Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)

Là một trong 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người, dân tộc Lự hiện chỉ còn 5.601 khẩu (Theo

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Họ cư trú tập trung ở Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai

Châu. Người Lự vốn có truyền thống sinh hoạt kinh tế là làm nương, dệt vải, săn bắn hái lượm.

Tuy nhiên, người Lự ở Lai Châu nói chung và ở Bản Hon (huyện Tam Đường – Lai Châu) nói

riêng hiện nay đã tiếp cận đến một hướng sinh kế mới, đó là du lịch cộng đồng. Bản Hon không

chỉ hấp dẫn du khách vì cảnh quan đẹp mà hơn tất cả chính là các giá trị văn hóa của đồng bào Lự

vẫn được giữ gìn, trao truyền như một bảo tàng sống động. Người Lự Bản Hon đã biết “xuất khẩu

tại chỗ” các giá trị văn hóa ấy bằng công cụ “du lịch cộng đồng” để cải thiện và nâng cao chất

lượng cuộc sống, giảm nghèo bền vững.

pdf 8 trang kimcuc 2360
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)

Phát triển du lịch cộng đồng trở thành sinh kế bền vững ở Lai Châu (nghiên cứu trường hợp người lự ở bản Hon - Tam Đường – Lai Châu)
ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 157 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TRỞ THÀNH SINH KẾ BỀN VỮNG 
Ở LAI CHÂU (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NGƯỜI LỰ 
Ở BẢN HON - TAM ĐƯỜNG – LAI CHÂU) 
Hoàng Thị Phương Nga*, Nguyễn Hồng Vân 
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Là một trong 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người, dân tộc Lự hiện chỉ còn 5.601 khẩu (Theo 
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Họ cư trú tập trung ở Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai 
Châu. Người Lự vốn có truyền thống sinh hoạt kinh tế là làm nương, dệt vải, săn bắn hái lượm. 
Tuy nhiên, người Lự ở Lai Châu nói chung và ở Bản Hon (huyện Tam Đường – Lai Châu) nói 
riêng hiện nay đã tiếp cận đến một hướng sinh kế mới, đó là du lịch cộng đồng. Bản Hon không 
chỉ hấp dẫn du khách vì cảnh quan đẹp mà hơn tất cả chính là các giá trị văn hóa của đồng bào Lự 
vẫn được giữ gìn, trao truyền như một bảo tàng sống động. Người Lự Bản Hon đã biết “xuất khẩu 
tại chỗ” các giá trị văn hóa ấy bằng công cụ “du lịch cộng đồng” để cải thiện và nâng cao chất 
lượng cuộc sống, giảm nghèo bền vững. 
Từ khóa: Người Lự; Bản Hon; du lịch cộng đồng; sinh kế; giảm nghèo. 
Ngày nhận bài: 16/4/2019; Ngày hoàn thiện: 17/6/2019; Ngày duyệt đăng: 18/6/2019 
DEVELOPMENT COMMUNITY TOURISM TO BECOME SUSTAINABLE 
LIVING FOR THE LU ETHNIC IN BAN HON (TAM DUONG – LAI CHAU) 
 Hoang Thi Phuong Nga*, Nguyen Hong Van 
TNU - University of Sciences 
ABSTRACT 
As one of the 16 ethnic groups, under 10,000 people, the Lu ethnic is currently only 5,601 people 
(according to General census and Housing in 2009). They are concentrated in Phong Tho and in Sin 
Ho district, Lai Chau province, including Ban Hon village (Tam Duong-Lai Chau). In addition to the 
traditional economic activity as the eater, textile and hunting, the hunter, today of the Lu ethnic has 
a new livelihood, it is a community tourism. Ban Hon village is not only attractive tourists because of 
the beautiful landscape but also all the traditional cultural values. They are still preserved, conferred 
as a lively museum. The Lu ethnic has known to export cultural value on-premises by "community 
tourism" tool to improve and enhance the quality of life and sustainable poverty. 
Keywords: Lu ethnic; Ban Hon; community tourism; livelihood; reduce poverty. 
