ờng lẫn lộn hoặc 
thay thế cái thực cả trong tr−ờng hợp vô 
tình và hữu ý. Tính chất hình ảnh của 
thông tin cộng với thế giới ảo của công 
nghệ đã tạo ra sự nhiễu loạn tâm thức 
và hành vi của con ng−ời, trong phạm vi 
cá nhân, tổ chức và xã hội; tạo ra các 
hành động “có tính bầy đàn” trong 
phạm vi quốc gia và toàn cầu. Tâm lý 
hoảng loạn và khả năng lan truyền 
mạnh mẽ của nó có thể làm sụp đổ 
nhiều ngân hàng và thị tr−ờng chứng 
khoán ngay cả ở các n−ớc phát triển. 
Có hai ví dụ tiêu biểu cho tình trạng 
này: (1) Vào lúc thị tr−ờng chứng khoán 
ở n−ớc ta lên cao nhất (tháng 2 đến 
8/3/2007), cổ phiếu của đa số các công ty 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2009 
14
trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ 
Chí Minh đã tăng từ 10 đến hơn 60 lần 
so với mệnh giá (10.000đ/CP), có một số 
tiếng nói đã cảnh báo về tình trạng thị 
tr−ờng phát triển quá nóng và hiện 
t−ợng bong bóng nh−ng đã bị công 
chúng nhà đầu t− phê phán là ý kiến 
thiếu tính xây dựng và bị bỏ qua, nay 
thị giá các cổ phiếu này có mức giảm 
trên d−ới 10 lần khiến các nhà đầu t− 
đó mất đi số tiền t−ơng ứng. Đáng tiếc 
là hầu hết công chúng đầu t− n−ớc ta là 
những nhà đầu t− cá nhân nhỏ lẻ đã 
đầu t− vào chứng khoán số tiền có 
nguồn gốc từ bán tài sản thực (đất đai, 
vàng...) hoặc từ tiết kiệm tiêu dùng của 
gia đình họ. Tình trạng giá cả bong 
bóng đã lây lan sang thị tr−ờng nhà đất. 
(2) Đến nay, chỉ số tăng, giảm của cả 
hai sàn giao dịch chứng khoán Việt 
Nam vẫn bị chi phối chủ yếu bởi sự tăng 
giảm của thị tr−ờng chứng khoán Mỹ 
cùng ngày kết thúc tr−ớc đó hơn là sự 
phụ thuộc của tình hình kinh doanh của 
các công ty niêm yết và tin tức từ nền 
kinh tế vĩ mô n−ớc ta. 
Hai là, toàn cầu hóa, xuất phát từ 
cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, tự 
do hóa th−ơng mại và đầu t−, đã hình 
thành nên các khuôn mẫu hành vi xã 
hội và lối sống có tính lan truyền, quốc 
tế hóa cao với tính cách nhiều mặt và 
khó l−ờng của nó. Trong cái văn hóa và 
“ph−ơng thức sinh hoạt” toàn cầu này, 
thật giả khó phân biệt, giá cả th−ờng 
lẫn lộn với giá trị, cái hay của nó thì ta 
không biết học hỏi, phát huy, còn cái dở, 
mặt trái của nó thì dễ bắt ch−ớc nên dễ 
bị thua thiệt với các n−ớc đi tr−ớc. Văn 
hóa khuyến khích tiêu dùng, “lối sống 
Mỹ” đã hiện diện và đ−ợc truyền bá ở 
n−ớc ta bằng nhiều con đ−ờng và hình 
thức khác nhau, nh− hàng hóa, phim 
ảnh, truyền hình, truyền thông, kinh 
nghiệm và lý luận kinh tế, kinh doanh 
v.v... Ng−ời Việt Nam dễ có ấn t−ợng với 
cách thức kích cầu từ doanh nghiệp đến 
nhà n−ớc và lối “tiêu dùng kiểu Mỹ”, 
th−ờng hiểu rằng các tỷ phú Mỹ sống 
rất sang trọng và tiêu xài hoang phí, 
song lại ít quan tâm đến sự chuyên cần, 
tiết kiệm cá nhân và hào phóng trong 
hoạt động từ thiện của những doanh 
nhân vĩ đại của n−ớc Mỹ. Hai năm gần 
đây số l−ợng xe “siêu sang” nhập khẩu 
cho các doanh nhân n−ớc ta đã khoảng 
50 chiếc, trị giá mỗi chiếc dao động 
trong khoảng từ 150 ngàn đến 1,35 
triệu USD, trong khi ng−ời giàu nhất 
thế giới là Bill Gate đến Việt Nam đi 
cùng đồng nghiệp từ sân bay Nội Bài về 
Hà Nội bằng chiếc xe minibus 16 chỗ 
ngồi, còn ng−ời giàu thứ hai thế giới là 
Warrant Buffet đang sử dụng một chiếc 
xe ô tô cũ có giá thị tr−ờng khoảng 10 
ngàn USD. Và chúng ta càng khó hiểu 
hơn khi cả hai tỷ phú này đều đã cam 
kết sẽ hiến tặng hơn 95% tài sản của họ 
cho các quỹ từ thiện của thế giới. Còn ở 
n−ớc ta có tỷ phú nào hiện nay có hảo 
tâm hiến tặng đến 1/3 tài sản của mình? 
