Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong Nguyên Thị Vật ngữ (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nó

Nhật Bản và Trung Quốc có mối

quan hệ giao lưu văn hóa từ hơn hai ngàn

năm trước, đến đời Tùy Đường thì đạt tới

đỉnh cao. Đặc biệt từ năm 630 đến năm

834, Nhật Bản đã mười tám lần cử sứ

thần đi sứ Trung Hoa (trong đó có hai lần

do nguyên nhân đặc biệt phải dừng lại

giữa chừng, mười sáu lần đi sứ thành

công) [6]. Trong những lần viếng thăm

này, các sứ thần Nhật Bản luôn ra sức thu

thập kinh sách, văn chương cũng như

những thành tựu văn hóa khác của nhà

Đường để mang về nước mình. Từ đó,

ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối

với đất nước Nhật Bản càng ngày càng

sâu đậm. Trong Nguyên thị vật ngữ, chúng

ta có thể thấy những yếu tố văn hóa

Trung Hoa được Murasaki Shikibu khéo

léo cài đặt ở khắp mọi nơi: từ thơ ca, điển

cố, điển tích cho tới cách xây dựng nhân

vật, tình tiết, hình thức truyện; từ những

nhu yếu phẩm hàng ngày cho tới tâm tư

tình cảm của nhân vật và tư tưởng chung

của tác phẩm.

pdf 13 trang kimcuc 7340
Bạn đang xem tài liệu "Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong Nguyên Thị Vật ngữ (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong Nguyên Thị Vật ngữ (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nó

Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong Nguyên Thị Vật ngữ (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nó
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
NHÂN TỐ VĂN HÓA TRUNG QUỐC 
TRONG NGUYÊN THỊ VẬT NGỮ (TRUYỆN GENJI) 
VÀ Ý NGHĨA VĂN HỌC CỦA NÓ 
PHAN THU VÂN* 
TÓM TẮT 
Bài viết thông qua việc nghiên cứu những nhân tố văn hóa Trung Quốc trong 
Nguyên thị vật ngữ để tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với tác phẩm 
hàng đầu của văn học Nhật Bản, đồng thời để có cái nhìn toàn diện hơn về sự tương đồng 
và khác biệt trong ý thức văn hóa cũng như trong thực tiễn sáng tác văn học của hai dân 
tộc. 
Từ khóa: Nguyên thị vật ngữ, nhân tố văn hóa Trung Quốc, ảnh hưởng. 
ABSTRACT 
Chinese cultural factors in “Genji monogatari” and their literary significance 
Through the study of Chinese cultural factors in Genji monogatari, the article 
examines the impact of Chinese culture on this leading piece of work in Japanese literature, 
as well as provides a more comprehensive view of the similarities and differences in both 
culture and literary activities of the two nations. 
Keywords: Genji Monogatari, Chinese cultural elements, influence.
1. Dẫn nhập 
Nhật Bản và Trung Quốc có mối 
quan hệ giao lưu văn hóa từ hơn hai ngàn 
năm trước, đến đời Tùy Đường thì đạt tới 
đỉnh cao. Đặc biệt từ năm 630 đến năm 
834, Nhật Bản đã mười tám lần cử sứ 
thần đi sứ Trung Hoa (trong đó có hai lần 
do nguyên nhân đặc biệt phải dừng lại 
giữa chừng, mười sáu lần đi sứ thành 
công) [6]. Trong những lần viếng thăm 
này, các sứ thần Nhật Bản luôn ra sức thu 
thập kinh sách, văn chương cũng như 
những thành tựu văn hóa khác của nhà 
Đường để mang về nước mình. Từ đó, 
ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối 
với đất nước Nhật Bản càng ngày càng 
sâu đậm. Trong Nguyên thị vật ngữ, chúng 
* TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
ta có thể thấy những yếu tố văn hóa 
Trung Hoa được Murasaki Shikibu khéo 
léo cài đặt ở khắp mọi nơi: từ thơ ca, điển 
cố, điển tích cho tới cách xây dựng nhân 
vật, tình tiết, hình thức truyện; từ những 
nhu yếu phẩm hàng ngày cho tới tâm tư 
tình cảm của nhân vật và tư tưởng chung 
của tác phẩm... 
Nếu Nguyên thị vật ngữ được ví tựa 
một bức tranh cuộn khổng lồ, gói gọn 
trong lòng nó tất cả phong hoa tuyết 
nguyệt của đất trời, cảm hứng lãng mạn, 
tình yêu thiên nhiên và ý thức thẩm mĩ 
đặc biệt của người Nhật Bản, thì yếu tố 
văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm hiện 
hữu như những chiếc quạt đề thơ không 
thể thiếu trên tay của bất kì nhân vật nam 
thanh nữ tú nào từng được phác họa. Đó 
là biểu tượng của sự tao nhã, của kiến 
 41
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
thức, của tiềm thức Trung Hoa đã ăn sâu 
vào tâm hồn Nhật Bản. 
2. Nội dung 
2.1. Ảnh hưởng của thơ Bạch Cư Dị 
đối với Nguyên thị vật ngữ 
Đọc Genji, cảm nhận rõ nhất về ảnh 
hưởng của văn học Trung Quốc đối với 
tác phẩm này chính là những câu thơ của 
Bạch Cư Dị, cứ chốc chốc lại lướt qua 
trước mắt người đọc, như những cánh 
hoa anh đào mỏng manh lớt phớt bay 
theo chiều gió. 
Murasaki Shikibu đã dành một sự 
ưu ái đặc biệt cho thơ Bạch Cư Dị. Ngay 
trong đoạn Genji chuẩn bị hành trang đi 
Suma, tác giả đã viết: “Chàng chỉ đưa đi 
những thứ cần thiết đơn giản nhất cho đời 
sống thôn dã, trong đó có một hòm sách 
gồm những tập thơ của Bạch Cư Dị và 
các nhà thơ khác, và một cây đàn thất 
huyền Trung Hoa. Chàng thận trọng tự 
kiềm chế không mang theo bất cứ thứ gì 
có thể để lộ chàng không phải là kẻ thôn 
dã vô danh.” [3, tr. 293 - 294]. Sở thích 
của nhân vật chính dường như không chỉ 
phản ánh sở thích của chính tác giả, mà 
còn phần nào nói lên được thị hiếu và 
khuynh hướng thẩm mĩ trong xã hội Nhật 
Bản lúc bấy giờ. 
Tác phẩm Bạch Cư Dị được trích 
dẫn nhiều nhất trong Nguyên thị vật ngữ 
là Trường hận ca – câu chuyện về mối 
tình diễm lệ mà ai oán của Đường Huyền 
Tông và Dương Quý Phi. Không chỉ đơn 
thuần đưa ra những lời thơ Trung Hoa để 
tô điểm thêm thế giới nghệ thuật của tiểu 
thuyết, Murasaki Shikibu dường như còn 
mượn cả cấu tứ và tư tưởng của bài thơ 
làm cảm hứng cho mình. 
Trường hận ca mở đầu bằng “ 漢皇
重色思傾國,御宇多年求不得。楊家