Received: 16/4/2019; Revised: 17/6/2019; Approved: 18/6/2019 
* Corresponding author. Email: ngahtp@tnus.edu.vn
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 158 
1. Sinh kế bền vững với người dân tộc thiểu số 
Sinh kế bền vững đang là mối quan tâm hàng 
đầu của người dân, đặc biệt là đồng bào dân 
tộc thiểu số. Hiện Việt Nam có 16 dân tộc rất 
ít người, với số dân dưới 10.000 người, bao 
gồm: Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Si La, 
Ngái, Cống, Bố Y, Cơ Lao, Lô Lô, Mảng, Lự, 
Chứt, Pà Thẻn, La Ha, La Hủ. Đây là những 
tộc người có điều kiện sống vô cùng khó 
khăn, địa bàn sinh sống chủ yếu ở vùng sâu, 
vùng xa, giao thông đi lại không thuận tiện. 
Họ có tỷ lệ hộ thuộc diện đói nghèo cao, khả 
năng tự bảo tồn, phát huy văn hóa truyền 
thống rất hạn chế. Vì vậy, việc tìm kiếm và 
ứng dụng mô hình sinh kế bền vững trở thành 
điều cấp thiết đối với đồng bào, trong đó có 
người dân tộc Lự. 
Trong bối cảnh, đa phần các dân tộc thiểu số 
rất ít người hầu như đều thiếu tư liệu sản xuất, 
hiếm cơ hội tiếp cận các tiến bộ về khoa học 
trong sản xuất nông/ lâm nghiệp; thu nhập của 
đồng bào chỉ cố gắng đảm bảo nhu cầu cuộc 
sống tối thiểu thì người Lự ở xã Bản Hon 
(Tam Đường – Lai Châu) đã tìm được một 
hướng đi mới – đó là du lịch cộng đồng. Họ 
đã khai thác chính giá trị văn hóa truyền 
thống của mình để tạo sức hấp dẫn đối với du 
khách du trong nước và quốc tế. Hiện nay, 
bên cạnh phương thức sinh hoạt kinh tế 
truyền thống là săn bắt, hái lượm, dệt vải thì 
người Lự Bản Hon đã “làm du lịch”. Sinh kế 
mới này đã giúp cộng đồng tạo công ăn, việc 
làm, có thêm thu nhập. 
2. Du lịch cộng đồng là sinh kế bền vững 
cho đồng bào dân tộc thiểu số 
Người đầu tiên sử dụng khái niệm Sinh kế 
(livelihood) là Robert Champer với nghĩa như 
sau: “sinh kế gồm năng lực, tài sản, cách tiếp 
cận (sự dự trữ, tài nguyên, quyền sở hữu, 
quyền sử dụng) và các hoạt động cần thiết 
cho cuộc sống” [1]. Trong khung phân tích 
sinh kế bền vững của DFID thì “sinh kế bao 
gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả 
các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt 
động để kiếm sống” [2]. Nhìn một cách toàn 
diện hơn, sinh kế chính là hoạt động kiếm 
sống của con người thông qua việc sử dụng 
các nguồn lực (con người, tự nhiên, vật chất, 
tài chính, xã hội) trong một môi trường dễ 
bị tổn thương có sự quản lý của các tổ chức, 
định chế, chính sách. Và khi hoạt động sinh 
kế thích ứng, hoặc tránh được các tác động 
tiêu cực từ môi trường dễ bị tổn thương, đồng 
thời bảo đảm duy trì, phát triển được các 
nguồn lực trong cả hiện tại và tương lai thì 
được coi là sinh kế bền vững. Cách tiếp cận 
sinh kế bền vững là lấy con người làm trung 
tâm rất hữu ích trong việc giải quyết xóa đói 
giảm nghèo, phát triển nông thôn, ứng phó 
với những trường hợp khẩn cấp, 
Ở Việt Nam, đối với vùng đồng bào dân tộc 
thiểu số, công tác giảm nghèo nói chung và 
việc xây dựng mô hình sinh kế bền vững nói 
riêng là nhiệm vụ cấp bách. Trong nhiều năm 
qua, thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc 
gia Giảm nghèo bền vững”, Chính phủ đã ban 
hành nhiều Nghị quyết, Nghị định, Quyết 
định, đồng thời các tỉnh, thành phố cũng đã 
ban hành nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ hộ 
nghèo, cận nghèo, phù hợp với đặc điểm của 
từng địa phương. Cùng với đó, ưu tiên nguồn 
lực đầu tư hỗ trợ tạo sinh kế và phát triển 
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; cải 
cách thủ tục hành chính và phương thức để 
người dân, cộng đồng tham gia và tiếp cận 
chính sách giảm nghèo; đẩy mạnh công tác 
tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự 
vươn lên thoát nghèo. Trong đó, đẩy mạnh 
các cơ chế, giải pháp tác động nhằm nâng cao 
khả năng tiếp cận của người dân đối với các 
dịch vụ xã hội cơ bản theo hướng tiếp cận đa 
chiều; cơ chế, giải pháp lồng ghép nguồn lực 
thực hiện 21 chương trình có mục tiêu với Kế 
hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc 
gia giảm nghèo. 