 Sự cộng sinh, hợp lực giữa điện 
ảnh-văn hóa và kinh doanh của Hàn 
Quốc đã tạo ra một thứ hội chứng yêu 
thích hàng xứ Hàn tại Việt Nam, trong 
khi hình ảnh Việt Nam ở n−ớc họ lại 
chủ yếu là các cô dâu Việt văn hóa thấp 
và bộ phận tu nghiệp sinh lao động bất 
hợp pháp (phá hợp đồng). Điều đáng lo 
ngại là trong thời gian gần đây, “th−ơng 
hiệu quốc gia” của Việt Nam bị giảm giá 
do tình trạng tham nhũng có tổ chức (vụ 
PCI – Dự án Đại lộ Đông – Tây là một ví 
dụ), sự thiếu tự trọng dân tộc và thói vô 
đạo đức trong kinh doanh nh− làm hàng 
giả, hàng nhái, lạm dụng hóa chất có 
hại tới sức khỏe con ng−ời trong các mặt 
Phát triển văn hóa 
15
hàng thực phẩm xuất khẩu và tiêu dùng 
trong n−ớc... 
Thực tế cho thấy, các giá trị và bản 
sắc văn hóa dân tộc ch−a tạo ra đ−ợc bộ 
lọc loại bỏ những ảnh h−ởng tiêu cực và 
phát huy đ−ợc mặt tích cực của tiến 
trình toàn cầu hóa để đ−a n−ớc ta vào 
quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. 
Mặc dù có nhiều thành tích trong tăng 
tr−ởng kinh tế trong gần hai thập kỷ trở 
lại đây nh−ng chúng ta ch−a tạo ra đ−ợc 
mô hình phát triển thành công có thể so 
sánh với cách làm của Nhật Bản, Hàn 
Quốc, Singapore, Đài Loan, Hong Kong. 
Nói cách khác, đáng lẽ cần học theo sự 
thành công của mô hình Đông á, hiện 
nay ph−ơng thức phát triển kinh tế của 
Việt Nam lại giống mô hình Đông Nam 
á nhiều hơn. 
II. Quan điểm mới về phát triển văn hóa, con 
ng−ời và dân tộc 
Trong khủng hoảng luôn có những 
cơ hội; những n−ớc đi tr−ớc bị khủng 
hoảng có thể là cơ hội tốt cho những 
n−ớc đi sau học hỏi, rút kinh nghiệm và 
tiến lên; tình thế khó khăn không còn 
đ−ờng lùi cũng tạo ra cơ hội để chúng ta 
phải đổi mới thể chế quản lý nền kinh tế 
và cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp để 
tạo ra hiệu quả chung. Vậy cuộc khủng 
hoảng kinh tế đang diễn ra ở Mỹ, thế 
giới và trong n−ớc giúp chúng ta rút ra 
những nhận thức gì có ý nghĩa ph−ơng 
pháp luận, có ích cho sự phát triển văn 
hóa và con ng−ời Việt Nam? Theo chúng 
tôi, đó là: 
1, Cần nhận thức đầy đủ hơn về văn 
hóa và vai trò của nó đối với sự phát triển 
của con ng−ời và dân tộc Việt Nam 
Văn hóa, theo nghĩa rộng nhất, “là 
sự tổng hợp của mọi ph−ơng thức sinh 
hoạt cùng với những biểu hiện của nó 
mà loài ng−ời đã sản sinh ra nhằm 
thích ứng những nhu cầu đời sống và 
đòi hỏi của sự sinh tồn” (3, tr.431). Nói 
cách khác, văn hóa là sự nhân cách hóa 
của con ng−ời với thế giới khách quan, 
là sản phẩm của tình cảm, trí tuệ con 
ng−ời. Con ng−ời là “một loài động vật 
có văn hóa” nên chúng ta th−ờng đồng 
nhất đời sống con ng−ời với đời sống hay 
ph−ơng diện văn hóa của nó. Đó là một 
sự trừu t−ợng hóa quá mức dẫn đến sai 
lầm trong nhận thức và hành động. 