有女初長成,養在深閨人未識 ” (Đức 
vua Hán mến người khuynh quốc, Trải 
bao năm tìm chuốc công toi. Nhà Dương 
có gái mới choai, Buồng xuân khóa kín 
chưa ai bạn cùng. Lạ gì của tuyết đông 
ngọc đúc, Chốn ngai vàng phút chốc ngồi 
bên. Một cười trăm vẻ thiên nhiên, Sáu 
cung nhan sắc thua hờn phấn son) [1]. 
Nguyên thị vật ngữ cũng bắt đầu 
bằng sự sủng ái đặc biệt của đức vua đối 
với nàng Kiritsubo no Koi, khiến tất cả 
hậu cung đều ghen tị: “Thuở xưa, dưới 
triều một ông vua nọ, có một nàng thứ 
phi, tuy dòng dõi không đệ nhất thế gian, 
nhưng được nhà vua hết mực yêu thương. 
Thấy như vậy, các bà khác từ hoàng hậu 
cho tới cung nhân đều ghen ghét nàng” [3, 
tr.17]. Khi Kiritsubo no Koi qua đời, đức 
vua đã chìm trong nỗi sầu não đến nỗi 
không thiết gì đến việc triều chính, ngày 
đêm tưởng nhớ người xưa: “Nhìn những 
vật lưu niệm do Myobu mang về, ông 
nghĩ ông sẽ được thư thái bao nhiêu nếu 
cũng như đối với vua Trung Quốc xưa, 
có một tay phù thủy mang tới cho ông 
một chiếc lược từ thế giới mà người yêu 
đã khuất của ông đang ở. Ông thầm thì 
đọc câu thơ: “Khách đạo sĩ cùng lâm có 
gã/ Chơi hồng đô phép lạ thần thông/ Xét 
vì vua chúa nhớ nhung/ Mới sai phương 
sĩ hết lòng ra tay”. Khả năng của người 
nghệ sĩ thiên tài nhất cũng có giới hạn mà 
thôi. Nàng Quý Phi Trung Hoa trong 
tranh vẽ không có được vẻ lộng lẫy sinh 
động. Người ta nói Dương Quý Phi giống 
đóa hoa sen trong đầm cao siêu, giống 
cây liễu của hồ vĩnh cửu. Chắc hẳn nàng 
 42 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
đẹp như là gấm vóc. Khi ông cố nhớ lại 
vẻ đẹp kín đáo của người thứ phi, ông 
nhận ra rằng không một màu hoa nào, 
không một tiếng chim ca nào có thể gợi 
lại hình ảnh nàng. Hết sáng lại đêm, dứt 
thôi lại nối, họ đã cùng nhắc đi nhắc lại 
mấy câu trong “Trường hận ca”: “Xin kết 
nguyện chim trời liền cánh/ Xin làm cây 
cành nhánh liền nhau”. Họ thề non hẹn 
biển là thế, nhưng cuộc đời ngắn ngủi của 
nàng đã biến lời nguyền của họ thành 
giấc mơ trống rỗng” [3, tr. 27-28]. 
Bằng những lời dẫn dắt mang tính 
so sánh khá dông dài này, Murasaki 
Shikibu đã gián tiếp thừa nhận sự vay 
mượn và mô phỏng của mình đối với tác 
phẩm nổi tiếng của nhà thơ Trung Hoa – 
Bạch Cư Dị. 
Trường hận ca chia làm hai phần: 
phần thứ nhất viết về việc Đường Minh 
Hoàng sau khi có được giai nhân thì ngày 
đêm chỉ biết đến nàng, bỏ bê việc triều 
chính, dẫn đến loạn An Lộc Sơn; phần 
thứ hai khắc họa tình yêu sâu đậm của 
đôi tình nhân, cùng sự thương nhớ đau 
khổ của Đường Minh Hoàng sau khi 
Dương Quý Phi chết. Nguyên thị vật ngữ 
cũng triển khai theo cách này. 
Cảm xúc chủ đạo của Trường hận 
ca có thể chia làm hai: một mặt là sự chỉ 
trích ngấm ngầm của Bạch Cư Dị đối với 
lối sống hoang dâm vô độ của bậc đế 
vương dẫn đến cảnh nước mất nhà tan, 
thể hiện cái nhìn đầy trí tuệ của tác giả về 
sự thịnh suy của thời cuộc; mặt khác lại 
là sự cảm thương cho một tấm chân tình. 
Nguyên thị vật ngữ ngay trong chương 
đầu tiên đã dẫn câu chuyện này ra như 
một tấm gương nhãn tiền: “Người thì nói 
có lẽ mọi sự đều do tiền định, nhưng 
trước đây ông đã làm ngơ trước mọi sự xì 
xào bàn tán, và đã nhắm mắt trước sự oán 
hận và để cho sự việc muốn đến đâu thì 
đến, còn bây giờ, bây giờ ông lại lơ là 
việc nước – như vậy, hai đường, đường 
nào cũng quá đáng. Một số kẻ lại còn dẫn 
câu chuyện ông vua Trung Hoa đã mang 
lại sự suy vong cho bản thân mình và cho 
đất nước” [3, tr.29]. Không chỉ có vậy, 
Murasaki Shikibu còn thông qua cuộc 
sống cá nhân buông thả của ba đời, vua 
Kiritsubo – Genji – các con trai của Genji 
cùng đời sống ăn chơi hưởng lạc, tranh 
quyền đoạt lợi của tầng lớp quý tộc xung 
quanh họ, để phản ánh hiện thực đen tối 
của xã hội đương thời, và xu hướng đi từ 
thịnh đến suy của xã hội này là tất yếu. 
Tuy nhiên, khi trực tiếp hé lộ đời sống 
tâm tư tình cảm của nhân vật, ngòi bút 
tác giả lại có phần nương nhẹ, chiều theo, 
thậm chí biện hộ cho nhân vật. Genji hiện 
ra không phải như một Don Juan bạc tình 
bạc nghĩa, mà ngược lại, là một công tử 
hào hoa phong lưu vừa biết thương 
hương tiếc ngọc, vừa sống có thủy có 
chung. Những mối tình của chàng về bản 
chất là thói trăng hoa và sự tham lam vô 
độ, lại luôn được lí giải theo những khía 