Trong các mô hình sinh kế cho đồng bào dân 
tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, du lịch cộng 
đồng nổi lên như một mô hình kiểu mẫu nhằm 
cải thiện sinh kế, tạo nguồn thu nhập bền vững 
và cơ hội việc làm cho cộng đồng dân tộc thiểu 
số. Bên cạnh đó cũng cải thiện điều kiện vệ 
sinh làng bản, bảo vệ môi trường tự nhiên và 
góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi 
một trong những đặc điểm của du lịch là “tạo 
ra rất nhiều việc làm và là nguồn phát triển 
quan trọng và việc làm, đặc biệt cho những đối 
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 159 
tượng khó tiếp cận thị trường lao động như 
phụ nữ, thanh niên, lao động nhập cư và cư 
dân nông thôn. Du lịch có thể đóng góp đáng 
kể vào phát triển kinh tế xã hội và giảm 
nghèo” [3]. Đây là mô hình sinh kế bền vững 
bởi vừa giữ gìn bản sắc của dân tộc, vừa không 
phá vỡ cảnh quan, gắn phát triển kinh tế với 
bảo tồn văn hóa, xóa đói giảm nghèo. Bởi bản 
chất của du lịch cộng đồng là loại hình du lịch 
được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa 
của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, 
tổ chức khai thác và hưởng lợi [4]. Nhìn nhận 
theo khía cạnh giảm nghèo, Tổ chức Lao động 
thế giới cũng đánh giá “du lịch cộng đồng là 
loại hình du lịch mà người dân địa phương 
(thường là nông dân, người nghèo và những 
người bị thiệt thòi về kinh tế) mời du khách 
đến thăm cộng đồng của họ, bằng cách đó 
cung cấp cơ sở vật chất và các hoạt động du 
lịch cho du khách” [3]. Hiện nay, du lịch cộng 
đồng đang được coi là loại hình du lịch mang 
lại nhiều lợi ích phát triển kinh tế bền vững 
nhất cho địa phương. 
Cả nước có nhiều mô hình du lịch cộng đồng 
phát triển khá thành công ở các vùng miền núi 
có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống 
như ở Lào Cai, Hà Giang v.v.. Những mô hình 
này đã mang lại hiệu quả thiết thực, không chỉ 
phát huy được thế mạnh văn hoá bản địa của 
các dân tộc, mà còn góp phần xoá đói giảm 
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của 
đồng bào dân tộc thiểu số. Việc phát triển các 
sản phẩm du lịch cộng đồng là phù hợp với xu 
thế thời đại, đáp ứng nhu cầu khám phá của 
đông đảo du khách muốn tìm hiểu văn hoá dân 
tộc đặc sắc. Tuy nhiên, muốn du lịch cộng 
đồng phát triển cần giữ nguyên gốc, nguyên 
sơ, chất phác chân thực của văn hoá bản địa, 
đó là giá trị cốt lõi của cộng đồng, không để 
đánh mất nó. Để giảm nghèo cho đồng bào dân 
tộc thiểu số nói riêng và phát triển kinh tế địa 
phương nói chung, cũng như tôn trọng những 
giá trị bản địa, giá trị cộng đồng thì loại hình 
du lịch cộng đồng sẽ là mô hình sinh kế đúng 
hướng và bền vững. 
3. Du lịch cộng đồng – mô hình sinh kế bền 
vững ở Bản Hon 
Bản Hon là một xã nông nghiệp, nằm ở phía 
Tây Nam huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu, 
có tổng diện tích đất tự nhiên là 5.443,06 ha. 