Trong hiện thực, tr−ớc khi có đời sống 
văn hóa, con ng−ời văn hóa, đã có con 
ng−ời tiền văn hóa, con ng−ời mang 
nặng tính bản năng với các nhu cầu 
sinh lý và rất cơ bản của họ là ăn, mặc, 
ở, đi lại vào mức trung bình của xã hội 
đ−ơng thời. Nếu ch−a giải quyết đ−ợc 
các nhu cầu rất cơ bản của con ng−ời thì 
rất khó đòi hỏi họ có đ−ợc đời sống văn 
hóa phong phú hay những hành vi nhân 
văn cao cả. Trong thời kỳ toàn cầu hóa, 
sẽ là ngây thơ và ảo t−ởng khi mong 
muốn xây dựng một tổ chức hay xã hội 
có mức phát triển kinh tế thấp, đời sống 
vật chất nghèo nh−ng lại có đời sống 
văn hoá cao. Văn hóa dân gian đã tổng 
kết vấn đề này trong ca dao, tục ngữ; 
chẳng hạn, “đói ăn vụng, túng làm càn”; 
“đói thì đầu gối phải bò”... K. Marx cũng 
nói đến “hành vi lịch sử đầu tiên” và 
tình trạng “bị tha hóa” của con ng−ời; 
con ng−ời tr−ớc hết cần có cái để ăn, 
mặc, ở tr−ớc khi có thể sáng tác thơ và 
sinh hoạt tôn giáo, triết học... Khi xã hội 
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế 
dễ dẫn đến khủng hoảng niềm tin, t− 
t−ởng, lý luận... và chúng ta phải chủ 
động phòng chống với các nguy cơ hành 
vi lệch chuẩn tăng cao. Vì vậy, văn hóa 
phải vì sự phát triển của con ng−ời hiện 
thực, tr−ớc hết trong đời sống kinh tế, 
chứ không phải để kìm hãm các nhu cầu 
phát triển tự nhiên của con ng−ời bằng 
các quan điểm, quy chuẩn giáo điều và 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2009 
16
cứng nhắc. Cũng không nên kỳ vọng 
quá cao rằng nền văn hóa dân tộc có 
bản sắc sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh 
và sự khác biệt của các doanh nghiệp 
n−ớc ta trên thị tr−ờng toàn cầu. 
Văn hóa cũng có tính ảo và mặt ảo 
so với hiện thực khách quan. Nền văn 
hóa nào cũng có tính hai mặt; có yếu tố 
tạo sự ảo giác, tự bằng lòng và tính bảo 
thủ. Đối với các quá trình hoạt động 
thực tiễn và phát triển, văn hóa th−ờng 
tồn tại d−ới dạng tiềm năng trong các cá 
nhân, cộng đồng. Nếu các chủ thể lãnh 
đạo, quản lý không có khả năng khai 
thác, phát huy nguồn tài nguyên tiềm 
ẩn này thì văn hóa dân tộc mãi vẫn là 
một nguồn lực ảo hay một thứ “quy 
hoạch treo” phi thực tiễn, thậm chí nó 
có thể tự phát tạo nên hình thức “văn 
hóa xấu”, “văn hóa yếu” hoặc văn hóa 
phản văn minh, cản trở sự phát triển. 