cạnh lãng mạn, đẹp đẽ và thanh khiết. Vô 
hình chung, tác giả trở nên mâu thuẫn 
trong việc vừa phản ánh thân phận bọt 
bèo và số mệnh mỏng manh của người 
phụ nữ trong xã hội, lại vừa xây dựng 
nên một hình tượng người tình hoàn hảo 
chung cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp lúc 
bấy giờ. Về khía cạnh này, Murasaki 
Shikibu rất giống Bạch Cư Dị, tự chuốc 
 43
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
mình say bằng ngôn ngữ và cảm xúc 
nghệ thuật của chính mình. 
Khi viết về nỗi đau mất mát hay 
chia li của các nhân vật, Murasaki 
Shikibu cũng không ngần ngại mượn 
cách diễn tả của Bạch Cư Dị. Bóng dáng 
mối tình dang dở của Đường Minh 
Hoàng – Dương Quý Phi được tái hiện 
liên tục qua ba cặp nhân vật: nhà vua và 
Kiritsubo no Kôi, Genji và Fujitsubo, 
Kaoru và Oigimi. Ngay trong cuộc chia li 
vĩnh viễn giữa Genji với Aoi – người vợ 
lạnh lùng vô cảm của chàng, tác giả cũng 
không tiếc mĩ từ: “Genji đã chép và đã bỏ 
lại nhiều đoạn thơ cổ Trung Hoa và Nhật 
Bản mà chàng đã chép cả theo lối chữ 
chân phương lẫn chữ thảo. Chữ tuyệt 
diệu – ông thượng thư vừa nghĩ vừa nhìn 
vào khoảng không. “() Chiếc gối cũ, 
chiếc giường xưa; Cùng ai chia sẻ chúng 
cùng?”. Đó là câu thơ của Bạch Cư Dị, 
dưới đó, Genji viết câu thơ của mình: 
“Khóc bên gối người ra đi/ Ta rời sao nổi, 
có gì vấn vương” – “Hoa trắng lạnh giữ 
trời sương giá”. Cũng lại là một câu thơ 
khác của nhà thơ, Genji ghi phía dưới, 
câu thơ của mình: “Giường bỏ trống bây 
giờ bụi phủ/ Bao đêm sương vò võ canh 
chầy” [3, tr.238]. 
Không chỉ có Trường hận ca, 
những bài thơ khác của Bạch Cư Dị cũng 
thường xuyên xuất hiện. Ta có thể thấy 
dư vị của Tì bà hành trong những lời hát, 
những bản đàn, như lúc Genji dừng lại 
lắng nghe lời hát của Naishi: “Có phải lời 
ca của cô gái về già, E-chou, cách đây đã 
lâu lắm, cũng có các giọng than thở như 
thế này?” [3, tr.196]; hay trong lời đối 
đáp của các nhân vật: “Một trong ba 
người bạn được nhà thơ nói đến, mà một 
người phụ nữ được phép làm bạn, hai 
người kia thì không1. Thỉnh thoảng cô 
cũng phải để ta nghe nàng chơi đàn mới 
được” [3, tr.154]. Trong chương 
“Akashi”, cuộc hạnh ngộ giữa Genji và 
nàng Akashi no Kimi cũng được mở đầu 
bằng câu chuyện tì bà quen thuộc của 
Trung Hoa: “Ngày xưa có một nhà thơ, 
chắc công tử còn nhớ, rất thích thú được 
nghe đàn tì bà của người vợ một gã lái 
buôn...” [3, tr.329]. Mối tình cùng người 
con gái chơi đàn Koto, miêu tả tinh tế về 
tiếng đàn của những phụ nữ trong đời 
Genji... nhiều khả năng cũng đã được 
khơi gợi cảm hứng từ tác phẩm thơ kinh 
điển này. 
Thơ Bạch Cư Dị còn được diễn giải 
một cách tài tình sang văn xuôi tả cảnh. 
Như khi đọc đoạn Genji lần đầu tiên gặp 
Murasaki tại ngôi chùa trên núi: “Ngôi 
chùa nằm khá sâu trong vùng núi phía 
Bắc. Tuy rằng ở thành phố hoa anh đào 
đã tàn, nhưng đang tiết cuối tháng Ba, ở 
đây, hoa anh đào miền núi đang độ nở rộ. 
Khi đám người đặt chân vào dưới núi thì 
chàng lấy làm thích thú bước đi trong 
sương mù dày đặc” [3, tr.118], người ta 
dễ dàng liên tưởng đến bài thơ: Đại Lâm 
tự đào hoa (大林寺桃花/ Hoa đào chùa 
Đại Lâm) của thi nhân họ Bạch: “人間四
月芳菲盡,山寺桃花始盛開。長恨春
歸無處覓,不知轉入此中來” (“Nhân 
gian tứ nguyệt phương phi tận, sơn tự 
đào hoa thủy thịnh khai. Trường hận 
xuân quy vô xứ mịch, bất tri chuyển nhập 
thử trung lai”. Tạm dịch: Tháng tư khắp 
nẻo đã phai, Hoa đào chùa núi mới bày 
sắc hương. Trách xuân tìm kiếm vô 
 44 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
phương, Nào hay trở gót xuân nương 
chốn này ). Ý ấy, cảnh ấy, tình ấy 
minh chứng cho sự giao hòa giữa tâm 
hồn nghệ sĩ của hai tác giả, cho dù họ 
thuộc hai thời đại, hai dân tộc khác nhau.
2
2.2. Những yếu tố vay mượn từ truyền 
kì Đường của Nguyên thị vật ngữ 
Truyện Trương Tiến trong Đường 
thư chép: “新羅日本使至,必出金寶購
其文” – 《唐書 ·張薦傳》 (“Tân La, 
Nhật Bản sứ chí, tất xuất kim bảo cấu kì 
văn”. Tạm dịch: Sứ thần của Tân La 
(Tam Quốc – Triều Tiên) và Nhật Bản tới, 
thể nào cũng bỏ ra rất nhiều vàng bạc 
châu báu để mua văn của ông (chỉ 
Trương Trạc – ông Trương Tiến – tác giả 
Du tiên quật)). Trong tác phẩm nổi tiếng 
Du tiên quật, Trương Trạc dùng ngôi thứ 
nhất tự thuật việc đi qua hang thần tiên, 
được Thập Nương và Ngũ Tẩu nhiệt tình 
