Nhận thức của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch ở thành phố Cần Thơ về biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển

của nhân loại do tác động ngày càng nghiêm trọng của nó đến các hoạt

động kinh tế và xã hội. Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói

chung, thành phố Cần Thơ nói riêng cũng đang chịu nhiều tổn thất do tác

động của biến đổi khí hậu với những thiên tai như lũ lụt, triều cường, hạn

hán và xâm nhập mặn,. Vì vậy, nâng cao nhận thức là một trong những

nhiệm vụ quan trọngđể thayđổi hành vi của con người trong ứng phó với

biếnđổi khí hậu. Nghiên cứu này nhằm khảo sát nhận thức về biếnđổi khí

hậu của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch tại thành phố Cần

Thơ, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về biến đổi khí

hậu, góp phần phát triển du lịch bền vững tại thành phốCần Thơ.

pdf 8 trang kimcuc 7100
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch ở thành phố Cần Thơ về biến đổi khí hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch ở thành phố Cần Thơ về biến đổi khí hậu

Nhận thức của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch ở thành phố Cần Thơ về biến đổi khí hậu
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 19 
DOI:10.22144/jvn.2017.640 
NHẬN THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH 
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
Đào Ngọc Cảnh, Cao Mỹ Khanh và Đào Vũ Hương Giang 
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận: 17/10/2016 
Ngày chấp nhận: 27/02/2017 
Title: 
Awareness of climate change 
by tourism-accommodation 
enterprises in Can Tho city 
Từ khóa: 
Biến đổi khí hậu, hiệu ứng 
nhà kính, nước biển dâng, 
thành phố Cần Thơ 
Keywords: 
Can Tho city, climate 
change, greenhouse effect, 
sea level rise 
ABSTRACT 
Climate change is becoming a major challenge for humanity development 
because of its increasingly serious impacts on economic and social 
activities. Specially, the Mekong Delta region in general, Can Tho city in 
particular, are also suffering damages due to the impact of climate change 
related natural disasters such as flood, tide, drought and salinization etc ... 
Therefore, raising awareness is one of crucial tasks to change human 
behavior in response to climate change. This study is aimed to survey 
awareness of climate change by tourism-accommodation enterprises in 
Can Tho city. It is also to propose a number of measures to raise 
awareness about climate change contributing to sustainable tourism 
development in Can Tho City. 
TÓM TẮT 
Biến đổi khí hậu đang trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển 
của nhân loại do tác động ngày càng nghiêm trọng của nó đến các hoạt 
động kinh tế và xã hội. Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói 
chung, thành phố Cần Thơ nói riêng cũng đang chịu nhiều tổn thất do tác 
động của biến đổi khí hậu với những thiên tai như lũ lụt, triều cường, hạn 
hán và xâm nhập mặn,... Vì vậy, nâng cao nhận thức là một trong những 
nhiệm vụ quan trọng để thay đổi hành vi của con người trong ứng phó với 
biến đổi khí hậu. Nghiên cứu này nhằm khảo sát nhận thức về biến đổi khí 
hậu của các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch tại thành phố Cần 
Thơ, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về biến đổi khí 
hậu, góp phần phát triển du lịch bền vững tại thành phố Cần Thơ. 
Trích dẫn: Đào Ngọc Cảnh, Cao Mỹ Khanh và Đào Vũ Hương Giang, 2017. Nhận thức của các doanh 
nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch ở thành phố Cần Thơ về biến đổi khí hậu. Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ. 48c: 19-26. 
1 GIỚI THIỆU 
Khủng hoảng môi trường và biến đổi khí hậu 
đang tác động ngày càng nghiêm trọng đến đời 
sống kinh tế - xã hội và môi trường toàn cầu. Trong 
những năm qua, nhiều nơi trên thế giới đã xảy ra 
những thiên tai nguy hiểm như bão lớn, nắng nóng 
dữ dội, lũ lụt, hạn hán,... gây thiệt hại nặng nề về 
tính mạng con người và của cải vật chất. Vì vậy, 
việc tăng cường nhận thức và hành động trong nỗ 
lực ứng phó với biến đổi khí hậu đang trở thành 
một yêu cầu cấp thiết đối với toàn nhân loại cũng 
như mỗi quốc gia, mỗi vùng và mỗi người dân. 