Nhận thức về vai trò tích cực của 
văn hóa dân tộc n−ớc ta đã có sự đồng 
thuận xã hội theo tinh thần của Nghị 
quyết Đại hội VIII của Đảng, năm 1996: 
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã 
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực 
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội” 
(4, tr.10). Nh−ng vấn đề cần tiếp tục 
làm rõ thêm là nội hàm của cụm từ “nền 
tảng tinh thần” là gì? Mặt trái, ảnh 
h−ởng tiêu cực của văn hóa dân tộc đối 
với sự phát triển của dân tộc ta hiện 
nay là gì? Mối quan hệ giữa hai mặt của 
văn hóa n−ớc ta đang diễn ra nh− thế 
nào? Tại sao trong giai đoạn hiện nay 
chúng ta không phát huy đ−ợc sức 
mạnh của văn hóa dân tộc nh− trong 
hai cuộc kháng chiến chống thực dân 
Pháp và đế quốc Mỹ? 
2, Cần bổ sung nhận thức về vai trò 
“bộ lọc”, “phanh hãm” và “van xả” của 
văn hóa đối với con ng−ời trong lĩnh vực 
hoạt động kinh tế, kinh doanh 
Chúng tôi đã nhiều lần luận chứng 
rằng văn hóa dân tộc là mục tiêu, là động 
lực, là linh hồn và hệ điều tiết phát triển 
của các quốc gia; văn hóa kinh doanh là 
một nguồn lực và cách thức phát triển 
kinh doanh bền vững; kinh doanh có văn 
hóa có thể tạo ra sự giàu có lâu bền cho 
chủ thể (xem thêm: 5, tr.46-55; tr.72-77). 
Thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội n−ớc 
ta hơn 20 năm qua cho thấy rất khó thực 
hiện đ−ợc lý luận này và vai trò tích cực 
của văn hóa không chỉ có nh− vậy. Nay 
cần nhận thức thêm các vai trò hay chức 
năng của văn hóa đối với đời sống các cá 
nhân và cộng đồng: 
Bộ lọc của văn hóa là cách nói hình 
t−ợng về khả năng tiếp thu có chọn lọc 
của các chủ thể văn hóa dân tộc với các 
nền văn hóa, văn minh từ bên ngoài 
trong quá trình giao l−u kinh tế và văn 
hóa. Phanh hãm của văn hóa là khả 
năng bảo tồn và điều chỉnh trong một 
giới hạn an toàn của bản sắc dân tộc 
tr−ớc nguy cơ phát triển quá nhanh, 
quá nóng, tăng tr−ởng cao song kém 
hiệu quả và chất l−ợng của nền kinh tế 
có thể khuyến khích lối kinh doanh tối 
mắt vì các lợi ích ngắn hạn “đổi văn hóa 
lấy sự tăng tr−ởng kinh tế”. Van xả của 
văn hóa là nói về chức năng bình ổn, 
giải tỏa những bức xúc, stress... của văn 
hóa (nghệ thuật, thể thao, niềm tin tôn 
giáo...) để chủ thể văn hóa có một cuộc 
sống cân bằng, an lạc, hạnh phúc. Biết 
hít thở, c−ời, nghỉ ngơi... đúng cách cũng 
là những kỹ năng làm tăng thêm chất 
l−ợng cuộc sống. 
 Trong lối sống, văn hóa của mỗi 
dân tộc có sắc thái và mức độ khác nhau 
về ba yếu tố trên. Ví dụ, văn hóa Mỹ có 
bộ lọc mạnh (văn hóa của “cái nồi hầm 
nhừ”), nh−ng yếu về khả năng phanh 
hãm và van xả; Mỹ có tỷ lệ ng−ời mất 
kiểm soát bản thân cao khi bị khủng 
Phát triển văn hóa 
17
hoảng dẫn đến nhiều vụ giết ng−ời, tự 
sát. Nhật Bản có nền văn hóa làm bộ lọc 
và phanh hãm tốt nh−ng hệ thống van 
xả có vấn đề với hội chứng karôsi và tỷ 
lệ doanh nhân tự sát khá cao. Còn văn 
hóa Việt Nam? Dễ nhận thấy, chúng ta 
là một dân tộc sống lạc quan, có van xả 
tốt nh−ng bộ lọc và hệ thống phanh hãm 
rất khó đánh giá chất l−ợng. Nếu nhìn 
vào việc chính quyền Hà Nội đã cấp 
phép cho xây khách sạn ở công viên 
Thống Nhất và cách tổ chức lễ hội Chùa 
H−ơng, Yên Tử... thì d−ờng nh− chúng 
ta sẵn sàng bỏ văn hóa và môi tr−ờng 
trong lành để lấy kinh tế. Chúng ta cần 
sự phát triển có văn hóa, cần các nhân 
tố văn hóa trở thành động lực để phát 
triển kinh tế, song cũng cần cả chức 
năng bộ lọc, phanh hãm và van xả của 
văn hóa - đó là vai trò dự trữ sinh quyển 
của văn hóa cho đời sống trong lành và 
an lạc của con ng−ời Việt Nam. 