Dân số 2.471 người, trong đó, dân tộc Lự 
chiếm 90%. Với vị trí địa lý phía Bắc giáp xã 
Hồ Thầu huyện Tam Đường tỉnh Lai Châu; 
phía Nam giáp với xã Khun Há huyện Tam 
Đường tỉnh Lai Châu; phía Tây giáp với xã 
Bản Giang huyện Tam Đường và huyện Sìn 
Hồ; phía Đông giáp với xã Bình Lư huyện 
Tam Đường tỉnh Lai Châu. Trong đó, điểm 
du lịch văn hóa cộng đồng Bản Hon nằm trên 
xã Bản Hon gồm Bản Hon 1 (88 hộ) và Bản 
Hon 2 (69 hộ) với hơn một trăm ngôi nhà sàn 
được bảo tồn nguyên trạng, cùng với nghề dệt 
và những tập tục sinh hoạt văn hóa đậm đà 
bản sắc của đồng bào dân tộc Lự. 
3.1. Sức hấp dẫn từ văn hóa truyền thống 
của người Lự ở Bản Hon 
Người Lự định cư ở gần sông, suối và sinh sống 
bằng nghề trồng lúa nước; chăn nuôi; đan lát; 
dệt, thêu vải... Cuộc sống của người Lự giản dị 
nhưng luôn ẩn chứa sự tinh tế, thể hiện rõ nét 
qua kiến trúc nhà sàn, nghề thủ công, trang phục 
truyền thống và tục nhuộm răng đen 
Nhà ở của người Lự là nhà sàn, có 1 cầu 
thang. Căn nhà có mái phía sau ngắn hơn, còn 
mái phía trước kéo dài xuống che cả hàng 
hiên và cầu thang. Gầm sàn sạch sẽ, hầu hết 
các gia đình dùng làm nơi để trữ củi khô, 
khung cửi và một số đồ dùng khác. Bên trong 
nhà sàn của người Lự thường dành 1 gian 
giữa để thờ cúng và con dâu trong gia đình 
không được vào gian này. Nhà bếp thì nối 
trực tiếp với căn nhà chính, do vậy khi bước 
chân vào nhà thì thấy ngay nhà ở và nhà bếp 
là một thể liên hoàn không tách rời nhau. 
Từ lâu đời, đồng bào đã biết trồng bông, nuôi 
tằm kéo sợi dệt vải để phục vụ cho nhu cầu 
may mặc của cộng đồng. Đa số phụ nữ Lự 
đều giỏi trong nghề dệt vải, thêu thùa. Người 
con gái trước khi lấy chồng đều thành thạo 
công việc may vá, thêu dệt, đồng bào lấy đó 
làm thước đo sự khéo léo, tiêu chuẩn đánh giá 
vai trò của một người phụ nữ trong gia đình 
cũng như trong bản. Tại Bản Hon, huyện Tam 
Đường, người dân vẫn tự dệt và mặc trang 
phục truyền thống. Bản Hon hiện có 100% hộ 
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 160 
dân lưu giữ nghề dệt truyền thống của dân 
tộc, dưới từng mái nhà của người Lự đều có 
từ 1 đến 3 khung dệt để người phụ nữ dệt váy, 
áo cho mình và những đồ dùng sinh hoạt cho 
cả gia đình. Sản phẩm dệt của người Lự khá 
phong phú về chủng loại và trang trí hoa văn, 
họa tiết rất độc đáo. Ngoài quần áo, váy, 
người Lự còn sản xuất các loại túi, khăn, 
địu... Hầu như các thành phẩm từ nghề dệt 
truyền thống của người Lự đều được làm hết 
sức tỉ mỉ, thủ công ngay từ việc chọn nguyên 
liệu đến tìm kiếm màu sắc từ thiên nhiên để 
nhuộm chàm cho trang phục. 
Hình 1. Người Lự ở Bản Hon 
(Nguồn: Báo Lai Châu) 
Phụ nữ Lự ăn mặc đẹp và cầu kỳ. Bộ trang 
phục truyền thống gồm khăn đội, áo váy, thắt 
lưng cùng với bộ trang sức đi kèm. Áo tứ thân 
dài tay may bằng vải chàm, được ghép liên 
kết với nhau từ 6 miếng vải cắt theo hình rẻ 
quạt làm cho chiếc áo có vạt xòe rộng so với 
eo. Hai bên vạt áo được đính hai dây vải hoa, 
dải dây bên sườn phải có 5 tua bằng sợi len 
các màu có xâu hạt cườm. Chiếc áo được 
điểm xuyết các hoa văn dệt và hoa văn ghép 
vải. Khăn đội đầu được làm bằng vải bông, 
nhuộm chàm đen dài khoảng trên 4 m, rộng 
0,3 m, hai đầu khăn có tua dài khoảng 0,2 m. 