Theo báo cáo của Ban Liên Chính phủ về biến 
đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate 
Change - IPCC), Việt Nam là một trong những 
quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tác động 
của biến đổi khí hậu. Đặc biệt, ba đồng bằng trên 
thế giới dễ bị tổn thương nhất do nước biển dâng là 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 20 
Nam, Đồng bằng sông Gange của Bangladesh và 
Đồng bằng sông Nile của Ai Cập (IPCC, 2007). 
Đối với thành phố Cần Thơ (TP. Cần Thơ), 
biến đổi khí hậu cũng tác động ngày càng mạnh 
mẽ, gây ra nhiều hậu quả nặng nề đối với mọi mặt 
kinh tế - xã hội, trong đó có ngành du lịch. Vì vậy, 
ngành du lịch nói chung và các doanh nghiệp lưu 
trú du lịch nói riêng cần nâng cao nhận thức và 
chung tay hành động vì môi trường, chủ động ứng 
phó với biến đổi khí hậu. 
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nhận thức về 
biến đổi khí hậu của các doanh nghiệp kinh doanh 
lưu trú du lịch trên địa bàn TP. Cần Thơ, từ đó, đề 
xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về biến 
đổi khí hậu, góp phần phát triển du lịch bền vững ở 
TP. Cần Thơ. 
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Phương pháp thu thập và phân tích dữ 
liệu thứ cấp 
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn: 
các công trình nghiên cứu về biến đổi khí hậu trên 
thế giới và ở Việt Nam, số liệu thống kê của Cục 
Thống kê TP. Cần Thơ, báo cáo tổng kết của Sở 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP. Cần Thơ, và các 
nguồn thông tin tư liệu khác dưới dạng bài báo, 
hình ảnh, video,... Các dữ liệu này được phân tích, 
tổng hợp nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu. 
2.2 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu 
sơ cấp 
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử 
dụng để thu thập dữ liệu sơ cấp liên quan đến nhận 
thức về biến đổi khí hậu của các doanh nghiệp kinh 
doanh lưu trú du lịch. Nhóm nghiên cứu đã tiến 
hành khảo sát đối với 50 doanh nghiệp lưu trú du 
lịch trên địa bàn TP. Cần Thơ theo cách lấy mẫu 
ngẫu nhiên phân tầng. Thời gian tiến hành khảo sát 
là tháng 7 và 8 năm 2016. Dữ liệu từ bảng hỏi được 
xử lý bằng phần mềm SPSS for Window 20.0 dưới 
dạng thống kê mô tả. 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Biến đổi khí hậu và nhận thức về biến 
đổi khí hậu 
3.1.1 Tổng quan về biến đổi khí hậu 
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi trạng thái của 
khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí 
hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường 
là vài thập kỷ hoặc dài hơn (Phạm Trung Lương, 
2015). 
Biểu hiện chủ yếu của biến đổi khí hậu là sự 
nóng lên trên toàn cầu mà nguyên nhân chính bắt 
nguồn từ hoạt động kinh tế - xã hội của con người 
dẫn đến sự phát thải quá mức các chất khí gây ra 
hiệu ứng nhà kính trong khí quyển. Từ giữa thế kỷ 
XVIII, khi loài người bước vào thời kỳ công 
nghiệp hóa, sự phát thải các khí nhà kính đã tăng 
lên không ngừng. Theo IPCC, nồng độ trong khí 
quyển của các loại khí CO2, N2O, CH4 đạt tới mức 
cao chưa từng có trong 800.000 năm qua. Tổng 
lượng khí nhà kính do con người thải ra trong giai 
đoạn 2000-2010 là cao nhất trong lịch sử nhân loại 
(IPCC, 2014). 
Báo cáo của IPCC cho thấy, sự nóng lên của 
khí hậu toàn cầu là rõ ràng và từ những năm 1950 
có nhiều thay đổi chưa từng có so với những thời 
gian trước đó. Khí quyển và đại dương đã trở nên 
nóng hơn, lượng tuyết và băng đã giảm đi và mực 
nước biển đã tăng lên. Trong giai đoạn 1901–2010, 
mực nước biển đã dâng trung bình trên toàn cầu là 
0,19 m với tốc độ trung bình 1,7 mm/năm. Tốc độ 
dâng của nước biển từ giữa thế kỷ XIX đã cao hơn 
tốc độ dâng trung bình trong 2 nghìn năm trước 
(IPCC, 2014). 