3, Thực hiện chính sách −u tiên lợi 
ích dân tộc, quốc gia trong một thế giới 
toàn cầu hóa 
Giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích 
dân tộc và quốc gia không chỉ là bài 
toán khó đối với các nhà chính trị mà 
còn là một thách đố với giới khoa học và 
mối quan ngại của nhân dân. Từ năm 
1924 quan điểm chủ nghĩa dân tộc “là 
động lực lớn của đất n−ớc” của lãnh tụ 
Nguyễn ái Quốc (6, tr.465) chỉ là thiểu 
số so với quan điểm của Quốc tế Cộng 
sản về cuộc cách mạng vô sản trên toàn 
thế giới với ảnh h−ởng lớn của nó trong 
phong trào và chủ nghĩa xã hội hiện 
thực kéo dài 65 năm sau đó - tới khi 
Liên Xô tan rã với sự phát triển chủ 
nghĩa dân tộc nhiều màu sắc, trong đó 
có hình thức cực đoan. ở Việt Nam 
trong thời kỳ Đổi mới, chủ tr−ơng của 
Đảng phát huy tinh thần- chủ nghĩa 
yêu n−ớc có hàm ý đó là chủ nghĩa dân 
tộc theo nghĩa không hẹp hòi, cực đoan; 
chúng ta nói nhiều về nội lực trong n−ớc 
là quyết định, ngoại lực quốc tế là quan 
trọng nh−ng vẫn ch−a chỉ rõ đ−ợc quan 
hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích nhân 
loại trong chính sách; dùng cụm từ “giải 
quyết hài hòa” cũng ch−a t−ờng minh. 
Thế nào là giải quyết hài hòa quan hệ 
giữa dân tộc và quốc tế, nhân loại? 
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế thì xu h−ớng chủ nghĩa 
dân tộc càng nổi lên rõ nét; lối sống 
khoan dung, cộng sinh và tôn trọng sự 
khác biệt của ng−ời khác đ−ợc thế giới 
tôn trọng và truyền bá nh− một văn hóa 
ứng xử - văn hóa chính trị chuẩn mực. 
Việc Na Uy, Thụy Sỹ không gia nhập 
EU, n−ớc Anh không thay thế đồng 
Bảng của mình bằng Euro... là xuất 
phát từ các giá trị tự do và dân chủ 
trong chính trị và bản lĩnh của giới cầm 
quyền chứ không phải vì một phong 
trào toàn thế giới hay vì lợi ích tr−ớc 
mắt của các bên hữu quan. Hệ thống bộ 
lọc và phanh hãm của nền văn hóa các 
n−ớc này rõ ràng là mạnh. 
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu 
rộng hơn vào tiến trình toàn cầu hóa 
kinh tế và tự do hóa th−ơng mại. Đã đến 
lúc chúng ta cần khẳng định lợi ích dân 
tộc là cơ sở quan trọng nhất trong các 
chính sách đối ngoại và an ninh quốc 
gia; chủ nghĩa dân tộc là nguồn động lực 
vào loại lớn nhất cần đ−ợc nuôi d−ỡng 
và phát huy. Những kinh nghiệm và bài 
học lịch sử cho thấy, nhà n−ớc nào cũng 
xây dựng đ−ờng lối, chính sách và dùng 
nhiều biện pháp nhằm bảo vệ cho lợi ích 
của dân tộc mình; phần lớn các chính 
phủ văn minh vẫn sẵn sàng “nói một 
đằng làm một nẻo” nếu điều đó có lợi 
cho đất n−ớc họ. Liên quan tới lợi ích 
quốc gia, dân tộc thì kinh tế đ−ợc −u 
tiên hơn văn hóa; văn hóa th−ờng đ−ợc 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2009 
18
sử dụng nh− một công cụ để đạt tới các 
mục tiêu chính trị và kinh tế (chính 
sách ngoại giao bóng bàn, ngoại giao 
bằng dàn nhạc giao h−ởng, v.v...). 