tiếp đón, lưu lại một đêm rồi lại lên 
đường. Nhan đề là “du tiên”, song nội 
dung lại đầy yếu tố phong tình, trần tục. 
Việc nam nữ gặp gỡ, tán tỉnh, yêu đương 
và ân ái được gói gọn trong hơn một vạn 
chữ, với cách diễn đạt đầy đam mê song 
vô cùng hàm súc. Tác phẩm này đương 
thời đã được truyền bá tại Nhật Bản, có 
ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến văn học 
Nhật. Học giả Nhật Bản Diêm Cốc Ôn (
塩谷温) nhận định trong Trung Quốc văn 
học khái luận giảng thoại rằng Du tiên 
quật đã từng giữ vị trí “Nhật Bản đệ nhất 
dâm thư” [7], thể hiện rõ phong cách và 
trình độ của truyện truyền kì Đường. Có 
thể thấy yếu tố sắc tình trong Nguyên thị 
vật ngữ đậm màu sắc lãng mạn và phóng 
khoáng của tác phẩm truyền kì này. 
Đặc điểm nổi bật của truyện truyền 
kì Đường là nhấn mạnh vào tính chất 
“kì” của câu chuyện. Nhậm thị truyện kể 
về người con gái họ Nhậm thần thông 
quảng đại, cuối cùng thân phận thật là 
một hồ li tinh; Oanh Oanh truyện viết về 
mối tình với nhiều cung bậc cảm xúc của 
nàng tiểu thư Thôi Oanh Oanh với chàng 
công tử họ Trương; Lý Oa truyện cho 
thấy tình yêu của một nàng kĩ nữ thông 
minh, đầy lí trí với chàng công tử Trịnh 
Nguyên Hòa, con của Huỳnh Dương 
Công Trịnh Đảm; Hoắc Tiểu Ngọc truyện 
đem đến mối hận tình cay đắng của nàng 
tiểu thư sa cơ lỡ vận Hoắc Tiểu Ngọc; 
Trường Hận Ca truyện tái hiện mối tình 
hoàng cung giữa Đường Minh Hoàng và 
Dương Quý Phi v.v... Từ những yếu tố 
“kì” và “dị” này, muôn mặt của cuộc 
sống con người hiện ra với dưới mọi sắc 
thái, với tất cả sự phong phú, đa dạng, 
tinh tế và chân thực. Nguyên thị vật ngữ 
đã tiếp thu được những tinh hoa trong 
truyện truyền kì Đường. Từ việc lấy 
những câu chuyện chốn cung đình làm 
trung tâm đến khát vọng theo đuổi một 
tình yêu vĩnh cửu, nhiều nhà nghiên cứu 
cho rằng Nguyên thị vật ngữ là một bản 
Trường hận ca truyện phức tạp hơn và 
đậm chất văn hóa Nhật Bản. Riêng chúng 
tôi nhận thấy “Nguyên thị vật ngữ” chịu 
ảnh hưởng của bài thơ Trường hận ca 
nhiều hơn truyện cùng tên. Những tác 
phẩm truyền kì Đường thật sự góp mặt 
trong Nguyên thị vật ngữ ... 
ngoài “nghiệp”, “nhân quả” và “vô 
thường” – những tư tưởng luôn được 
Phật giáo Trung Hoa đề cao. 
“ ‘Nghe xem’ Genji nói, ‘lão đang 
nghĩ đến một cõi khác’. “Có người niệm 
Phật chỉ đường/ Kiếp sau xin chớ ta nàng 
xa nhau” Lời nguyền trao đổi giữa nhà 
vua Trung Hoa và Dương Quý Phi hình 
như báo trước điềm gở và bởi thế chàng 
thích cầu nguyện thần Maitreya hơn, đức 
Phật của tương lai, nhưng hứa hẹn như 
vậy là vội vàng hấp tấp. “Kiếp xưa nặng 
gánh đa mang/ Còn đâu mà dám ước 
nguyền kiếp sau”. Lời thơ biểu lộ mối 
ngờ vực về “những kiếp mai sau”.” [3, 
tr.95-96]. 
Nguyên thị vật ngữ luôn có xu 
hướng lí giải những điều không may xảy 
ra bằng luật “nhân quả”. Đoạn nàng 
Yugao “hoa phấn” chết, Genji đã rất đau 
khổ: “Kiếp trước chàng đã ăn ở thế nào 
mà bây giờ nó có thể đẩy chàng tới một 
nguy cơ chết người như thế này? Chàng 
đang bị trừng phạt vì mối tình tội lỗi – đó 
là lỗi của chàng chứ không phải của ai 
khác, và câu chuyện về chàng sẽ được 
nhớ với tất cả nỗi ô nhục qua những năm 
tháng sắp tới. Bí mật gì thì rồi cũng lộ ra, 
cho dầu người ta có cố che dấu” [3, 
tr.103]. 
 48 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Văn học Trung Quốc thường dùng 
“oan gia”, “nghiệp duyên” để chỉ tình yêu 
nam nữ trắc trở là do kiếp trước hoặc số 
phận đã an bày, đồng thời phổ biến tư 
tưởng “nghiệp” và “báo ứng”. Lời than 
thở của Genji khi bị Fujitsubo từ chối gặp 
mặt đã cho ta thấy niềm tin của chàng 
vào quả báo kiếp trước: “ ‘Ta tự nhủ, ta 
sẽ được phép gặp nàng, ở thế giới nào? 
Cốt lõi của sự việc quá tế nhị, khó mà nói 
ra. “Quả báo kiếp trước làm sao/ Cô đơn 
ta chịu riêng bao lạnh lùng”. Ta không 
hiểu. Ta hoàn toàn không hiểu được’ ” [3, 
tr.188]. Đó là sự trừng phạt, song cũng là 
niềm an ủi đối với chàng: “Fujitsubo mặc 
dầu luôn luôn lo sợ những lời đồn kháo, 
vẫn viết thường xuyên cho chàng. Chàng 
thấy mỉa mai chua chát làm sao, vì trước 
đây sao nàng không đáp lại mối tình của 
chàng? Nhưng chàng lại tự nhủ, số phận 
mà họ cùng nhau chia sẻ ở kiếp trước 
chắc đang đòi hỏi họ phải nếm cho đủ 
mùi cay đắng” [3, tr.287]. 