Trên nền đen của hai đầu khăn dệt xen kẽ 18 
đường chỉ trắng. Trang phục nam giới cũng là 
màu chàm đen, nét đặc biệt là trên áo nam, 
phần cúc áo được đính tay bằng những nút 
thổ cẩm được khâu, đan cầu kỳ, kết hợp các 
chùm cúc bạc. Cổ áo được làm theo kiểu cổ 
cao 3 phân, thêu và ghép hoa văn hình tam 
giác, hình vuông mà xanh, đỏ. Hai bên sườn 
được khâu hai túi với đường viền hoa văn tinh 
tế, tạo cho chiếc áo thêm nét mạnh mẽ, nam 
tính. Những chiếc áo này dành cho các chú rể 
hoặc các trai làng mặc trong các lễ hội như 
cúng rừng, lễ mừng mùa... 
Người Lự ở Bản Hon còn giữ nguyên tập tục 
nhuộm răng có từ thời xa xưa. Khi đến tuổi 
dậy thì, các cô gái được mẹ sắm cho dụng cụ 
nhuộm răng gọi là “pẳng tèm khèo”. Nó là 
một thanh sắt mỏng, là vật bất ly thân trong 
suốt cuộc đời của người phụ nữ Lự. Đồng bào 
dùng cây tỉu - một loại cây có nhựa cay, vị 
thơm mọc ở rừng sâu để làm nguyên liệu 
nhuộm răng. Họ thu hái cây này về phơi khô 
dự trữ trong nhà để dùng dần. Mỗi khi ăn cơm 
xong hoặc trước khi đi ngủ, các bà các cô 
thường ngồi bên bếp lửa để tiến hành nhuộm 
răng. Họ lấy một đoạn cây tỉu đặt vào bếp lửa 
đốt thành than hồng rồi bỏ vào một cái lon 
bằng nhuôm, lấy thanh sắt “pẳng tèm khèo” 
đậy lại. Khi đó cục than hồng đốt nóng làm 
tan chảy nhựa cây tỉu dưới đáy lon, khói bốc 
lên nghi ngút và ám nhựa cây có màu đen vào 
phía dưới thanh sắt. Họ lấy tay trỏ chấm vào 
nhựa còn đang nóng đưa qua đưa lại trên khắp 
hàm răng để nhuộm, nhựa cây bám chặt vào 
răng. Đồng bào Lự thực hành nhuộm răng 
như là một “nghi thức” không thể quên trong 
cuộc sống hàng ngày, đồng thời là phút thư 
giãn, nghỉ ngơi, làm đẹp của người phục nữ 
sau ngày lao động mệt nhọc. Nét đặc biệt là 
trong hàm răng đen tuyền ấy còn điểm xuyết 
chiếc răng vàng lấp lánh ở hàm trên, ngay ở 
vị trí chiếc răng khểnh, tạo nên nét đẹp riêng 
biệt không lẫn với bất cứ tộc người nào. Để 
làm đẹp, phụ nữ Lự còn kết hợp đeo vòng cổ 
bằng bạc, cài lá thơm và hoa trên tóc. 
Người Lự có tục “chọc sàn” - một cách tỏ tình 
của trai gái khi đến tuổi trưởng thành. Người 
Lự có tục thách cưới, do nhà gái quy định, 
thường dùng bạc trắng để thách cưới. Nhà trai 
phải mang sang nhà gái những sính lễ: 26.000 
đồng tiền giấy, 1 chai rượu, 5 đôi nến sáp 
ong, 1 con gà hoặc 1 con heo tùy thuộc vào 
nhà gái muốn cúng heo hay gà. Người Lự có 
tục ở rể, lúc đưa rể mọi người trong gia đình 
nhà trai mang theo chăn, đệm, vải tấm. Tân 
lang phải ở rể trong 3 năm liền. Sau đó cô gái 
về nhà chồng làm dâu ít nhất 2 năm, rồi đôi 
vợ chồng có thể tách ra ở riêng. 