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những tác 
động tiêu cực tới các hệ thống tự nhiên, nhân tạo 
và con người trên toàn thế giới. Sự thay đổi về 
nhiệt độ, lượng mưa đã gây ra sa mạc hóa, hạn hán, 
lũ lụt Mực nước biển dâng gây nguy cơ ngập 
chìm các hòn đảo và các khu vực đất thấp ven biển, 
làm thay đổi đời sống và sinh hoạt của con người. 
Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm qua nhiệt độ 
trung bình đã tăng khoảng 0,5 - 0,7oC, mực nước 
biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El Nino, 
La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ. Biến đổi khí 
hậu làm cho những thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và 
hạn hán ngày càng khốc liệt. Chỉ tính trong 15 năm 
(1996 - 2011), các loại thiên tai như bão, lũ, lũ 
quét, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập 
mặn, đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài 
sản: làm chết và mất tích hơn 10.711 người, giá trị 
thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 1,5% GDP/năm 
(IMHEN, 2015). 
Theo kịch bản biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên 
và Môi trường, 2012), đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt 
độ trung bình năm ở nước ta sẽ tăng khoảng 2 - 
3oC; tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa 
tăng, nhưng lượng mưa mùa khô lại giảm; mực 
nước biển có thể dâng 0,75 – 1 m so với thời kỳ 
1980 - 1999. Nếu mực nước biển dâng cao 1 m sẽ 
có nguy cơ bị ngập khoảng 40% diện tích ĐBSCL, 
11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện 
tích các tỉnh ven biển khác; khoảng 10 - 12% dân 
số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất 
khoảng 10% GDP. 
Đối với TP. Cần Thơ, theo kịch bản do Bộ Tài 
nguyên và Môi trường phối hợp với Viện Khoa học 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 21 
Khí tượng Thủy văn & Môi trường và Chương 
trình Phát triển Liên Hợp Quốc thực hiện (2012), 
đến cuối thế kỷ này nhiệt độ trung bình năm có thể 
tăng lên 3,0oC; lượng mưa có xu hướng tăng và cực 
đoan hơn; mực nước biển dâng có thể lên 79 – 99 
cm. Trong điều kiện đó, TP. Cần Thơ có nguy cơ 
bị ngập rất nghiêm trọng: nếu mực nước biển dâng 
1 m thì diện tích ngập tới 58,3% (Bảng 1). 
Bảng 1: Diện tích TP. Cần Thơ bị ngập theo 
mực nước biển dâng 
Mức độ dâng 
mực nước biển 
trung bình (m) 
Diện tích bị 
ngập 
(km2) 
Tỷ lệ diện tích 
bị ngập 
(%) 
0,5 34,4 2,47 
0,7 165,5 11,9 
1,0 810,3 58,3 
Nguồn: Bộ TN&MT, Viện KTTV&MT, UNDP (2012) 
Trong những năm gần đây ở TP. Cần Thơ cũng 
như ở ĐBSCL, thiên tai liên tiếp xảy ra với sự gia 
tăng cường độ và diễn biến phức tạp: mưa bất 
thường, nắng nóng kéo dài, hạn hán, triều cường, 
ngập lụt và xâm nhập mặn,... ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến sản xuất và đời sống. 
3.1.2 Nhận thức về biến đổi khí hậu 
Nhận thức về biến đổi khí hậu là một bộ phận 
trong nhận thức về môi trường. Khái niệm này có 
thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. 
Shahid (2012) cho rằng nhận thức về môi trường 
của cá nhân và tổ chức là một chỉ số thể hiện phản 
ứng của họ đối với các tác động tiêu cực của môi 
trường sống xung quanh. Partanen-Hertell et al. 
(1999) cho rằng, có thể định nghĩa nhận thức về 
môi trường là sự kết hợp của động cơ, kiến thức và 
kỹ năng về môi trường. 
Theo Ziadat (2010), nhận thức về môi trường là 
một dạng kiến thức có thể phát triển qua quá trình 
nhận thức của con người. Vì thế, có thể nói rằng 
nhận thức về môi trường là sản phẩm của giáo dục 
và có thể phát triển thông qua quá trình giáo dục. 