Không chỉ dừng lại ở tư tưởng tội 
nghiệt kiếp trước phải chịu báo ứng trong 
kiếp này, Nguyên thị vật ngữ còn cho sự 
báo ứng xảy ra ngay trong vòng đời của 
nhân vật. Genji lúc về già phải chấp nhận 
sự thật phũ phàng về việc công chúa Ba 
(Onna san no Miya) và Kashiwagi tư 
thông với nhau, sinh ra Kaoru. Đây chính 
là tấm gương phản chiếu những gì Genji 
cùng Fujitsubo – mẹ kế của chàng đã làm, 
đồng thời cũng là quy luật nhân quả được 
đẩy lên ở mức cao hơn trong tiểu thuyết. 
Ý thức rõ điều này, Genji quyết định bỏ 
qua mọi chuyện, nuôi nấng Kaoru như 
con ruột của mình. Hành động của Genji 
đã giúp chàng gột rửa được phần nào tội lỗi. 
Bản thân Fujitsubo cũng ý thức 
duyên nợ giữa nàng và Genji là cái 
“nghiệp” nàng phải mang, đặc biệt từ sau 
khi sinh hạ hoàng tử - kết tinh từ mối tình 
bí mật với Genji, cảm giác tội lỗi ngày 
càng nặng nề hơn. “Fujitsubo có vẻ như 
thấy sự có mặt của chàng thậm chí như 
thêm một thử thách nữa, và không tỏ ra 
mảy may động lòng. Ngày lại ngày trôi 
qua, buồn bã và vô vị. Mối gắn bó giữa 
họ mới mong manh, phù du làm sao!” [3, 
tr.184]. Cuối cùng, nàng chọn cách giải 
thoát tốt nhất cho mình là xuất gia, vĩnh 
viễn gạt bỏ những níu kéo của cõi hồng trần. 
Trong Nguyên thị vật ngữ có không 
ít nhân vật vì bất đắc chí trong tình yêu 
hoặc chính trị mà quyết định lìa bỏ cuộc 
sống trần tục nhiều đau khổ, theo con 
đường xuất gia tu hành để giác ngộ chân 
lí, giữ cho lòng thanh thản. Như lúc Genji 
chứng kiến một lúc hai cái chết của hai 
người có liên quan mật thiết đến mình, là 
vợ và cha ruột, chàng đã bắt đầu có suy 
nghĩ về việc xuất gia: “Hai sự tổn thất kế 
tiếp nhau trong hai năm liền đã dạy cho 
chàng biết thế nào là sự phù phiếm của 
thế sự nhân tình Lại một lần nữa chàng 
nghĩ đến chuyện xa lánh cuộc đời. Nhưng 
than ôi, còn biết bao duyên nợ ràng buộc 
chàng với trần thế” [3, tr.256]. Sau khi 
mẹ kế Fujitsubo, đồng thời là người 
Genji yêu sâu sắc nhất xuất gia, việc tư 
thông với con gái Hữu thừa tướng bị bại 
lộ, phải tự lưu đày đến Suma, Genji lại 
một lần nữa có ý tưởng này. Trong 
chương “Suma”, không ít lần tác giả viết 
về tư tưởng Phật giáo của Genji: “Trong 
chiếc áo dài màu sẫm thắt qua loa bên 
ngoài những chiếc áo lót, chàng tự bảo là 
 49
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
‘một đồ đệ của đức Phật’, rồi chậm rãi 
tụng một bài kinh Sutra” [3, tr.306]. 
Mặc cho tất cả những dằn vặt mâu 
thuẫn trong lòng của các nhân vật, cảm 
xúc trong truyện không bao giờ khiến 
người ta cảm thấy quá ngột ngạt hay đau 
đớn. Bao trùm lên câu chuyện là một nỗi 
sầu man mác, như cảm giác về vẻ đẹp 
hoàn mĩ song ngắn ngủi của hoa anh đào 
Nhật Bản. “Vô thường” là sự ý thức về 
sự tồn tại của con người. Đời người ngắn 
ngủi và mong manh như chính mùa hoa 
anh đào vậy, nên những tình cảm quá 
khích sẽ làm tổn thương đến niềm mĩ 
cảm mà cuộc đời đem lại. Trong Nguyên 
thị vật ngữ, dường như tất cả các nhân 
vật đến rồi đi đều lặng lẽ. Số phận của 
người này được lặp lại trong kiếp sống 
của người khác. Ta có thể thấy những 
tình cảm da diết đầu đời của Genji đối 
với Fujitsubo sống lại nơi chính Yugiri 
khi cậu nhìn thấy Murasaki; niềm đam 
mê cùng những thú phong lưu của Genji 
được khắc họa một lần nữa qua con trai 
chàng; mối tình si của vua Kiritsubo với 
nàng Kiritsubo no Koi và sự thế thân của 
Fujisubo được tái hiện qua bộ ba Kaoru – 
Oigimi – Ukifune. Nguyên thị vật ngữ 
như vòng đời tuần hoàn qua năm tháng. 
Có lẽ, tư tưởng Phật giáo của toàn 
bộ cuốn sách đã được xác định ngay từ 
đầu, trong cuộc nói chuyện giữa Genji và 
vị sư già: “Tôi không thích rời bỏ núi 
rừng, rời bỏ con suối của cụ, nhưng cha 
tôi đang lo và tôi phải vâng lời Người. 
Tôi sẽ trở lại trước mùa hoa anh đào rụng. 
“Tôi sẽ nói với các bè ở thành đô/ Hãy 
đến xem hoa rừng hoa núi/ Đến với gió, 
gió sẽ thăm hoa trước”. Thái độ và 
giọng nói của chàng đẹp khôn tả xiết. Vị 
hòa thượng đáp lại: “Ngàn năm hoa nở 
một kì/ Anh đào hoa núi có gì đáng xem”. 
“Quả là một của hiếm”, Genji vừa nói 
vừa mỉm cười, “một quãng thời gian để 
nở và tàn, ngắn dài khác nhau”. Vị hòa 
thượng tặng một câu thơ cảm tạ khi Genji 
rót đầy cốc của ông: 
“Cửa thông mở chẳng được lâu. 
Đóa hoa rực rỡ trước đâu thấy nào?” 