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 161 
Cùng với những nét văn hóa đặc trưng nêu 
trên, văn hóa ẩm thực, lễ hội truyền thống, 
các làn điệu dân ca, nhạc cụ, trò chơi dân 
gian của người Lự đã tạo nên một kho tàng 
văn hóa đặc sắc, thể hiện rõ sự tài hoa và cảm 
nhận cuộc sống rất tinh tế của họ. 
3.2. Hoạt động du lịch cộng đồng ở Bản Hon 
Với vị trí thuận lợi, nằm cách thị xã Lai 
Châu 20 km và nằm trên tuyến du lịch Vòng 
cung Tây Bắc, lượng khách đến Bản Hon 
tương đối ổn định bao gồm cả khách trong 
nước và quốc tế. Trung bình mỗi tuần có từ 
1 - 2 đoàn khách (thường mỗi đoàn có số 
lượng dao động từ 5 đến 30 người). Đến 
đây, khách du lịch được tìm hiểu, khám phá 
và trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt, lao 
động của người dân địa phương. Các hoạt 
động đó rất bình dị, mộc mạc trong cuộc 
sống thường nhật nhưng lại vô cùng sinh 
động, giàu màu sắc văn hóa giữa không 
gian núi rừng Tây Bắc. Ví dụ như: đi bộ 
hoặc đạp xe ngắm cảnh bản làng/ núi rừng; 
quay phim/chụp ảnh điểm cảnh; trải nghiệm 
cuộc sống của người Lự trên ngôi nhà sàn 
truyền thống; chiêm ngưỡng bộ trang phục 
dân tộc cầu kỳ với hoa văn đa dạng, phong 
phú; tìm hiểu và trải nghiệm nghệ thuật dệt 
vải; được hướng dẫn thực nghiệm phương 
thức đánh bắt và chế biến cá suối của cư 
dân địa phương; thưởng thức ẩm thực 
truyền thống của người Lự với nhiều món 
ngon đậm vị núi rừng Tây Bắc; tham gia 
sinh hoạt văn hóa dân gian: Nghe kể về các 
truyền thuyết, huyền sử, quá trình mở đất 
lập làng của người Lự; tìm hiểu các tín 
ngưỡng dân gian của người Lự; giao lưu 
văn nghệ với cộng đồng dân cư địa phương: 
Những nghệ nhân dân gian hát bằng tiếng 
Lự, múa các điệu dân vũ truyền thống của 
cha ông, biểu diễn nhạc cụ dân gian như 
trống, chiêng, sáo,... 
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
Khách quốc tế Khách trong
nước
Cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật
Cảnh quan
Nhà sàn
Nghề dệt
Phong tục truyền thống
Âm nhạc dân gian
Lễ hội
Ẩm thực
Biểu đồ 1. Các yếu tố thu hút khách du lịch đến Bản Hon 
(Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) 
0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35%
Mức độ hài lòng
Rất hài lòng
Khá hài lòng
Hài lòng ở mức trung bình
Kém hài lòng
Không hài lòng
Biểu đồ 2. Mức độ hài lòng của khách đối với du lịch cộng đồng Bản Hon 
(Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) 
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 162 
Cho con đi học
Mua trang thiết bị hiện đại
Mua phương tiện đi lại
Nâng cấp nhà cửa, cải tạo cảnh quan
Tiêu dùng hàng ngày
Tiết kiệm
Khác
Biểu đồ 3. Các nội dung tái đầu tư từ thu nhập du lịch của người Lự ở Bản Hon 
(Nguồn: Tác giả phân tích và tổng hợp, 2019) 
Để đáp ứng nhu cầu của du khách, người dân 
Bản Hon đã đầu tư sửa sang nhà cửa, lắp đặt 
trang thiết bị hiện đại (không phá vỡ không 
gian kiến trúc truyền thống); khôi phục các 
món ăn đặc sắc, đa dạng hóa thực đơn và giá 
cả; phục dựng và phát triển dân ca dân vũ; tìm 
hiểu văn hóa truyền thống dân tộc Lự để giới 
thiệu thông tin cho du khách, Nhiều gia đình 
trong bản đã có dịch vụ homestay. Trong hơn 
100 nóc nhà sàn ở Bản Hon có khoảng 5 nhà 
có khả năng phục vụ khách lưu trú. Mức thu 
tiền là 70.000 đồng/đêm/khách. Đặc điểm ngôi 
nhà sàn của người Lự là thường có diện tích 
nhỏ, sàn nhà không cao nên sức chứa không 
lớn do vậy, bình quân mỗi hộ gia đình có thể 
đón khoảng 15 khách/đêm. Một số ngôi nhà 
lớn thì có sức chứa 20 - 25 khách/đêm. 