Lợi ích của nhận thức về môi trường được ghi 
nhận qua các công trình nghiên cứu của nhiều tác 
giả: Nhận thức về môi trường góp phần bảo vệ tài 
nguyên và môi trường (Bohdanowicz, 2006; 
Palmer et al., 1999; Stabler & Goodall, 1997), phát 
triển nhận thức có thể hỗ trợ vào quá trình chuẩn bị 
và ứng phó với biến đổi khí hậu (Klein et al. 2001). 
Partanen-Hertell et al. (1999) cho rằng: Nhận 
thức về môi trường bắt đầu khi con người nhận 
thấy các bất lợi và trở ngại của môi trường xung 
quanh. Mức độ nhận thức về môi trường của con 
người khác nhau do chịu tác động của những điều 
kiện kinh tế - xã hội khác nhau (ví dụ như: trình độ 
học vấn, tuổi, giới tính, hoàn cảnh xã hội...). Trên 
cơ sở đó, tác giả đã đề xuất mô hình về nhận thức 
môi trường với 4 giai đoạn cơ bản: 
 Ở giai đoạn đầu tiên, động cơ để con người 
quan tâm đến môi trường là các tác động bất lợi 
đến sức khoẻ của họ. Do thiếu hiểu biết về lĩnh vực 
này, cộng đồng cho rằng giải quyết các vấn đề môi 
trường là nhiệm vụ của các nhà khoa học, các tổ 
chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế. Vì vậy, 
bước đầu tiên để nâng cao nhận thức về môi trường 
là phải nâng cao nhận thức của những chính trị gia 
có tầm ảnh hưởng, nhà quản lý, giới học thuật và 
những nhà hoạch định chính sách kinh tế. 
 Ở giai đoạn thứ hai, hành lang pháp lý và 
quản trị về môi trường được thiết lập trong xã hội. 
Các công cụ giám sát môi trường cơ bản được sử 
dụng và các trang thiết bị công nghệ phục vụ cho 
việc ngăn chặn ô nhiễm môi trường được thiết lập. 
Tuy nhiên, chưa có sự kết nối giữa các đơn vị này 
với nhau. Kết quả là chỉ giải quyết được những vấn 
đề môi trường mang tính riêng lẻ. 
 Ở giai đoạn thứ ba, hành lang pháp lý, quản 
trị về môi trường và các công cụ được phát triển 
một cách toàn diện. Vì vậy, các vấn đề môi trường 
trở thành một bộ phận quan trọng cả trong giới học 
thuật lẫn cộng đồng. Do sự gia tăng nhận thức về 
môi trường, sự phát triển hướng đến bền vững. Kết 
quả của những hoạt động này dẫn đến kết quả là 
kinh tế và sản xuất xã hội lớn mạnh hơn vì sự bền 
vững của sinh kế được gia tăng. 
 Ở giai đoạn cuối cùng, nhận thức về môi 
trường được lồng ghép và kết hợp trong hành động 
và cuộc sống hàng ngày. Điều này dẫn đến sự ý 
thức tuyệt đối về môi trường. 
3.1.3 Ứng phó với biến đổi khí hậu 
Ứng phó với biến đổi khí hậu là một quá trình, 
trong đó những giải pháp được triển khai và thực 
hiện nhằm giảm nhẹ hoặc thích ứng với tác động 
của các sự kiện khí hậu và lợi dụng những mặt 
thuận lợi của chúng (IPCC 2007). 
Theo Smith (1996), ứng phó với biến đổi khí 
hậu bao gồm hai giải pháp tương hỗ lẫn nhau là 
thích ứng và giảm nhẹ. Mối quan hệ giữa thích ứng 
và giảm nhẹ trong ứng phó với biến đổi khí hậu thể 
hiện ở Hình 1. Trong sơ đồ, đường liền thể hiện 
ảnh hưởng hoặc phản ứng trực tiếp. Đường đứt 
đoạn thể hiện ảnh hưởng hoặc phản ứng gián tiếp. 