Chàng ứa nước mắt ()” [3, tr.130]. 
Đọc Nguyên thị vật ngữ, người ta 
cũng dễ dàng ứa nước mắt, nhưng không 
phải do “nghiệp” hay “nhân quả” trong 
cuộc đời mỗi nhân vật, mà thường vì 
những cảm giác mong manh khó gọi 
thành tên nhất: không khí trong trẻo và u 
hoài của những buổi tụng kinh lúc bên 
ngoài trời mưa lất phất, tiếng gọi của 
chim choi choi trong bình minh, những 
bông hoa rực rỡ trong ánh hoàng hôn gợi 
nhớ tới những bông tuyết của mùa đông 
đã qua Ở đây, “vô thường” của Phật 
giáo đã kết hợp với niềm bi cảm mà 
người Nhật gọi là “aware”, tạo thành một 
nét rất riêng trong văn hóa Nhật Bản.
Với “Nguyên thị vật ngữ”, sự “vô 
thường” ẩn hiện trong từng trang sách, và 
ý nghĩa sự tồn tại của mỗi nhân vật tựa 
hồ chỉ là để thể nghiệm tính chất “vô 
thường” giữa cuộc đời này. 
2.4. Tư tưởng Nho gia và những nhân 
tố văn hóa Trung Quốc khác trong 
Nguyên thị vật ngữ 
Genji từ nhỏ đã hưởng sự giáo dục 
theo truyền thống cung đình. Chàng được 
giới thiệu như một thần đồng “lên bảy 
tuổi đã thông hiểu các sách kinh sử Trung 
Hoa”. Tư tưởng Nho giáo của chàng 
 50 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
không bộc lộ nhiều khi chàng còn trẻ, mà 
chỉ thật sự thể hiện lúc chàng đã trở thành 
một nhân vật tương đối đức cao vọng 
trọng. Trong đoạn trò chuyện với Yugiri 
về người con gái nuôi Tamakazura 
(chương 30 “Hoa cúc sao”), chàng đã nói: 
“Ta sẽ hoàn toàn chiều theo ý muốn của 
cha cô ấy. Ta sẽ rất sung sướng nếu cô ấy 
được gửi vào triều, và nếu ông ta kiếm 
cho cô ấy một tấm chồng, thì cũng là 
tuyệt. Một người phụ nữ sống thì phải 
theo đạo tam tòng, cô ta mà làm sai điều 
đó thì chẳng hay gì” [3, tr. 628]. Đó 
không chỉ là ý kiến của riêng Genji. Tư 
tưởng “tam tòng tứ đức” hẳn nhiên rất 
phổ biến trong xã hội Nhật Bản lúc bấy 
giờ, với những người phụ nữ hoàn toàn 
không tự quyết định được số phận của 
mình. 
Trong chương 33 “Nhành hoa đậu 
tía”, To no Chujo đã mượn lời thánh 
nhân để quở trách Yugiri: “Tôi tin chắc 
rằng trước đây ngài đã học đến cái mà 
người ta gọi là ‘nghĩa vụ trong gia đình’. 
Tôi nghĩ chắc ngài phải biết lời dạy của 
một bậc hiền nhân nào đó. Vậy mà ngài 
lại cố ý xúc phạm đến tôi...” [4, tr.9]. Bản 
dịch tiếng Việt rõ ràng chưa chuyển tải 
hết ý. Khi đối chiếu với bản dịch tiếng 
Trung, chúng tôi nhận thấy “nghĩa vụ 
trong gia đình” ở đây là “gia lễ”, còn “lời 
dạy của bậc hiền nhân nào đó” chính là 
“Mạnh Tử chi giáo” (lời dạy của Mạnh 
Tử). Những khái niệm Nho giáo căn bản 
được dùng tương đối phổ biến trong 
Nguyên thị vật ngữ cho thấy văn hóa Nho 
giáo đã ảnh hưởng rộng rãi đến tư tưởng 
và quan niệm của nhiều tầng lớp trong xã 
hội Nhật Bản. 
Bản thân Murasaki Shikibu cũng là 
một người rất am hiểu các sách kinh sử 
Trung Hoa. Bà thường ứng dụng điển 
tích điển cố một cách hết sức tự nhiên, 
ngay cả trong lời nói của các nhân vật. 
Trong chương “Suma”, khi những bài thơ 
của Genji được tán dương và truyền tụng, 
Kokiden đã nổi giận: “(...) Không nghi 
ngờ gì nữa, bọn người khom lưng quỳ gối 
xung quanh hắn đang bảo đảm với hắn, 
con hươu là con ngựa” [3, tr.310]. Tích 
“chỉ hươu thành ngựa” chính được lấy từ 
Sử kí của Tư Mã Thiên, chương “Tần 
Thủy Hoàng bản kỉ”: “Triệu Cao muốn 
làm phản, nhưng sợ quần thần không 
nghe, nên trước tiên phải thử. Y dâng Nhị 
Thế một con hươu và bảo rằng đó là con 
ngựa. Nhị Thế cười nói: ‘Thừa tướng lầm 
đấy chứ! Sao lại gọi con hươu là con 
ngựa?’ Nhị Thế hỏi các quan xung quanh. 
Những người xung quanh im lặng, có 
người nói là ‘ngựa’ để vừa lòng Triệu 
Cao, cũng có người nói là ‘hươu’. Nhân 
đấy Triệu Cao để ý những người nào nói 
là ‘hươu’ để dùng pháp luật trị tội. Sau 
đó quần thần đều sợ Cao” [9, tr.64]. “Chỉ 
hươu thành ngựa” về sau trở thành một 
thành ngữ thông dụng của Trung Quốc. 
Bên cạnh Sử kí, những điển tích điển cố 
trong Lễ kí, Chiến quốc sách, Hán thư 
cũng xuất hiện khá nhiều trong Nguyên 
thị vật ngữ. 
Giữa thời đại Murasaki Shikibu 
sống, người dân Nhật Bản có một niềm 
yêu thích đặc biệt đối với các sản phẩm 
từ Trung Quốc. Nguyên thị vật ngữ 
không chỉ sử dụng các câu chuyện, nhân 
vật liên quan đến văn hóa – lịch sử Trung 
Quốc, mà ngay cả những đồ dùng trong 
 51
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