Hiện nay, Bản Hon có đủ năng lực đón 
khoảng 10 ngàn lượt khách du lịch mỗi 
năm. Các dịch vụ người dân cung ứng gồm: 
homestay, tour tham quan làng bản, tour đi 
bộ trekking ven suối, tour học nấu ăn/thưởng 
thức ẩm thực truyền thống Lự, biểu diễn văn 
nghệ truyền thống, dệt vải truyền thống, 
Những năm gần đây khách tới Bản Hon tham 
quan ngày càng nhiều vì thế thu nhập của các 
gia đình khá dần lên. Du lịch cộng đồng ở 
Bản Hon đã góp phần tăng thu nhập cho ít 
nhất 20% số dân thuộc đối tượng nghèo ở địa 
phương thông qua việc cung cấp các sản 
phẩm, dịch vụ cho du khách. Bên cạnh đó góp 
phần bảo tồn các giá trị văn hóa, tài nguyên 
và môi trường tại điểm Bản Hon và khu vực 
lân cận. Không những chỉ góp phần giảm 
nghèo mà doanh thu từ du lịch, sau khi chi trả 
những khoản mục cho chuỗi nguyên vật liệu 
kiến thiết nên các dịch vụ du lịch người Lự ở 
Bản Hon đã có một nguồn lợi nhất định tái 
đầu tư vào những nội dung liên quan đến chất 
lượng cuộc sống như: giáo dục đào tạo nâng 
cao dân trí, nâng cấp nhà cửa, cải tạo cảnh 
quan, mua sắm đồ dùng, 
4. Định hướng nâng cao hiệu quả sinh kế 
bằng du lịch cộng đồng ở tỉnh lai châu 
4.1. Nhân rộng mô hình trong toàn tỉnh 
Trong những năm qua, Lai Châu đã kết hợp 
với người dân địa phương lập kế hoạch xây 
dựng chương trình du lịch cộng đồng tại Bản 
Hon; đồng thời liên kết hợp tác, đầu tư du lịch 
với nhiều địa phương, công ty lữ hành trong cả 
nước, xuất bản ấn phẩm du lịch, website du 
lịch và xây dựng chương trình du lịch hấp dẫn 
nhằm thu hút khách đến Bản Hon. Đến nay, 
dân bản đã thuần thục trong việc đón, tiếp 
khách; bố trí chỗ ăn, ngủ cho khách; chế biến 
các món ăn đảm bảo vệ sinh, phù hợp với khẩu 
vị của khách; biểu diễn các tiết mục văn hóa 
văn nghệ dân gian phục vụ du khách như: hát 
khắp, thổi sáo, thổi khèn, chơi đàn nhị, chơi 
trống, ném én, kéo co Sở Văn hóa, Thể thao 
và Du lịch Lai Châu đã triển khai chương trình 
hỗ trợ xây dựng mô hình thí điểm nghề thủ 
công truyền thống gắn với phát triển sản phẩm 
du lịch tại Bản Hon, như: Khảo sát thu thập 
thông tin làm cơ sở cho việc phát triển nghề 
dệt; tổ chức các khóa tập huấn để qua đó động 
Hoàng Thị Phương Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 157 - 163 
 Email: jst@tnu.edu.vn 163 
viên khuyến khích các nghệ nhân có kinh 
nghiệm truyền dạy lại tinh hoa nghề dệt cho 
thế hệ trẻ; hỗ trợ một số trang thiết bị nghề dệt 
(guồng quay, khung dệt, bộ đồ nhuộm chàm, 
dụng cụ cán bông, xa quay sợi, các loại chỉ dệt, 
bộ đồ in sáp ong...); tổ chức trình diễn nghề 
dệt, qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm cho 
người dân tại bản trong việc gìn giữ giá trị văn 
hóa truyền thống của dân tộc mình nhằm phát 
triển du lịch bền vững. 