Thích ứng với biến đổi khí hậu là một chiến 
lược cần thiết ở tất cả các quy mô, có vai trò bổ trợ 
quan trọng cho chiến lược giảm nhẹ biến đổi khí 
hậu (giảm phát thải khí nhà kính) trên phạm vi toàn 
cầu. Nhiều giải pháp thích ứng cũng góp phần 
giảm nhẹ biến đổi khí hậu. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 22 
Hình 1: Sơ đồ quan hệ giữa các yếu tố trong ứng phó với biến đổi khí hậu 
(Nguồn: Smith, 1996)
Thích ứng với biến đổi khí hậu là một quá trình 
lâu dài, đòi hỏi sự quan tâm bền bỉ và không ngừng 
hoàn thiện. Tuy nhiên, chiến lược thích ứng với 
biến đổi khí hậu dù hoàn thiện bao nhiêu cũng 
không thể giải quyết tận gốc vấn đề biến đổi khí 
hậu. Vì vậy, song song với việc xây dựng và triển 
khai chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu thì 
đồng thời cần triển khai chiến lược giảm nhẹ biến 
đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu. 
Lê Quang Trí (2016) đã sử dụng thuật ngữ 
“thích nghi” thay cho thuật ngữ “thích ứng” và cho 
rằng: Để ứng phó với biến đổi khí hậu thì cả hai 
hành động giảm nhẹ và thích nghi đều tồn tại song 
song và bổ sung cho nhau. Đối với các quốc gia 
nghèo và tài nguyên hạn chế, biện pháp thích nghi 
được chú trọng hơn là biện pháp giảm nhẹ. 
Đối với Việt Nam, nhiều tác giả (Phạm Trung 
Lương, 2015; Lê Anh Tuấn, 2009; Lê Thanh Sang 
và Bùi Đức Kính, 2010...) cho rằng: Nâng cao nhận 
thức xã hội, nhất là đội ngũ các nhà quản lý có ý 
nghĩa đặc biệt quan trọng để đề ra các giải pháp 
ứng phó với biến đổi khí hậu. 
Vì vậy, năm 2009, Chính phủ đã phê duyệt Đề 
án nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro 
thiên tai dựa vào cộng đồng; năm 2011, Chính phủ 
phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu 
(Chính phủ, 2009 & 2011). Chiến lược quốc gia về 
biến đổi khí hậu (Chính phủ, 2011) đã đề ra mục 
tiêu: “Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng 
lực ứng phó với biến đổi khí hậu của các bên liên 
quan; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, 
chất lượng nguồn nhân lực; hoàn thiện thể chế, 
chính sách, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn 
lực tài chính góp phần nâng cao sức cạnh tranh 
của nền kinh tế và vị thế của Việt Nam; tận dụng 
các cơ hội từ biến đổi khí hậu để phát triển kinh tế 
- xã hội; phát triển và nhân rộng lối sống, mẫu 
hình tiêu thụ thân ... từ báo đài (4,27); thứ hai, từ 
cơ quan nhà nước (4,02); thứ ba, từ các nhà khoa 
học (3,90); thứ tư, từ các tổ chức đoàn hội (3,28); 
cuối cùng là từ bạn bè và người thân (2,80). Nếu 
tính tỷ lệ ý kiến đánh giá từ mức tin tưởng trung 
bình (3,0) trở lên thì tất cả các nguồn thông tin nêu 
trên đều đạt tỷ lệ trên 50%; trong đó, nguồn thông 
tin từ nhà khoa học, nhà nước và báo đài đều đạt 
96%; đoàn hội 87%; bạn bè và người thân 66%. 
Về khái niệm “hiệu ứng nhà kính” (greenhouse 
effect), 70% ý kiến trả lời đúng là “sự tăng nhiệt độ 
của khí quyển trái đất”; 24% ý kiến trả lời sai, 
trong đó 8% ý kiến cho rằng đó là “hiệu quả phát 
triển các nhà kính trên trái đất”; 16% cho rằng đó 
là “trạng thái phát triển đô thị trên thế giới”; 6% 
không có ý kiến. Xét theo trình độ văn hóa, nhìn 
chung trình độ văn hóa càng cao thì tỷ lệ hiểu đúng 
khái niệm này càng cao: THPT (55,6%); trung cấp 
nghề (80,0%); cao đẳng (60,0%); đại học (86,4%); 
thạc sĩ (100%). Riêng trường hợp trình độ trung 
cấp nghề có tỷ lệ hiểu đúng (80%) cao hơn trình độ 
cao đẳng (60%) có thể là do hệ đào tạo này đã đưa 
vào giảng dạy cho người học những kiến thức về 
môi trường và biến đổi khí hậu. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 24 
Bảng 3: Mức độ tin tưởng đối với các nguồn thông tin về biến đổi khí hậu (1-5 mức) 
 Nhà khoa học Bạn bè, người thân Cơ quan nhà nước Đoàn hội Báo đài 
Số ý kiến trả lời 49 49 49 46 49 
Khuyết (không trả lời) 1 1 1 4 1 
Trung bình (Mean) 3,90 2,80 4,02 3,28 4,27 
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát (2016) 
Về khái niệm “khí nhà kính” (greenhouse gas), 
60% ý kiến trả lời đúng là “loại khí gây ra sự tăng 
nhiệt độ của khí quyển”; 34% ý kiến trả lời sai, 
trong đó 12% cho rằng đó là “loại khí được sử 
dụng nhiều trong nhà kính”, 22% cho rằng đó là 
“loại khí thải ra nhiều trong nhà kính”; 6% không 
có ý kiến trả lời. Xét theo trình độ văn hóa, trình độ 
cao hơn thì hiểu đúng khái niệm này nhiều hơn: 
THPT (22%); trung cấp nghề (80%); cao đẳng 
(70%); đại học (72,7%); thạc sĩ (100%). Riêng 
trình độ trung cấp nghề có tỷ lệ hiểu đúng khái 
niệm này cao hơn trình độ cao đẳng (tương tự như 
đối với khái niệm “hiệu ứng nhà kính”). 