Không thể vì tình cảm hay tình nghĩa 
giữa các giới cầm quyền mà nh−ợng bộ lợi 
ích chính trị và kinh tế lâu dài, tr−ớc hết 
là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và độc lập 
dân tộc. Trong việc giải quyết vấn đề 
tranh chấp chủ quyền hai quần đảo 
Hoàng Sa, Tr−ờng Sa và biên giới trên 
biển của n−ớc ta hiện nay, chúng tôi nhất 
trí với nhận định của Hội thảo “Tranh 
chấp chủ quyền tại Biển Đông: Lịch sử, 
Địa chính trị và Luật pháp quốc tế” do 
Học viện Ngoại giao tổ chức ngày 
17/3/2009 rằng: Khả năng tiến hành 
th−ơng l−ợng hoà bình về chủ quyền giữa 
các n−ớc có tranh chấp đ−ợc đề cập đến 
nh−ng tính khả thi không đ−ợc đánh giá 
cao do không n−ớc nào muốn nhân 
nh−ợng về chủ quyền. Đồng thời chúng 
tôi cũng đồng thuận với các khuyến nghị 
chính của Hội thảo nh− sau: 
- Đấu tranh bảo vệ chủ quyền của 
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, 
Tr−ờng Sa, biển Đông dựa trên hai sức 
mạnh là dân tộc và thời đại. Dân tộc: là 
khối đại đoàn kết dân tộc (trong và 
ngoài n−ớc); và Thời đại là luật pháp 
quốc tế, tính chính nghĩa của Việt Nam. 
- Quốc hội cần thông qua luật về chủ 
quyền đối với Hoàng Sa - Tr−ờng Sa. 
Chính phủ cần có chiến l−ợc biển toàn 
diện và đồng bộ, liên quan đến nhiều 
lĩnh vực, trong đó chú ý đến việc hiện 
đại hóa quân đội nhằm tăng c−ờng sức 
mạnh răn đe. 
- Nên 4 hóa vấn đề tranh chấp ở 
Biển Đông: Xã hội hóa, Công khai hóa, 
Quốc tế hóa và Phi nhạy cảm hóa. 
- Phải xây dựng đ−ợc hồ sơ pháp lý 
đầy đủ về vấn đề này dùng để đấu tranh 
chính trị, tuyên truyền, đàm phán và 
lúc cần cho việc phân xử tại Tòa án quốc 
tế (7). 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế không nên có ảo t−ởng về 
chủ nghĩa quốc tế thay thế cho chủ 
nghĩa dân tộc, tình hữu nghị và cách 
ứng xử văn hóa cao hơn các lợi ích kinh 
tế-chính trị. Lợi ích dân tộc vẫn là “hệ 
điều hành” và động lực của các hoạt 
động và quá trình chính trị, kinh tế, 
ngoại giao... của một quốc gia. Nguồn 
lực to lớn nhất của n−ớc ta chính là sức 
mạnh đại đoàn kết dân tộc, bao gồm cả 
cộng đồng ng−ời Việt Nam ở trong và 
ngoài n−ớc; sức mạnh của quốc tế, nhân 
loại tr−ớc hết là từ luật pháp và văn hóa 
thế giới. Kết hợp cả hai sức mạnh này 
một cách sáng suốt, khôn ngoan vì mục 
tiêu phát triển con ng−ời, dân tộc Việt 
Nam một cách toàn diện, bền vững là 
một triết lý chính trị của chúng ta. 
Tài liệu tham khảo 
1. 
/02/829736/ 
2. 
bien-vu-lua-dao-tai-chinh-lon-nhat-
nuoc-Phap/30216753/87/ 
3. Hồ Chí Minh toàn tập (T.3). H.: 
Chính trị quốc gia, 1995. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII. H.: Chính trị quốc gia, 1996. 
5. Đỗ Minh C−ơng. Văn hóa kinh 
doanh và triết lý kinh doanh. H.: 
Chính trị quốc gia, 2001. 
6. Hồ Chí Minh toàn tập (T.1). H.: 
Chính trị quốc gia, 2000. 
7. Trần Tr−ờng Thủy. Những khuyến 
nghị sau Hội thảo Biển Đông. 
lieusuyngam/6428/index.aspx 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_van_hoa_va_con_nguoi_viet_nam_trong_boi_canh_toan.pdf