Bản Hon hiện đã trở thành điểm đến thân 
thiện, tiếp cận dễ dàng đối với khách du lịch. 
Hạ tầng kỹ thuật như đường xá, nhà cộng 
đồng, công trình vệ sinh, nước sạch, điện 
lưới, viễn thông và hệ thống dịch vụ khá tốt. 
Đây là mô hình phát triển du lịch cộng đồng 
đầu tiên tại Lai Châu, góp phần thúc đẩy công 
cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững, tạo điều 
kiện cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc 
thiểu số vượt qua khó khăn vươn lên xóa đói 
giảm nghèo cho bản thân. Như vậy, có thể 
nhân rộng mô hình sinh kế bền vững này cho 
các địa phương khác có cùng điểm xuất phát 
như Bản Hon. Và thực tế hiện nay tỉnh Lai 
Châu cũng đã tiếp tục phát triển du lịch cộng 
đồng tại các điểm bản dân tộc thiểu số như Nà 
Luồng, Sin Suối Hồ, Vàng Pheo, Gia Khâu 
4.2. Tăng cường quảng bá và thu hút đầu tư 
cho du lịch 
Tuy nhiên, để phát triển du lịch cộng đồng trở 
thành sinh kế bền vững mang tính toàn diện và 
hiệu quả cao, chính quyền địa phương cần tăng 
cường xúc tiến quảng bá điểm du lịch Bản Hon 
trên các phương tiện thông tin đại chúng; kêu 
gọi sự đầu tư tài chính hỗ trợ người dân nâng 
cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu 
tham quan của du khách; đồng thời hỗ trợ 
người dân đưa ra định hướng tổ chức các hoạt 
động du lịch và khai thác tài nguyên du lịch 
phù hợp với đặc điểm riêng của bản. Người 
dân địa phương cần được nâng cao trình độ 
chuyên môn nghiệp vụ; có ý thức bảo tồn các 
giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn 
để đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương 
lai. Ngoài ra, chính quyền và nhân dân cần liên 
kết với các doanh nghiệp lữ hành để nghiên 
cứu tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo mang sắc 
thái riêng của Bản Hon. 
5. Kết luận 
Bản Hon (Tam Đường – Lai Châu) sở hữu 
những cảnh quan thiên nhiên đẹp, văn hóa 
đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là những 
lợi thế để địa phương phát triển du lịch cộng 
đồng nhằm xóa đói giảm nghèo – như một 
sinh kế bền vững cho đồng bào Lự. Điều này 
không chỉ góp phần bảo vệ và phát huy những 
giá trị văn hóa vốn có mà còn giúp người dân 
phát triển kinh tế. Khi đến với Bản Hon, 
khách du lịch, đặc biệt là du khách quốc tế sẽ 
được hòa mình vào không khí náo nhiệt của 
âm nhạc truyền thống, trực tiếp tham gia sản 
xuất nông nghiệp với người dân, tìm hiểu các 
nghề thủ công truyền thống như dệt vải, làm 
nhạc cụ hay thưởng thức các món ăn dân dã 
nhưng chứa đựng tinh hoa ẩm thực của cộng 
đồng Đó chính là những trải nghiệm thực 
sự hấp dẫn và khó quên đối với du khách. Và 
những giá trị đó đã mang lại nguồn lợi kinh tế 
nhất định cho người Lự ở Bản Hon giảm 
nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Chính vì thế, du lịch cộng đồng ở Bản Hon 
cần được quan tâm hơn nữa để trở thành sinh 
kế bền vững cho địa phương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Chambers, Robert, Rural development: Putting 
the last first, Longman Scientific & Technical, 
Co-published in the United States with John 
Wiley & Sons, Inc., New York, 1983. 
[2]. Nguyễn Văn Sửu, “Khung sinh kế bền vững: 
Một cách phân tích toàn diện về phát triển và 
giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2, tr 3-
12, 2010. 
[3]. Tổ chức Lao động Quốc tế, Bộ công cụ hướng 
dẫn giảm nghèo thông qua du lịch, 2012. 
[4]. Bùi Thị Hải Yến, Du lịch cộng đồng, Nxb 
Giáo dục, 2007. 
 Email: jst@tnu.edu.vn 164 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_du_lich_cong_dong_tro_thanh_sinh_ke_ben_vung_o_la.pdf