Về nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, 60% ý 
kiến cho rằng “chủ yếu do con người gây ra”, 26% 
ý kiến cho rằng “chỉ do con người gây ra”, 10% ý 
kiến cho rằng “chỉ do tự nhiên gây ra”, 4% không 
có ý kiến. Như vậy, phần lớn các ý kiến đều cho 
rằng nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu là do con 
người hoặc chủ yếu do con người (86%). 
b. Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu 
Kết quả khảo sát đã cho thấy, các doanh nghiệp 
lưu trú du lịch ở TP. Cần Thơ đã có một số hành 
động tích cực nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu 
thể hiện ở cả hai giải pháp giảm nhẹ và thích ứng. 
Tỷ lệ sử dụng nguồn năng lượng mặt trời để đun 
nước nóng trong phòng tắm của các cơ sở lưu trú 
du lịch ở Cần Thơ khá cao (60%); chỉ có 38% dùng 
điện, 2% dùng gas. Điều này có ý nghĩa rất tích cực 
trong việc góp phần giảm phát thải khí nhà kính 
gây ra biến đổi khí hậu. 
Vấn đề tiết kiệm và tối ưu hóa trong sử dụng 
nguồn điện năng cũng được các doanh nghiệp lưu 
trú du lịch quan tâm. Nhìn chung, cách kiểm soát 
hệ thống điện năng trong các phòng khách của cơ 
sở lưu trú ở Cần Thơ có tỷ lệ hiện đại hóa cao: 
68,8% dùng thẻ từ hoặc chip tự động; chỉ có 25,0% 
dùng công tắc tổng hoặc thẻ cơ học; 6,3% dùng 
biện pháp nhắc nhở khách. 
Bảng 4: Tương quan giữa cách kiểm soát điện năng với hạng cơ sở lưu trú (%) 
Hạng cơ sở lưu trú Nhắc nhở khách Dùng công tắc tổng hoặc thẻ cơ học 
Dùng thẻ từ hoặc 
chíp tự động 
Chưa xếp hạng 6,3 31,2 62,5 
1 sao - 25,0 75,0 
2 sao - 14,3 85,7 
3 sao 14,3 28,6 57,1 
4-5 sao - - 100,0 
Tổng số 6,3 25,0 68,8 
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát (2016) 
Xét tương quan giữa hạng của cơ sở lưu trú với 
cách kiểm soát nguồn điện năng (Bảng 4), thì xu 
hướng chung là: Cơ sở lưu trú xếp hạng cao hơn có 
mức tự động hóa trong kiểm soát điện năng cao 
hơn. Riêng đối với các cơ sở lưu trú hạng 3 sao có 
tỷ lệ dùng thẻ từ hoặc chip tự động khá thấp. Tình 
trạng này có thể do một số khách sạn 3 sao được 
xây dựng khá lâu đời nên vẫn còn sử dụng thiết bị 
cũ mà chưa được hiện đại hóa. 