sinh hoạt thường ngày của giới quý tộc 
cũng mang đậm màu sắc Trung Hoa. Đó 
là những món đồ quý giá người ta mang 
tặng cho nhau: “Vị hòa thượng tặng lại 
một chuỗi tràng hạt bằng gỗ mun mà 
hoàng tử Shotoku đã có được khi ở Triều 
Tiên; nó vẫn đặt trong chiếc hộp Trung 
Hoa nguyên gốc” [4, tr.285]. Đó là 
những bức tranh “thành công trong việc 
pha lẫn chất tranh Trung Hoa và Nhật 
Bản” [3, tr.402] trong cuộc thi vẽ tranh 
của hoàng gia. Đó là “Chữ Trung Hoa 
viết thảo trên giấy Trung Hoa cứng khác 
thường, quả tình rất đẹp” [3, tr.672]... Có 
thể bắt gặp những trang sức Trung Hoa, 
tay áo lụa Trung Hoa, áo gấm Trung Hoa, 
nước hoa Trung Hoa... ở mọi nơi. 
“Nguyên thị vật ngữ” còn đem lại những 
bài thơ dí dỏm về y phục Trung Hoa: 
“ ‘Một chiếc áo Trung Hoa, lại thêm một 
chiếc áo Trung Hoa/ Ấy thế rồi thêm một 
chiếc áo Trung Hoa Trung Hoa’ – Nàng 
ấy đã sính những chiếc áo Trung Hoa, thì 
đấy ta xin chiều sở thích của nàng ấy 
vậy” [3, tr.617]. 
Sự trao đổi về vật chất là mức độ 
giao lưu văn hóa sơ đẳng nhất. Mối giao 
lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung 
Quốc đã được nâng lên ở mức độ cao hơn 
rất nhiều. Không chỉ chữ và giấy, mà là 
thư pháp. Không chỉ là một cây đàn hay 
vài điệu múa lời ca, mà là âm luật và âm 
nhạc. Không chỉ là đồ trang trí, mà là ý 
thức thẩm mĩ. Không chỉ là thơ văn, mà 
là cảm xúc đồng điệu của tâm hồn. Đỉnh 
cao của giao lưu văn hóa chính là sự giao 
lưu về tư tưởng. Không chỉ gói gọn trong 
tư tưởng Phật giáo hay Nho giáo đơn 
thuần, kết quả của sự giao lưu này phản 
ánh rõ nét trong sự hình thành thế giới 
quan, nhân sinh quan của tác giả và tác 
phẩm. 
3. Kết luận 
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi 
mượn hai câu cuối của bài Trường hận ca 
– tác phẩm mà tư tưởng văn học của nó 
đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành 
của Nguyên thị vật ngữ: 
“天長地久有時盡,此恨綿綿無絕
期.” 
(Thiên trường địa cửu hữu thời tận/ 
Thử hận mang mang vô tuyệt kì... Tạm 
dịch: Thấm chi trời đất dài lâu/ Hận này 
dằng dặc dễ hầu có nguôi...) [1]. 
Những nhân tố văn hóa Trung Hoa 
đã góp phần tạo nên áng văn diễm lệ và 
điêu luyện, đồng thời cũng góp phần hình 
thành ý thức thẩm mĩ đặc trưng của dân 
tộc Nhật Bản. 
Đồng thời với việc đem lại cho độc 
giả cảm thức sâu sắc về kiếp sống mong 
manh và phù du, Nguyên thị vật ngữ đã 
xây dựng được những hình tượng văn 
học bất tử, những mối tình “dằng dặc dễ 
hầu có nguôi” cùng trời đất. Cảm xúc 
thẩm mĩ từ tác phẩm, cũng vì thế mà 
sống mãi. 
1 Ba người bạn bên song cửa là “đàn, rượu, thơ” (Bạch Cư Dị). 
2 Phan Thu Vân dịch. 
3 倩 – âm Hán Việt “Thiến” có nghĩa là xinh đẹp, nhưng nhiều bản dịch đổi “Thiến Nương” thành “Thiếu 
Nương” để tên nhân vật nghe nhã hơn trong tiếng Việt. 
(Xem tiếp trang 62) 
 52 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phan Thu Vân 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lý Văn Hùng (1961), Việt Nam văn chương trích diễm, Sài Gòn. 
2. Mai Liên (tuyển chọn, giới thiệu và dịch) (2009), Hợp tuyển văn học Nhật Bản, Nxb 
Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. 
3. Murasaki Shikibu (1991), Truyện kể Genji, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
4. Murasaki Shikibu (1991), Truyện kể Genji, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
5. Murasaki Shikibu (1999), Nguyên thị vật ngữ, (Bản dịch tiếng Trung: Phong Tử 
Khải), Nhân dân văn học xuất bản xã, Trung Quốc. 
6. Hầu Trung Nghĩa (1992), Tùy Đường Ngũ Đại tiểu thuyết sử, Triết Giang cổ tịch 
xuất bản xã, Trung Quốc. 
7. Diêm Cốc Ôn (1930), Trung Quốc văn học khái luận giảng thoại, (Bản dịch tiếng 
Trung: Tôn Lương Công), Khai Minh thư điếm, Trung Quốc. 
8. Trần Quý Sơn (biên soạn), Trần Kiết Hùng (hiệu đính) (1995), Đường đại truyền kì, 
Nxb Đồng Nai. 
9. Sử kí Tư Mã Thiên, (Bản dịch tiếng Việt: Phan Ngọc), Nxb Thời đại, 2010. 
10. Diêu Kế Trung (2004), “Nguyên thị vật ngữ” dữ Trung Quốc truyền thống văn hóa, 
Trung ương biên dịch xuất bản xã, Trung Quốc. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 11-4-2012; ngày phản biện đánh giá: 24-5-2012; 
ngày chấp nhận đăng: 30-7-2012) 
 55

File đính kèm:

  • pdfnhan_to_van_hoa_trung_quoc_trong_nguyen_thi_vat_ngu_truyen_g.pdf