Về đánh giá mức độ thiệt hại do tác động của 
biến đổi khí hậu đến hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp lưu trú: 52% ý kiến cho rằng thiệt hại 
là ít nghiêm trọng, 44% cho rằng thiệt hại là 
nghiêm trọng; 4% cho rằng thiệt hại là rất nghiêm 
trọng. Giá trị trung bình (mean) đối với các tác 
động cụ thể của biến đổi khí hậu đến doanh nghiệp 
(1-5 mức) như sau: ngập lũ có tác động nhiều nhất 
(3,81); tiếp theo là xâm nhập mặn (3,61); mưa lớn 
bất thường (3,32); nhiệt độ tăng (2,39); bão, xoáy 
lốc (2,56). 
Để thích ứng với những tình trạng bất lợi do 
biến đổi khí hậu gây ra, các doanh nghiệp lưu trú 
du lịch ở Cần Thơ đã triển khai nhiều giải pháp 
khác nhau. Đối với tình trạng nhiệt độ tăng, 100% 
cơ sở được khảo sát cho biết đã thực hiện việc lắp 
đặt máy điều hòa; 82% đã sử dụng quạt hút nhiệt. 
Đồng thời, 80% doanh nghiệp được khảo sát đã 
thực hiện các giải pháp tiết kiệm điện (10% đã có 
kế hoạch thực hiện). Ngoài ra, để ứng phó với tình 
trạng nhiệt độ tăng, 14% doanh nghiệp đã thực 
hiện giải pháp thiết kế lại cơ sở (22% đã có kế 
hoạch thực hiện). 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 25 
Đối với tình trạng mưa lớn và thất thường, 16% 
doanh nghiệp đã thực hiện giải pháp thiết kế lại cơ 
sở (28% đã có kế hoạch thực hiện). Đồng thời, 
80% doanh nghiệp đã thực hiện giải pháp trang bị 
áo mưa hoặc dù đi mưa cho khách (6% đã có kế 
hoạch). 
 Đối với tình trạng ngập lũ, 32% doanh nghiệp 
đã thực hiện giải pháp thiết kế lại cơ sở (16% đã có 
kế hoạch thực hiện). Đồng thời, 44% doanh nghiệp 
đã thực hiện giải pháp chống ngập (16% đã có kế 
hoạch). Ngoài ra, 38% doanh nghiệp chọn giải 
pháp tránh xây dựng cơ sở lưu trú tại nơi nguy cơ 
ngập cao; 52% chọn giải pháp tăng cường thông tin 
dự báo để chủ động ứng phó với tình hình. 
 Đối với tình trạng xâm nhập mặn, do các cơ sở 
lưu trú ở TP. Cần Thơ chưa bị tác động trực tiếp, 
nên các giải pháp chủ yếu mang tính dự phòng. Về 
giải pháp dự trữ nước ngọt: 6% doanh nghiệp đã 
thực hiện, 4% đã có kế hoạch thực hiện, 34% chưa 
có kế hoạch, 54% cho rằng không cần thiết, 2% 
không có ý kiến. Về giải pháp đưa nước ngọt từ nơi 
khác đến: 4% doanh nghiệp đã có kế hoạch thực 
hiện, 38% chưa có kế hoạch, 52% cho rằng không 
cần thiết, 6% không có ý kiến. 
Nhìn chung, các ý kiến trả lời phù hợp với thực 
tế hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch ở TP. Cần 
Thơ dưới tác động của biến đổi khí hậu. Các giải 
pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của các doanh 
nghiệp lưu trú du lịch ở TP. Cần Thơ đều tập trung 
vào tình trạng nắng nóng, mưa bất thường, ngập lụt 
do mưa hoặc do triều cường. Tuy một số địa bàn 
ven biển ở ĐBSCL bị xâm nhập mặn nghiêm 
trọng, không đủ nước ngọt phục vụ cho sinh hoạt 
như ở TP. Bến Tre (tỉnh Bến Tre) hoặc TP. Rạch 
Giá (tỉnh Kiên Giang), nhưng ở TP. Cần Thơ thì 
nguồn nước chưa bị nhiễm mặn. 
c. Việc áp dụng nhãn sinh thái và tham dự tập 
huấn về môi trường 
Nhãn du lịch bền vững Bông sen xanh đã được 
Tổng cục Du lịch triển khai từ năm 2012; tuy 
nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, việc hiểu biết và 
áp dụng Nhãn Bông sen xanh của các doanh nghiệp 
lưu trú du lịch ở TP. Cần Thơ còn rất hạn chế: Có 
tới 66% ý kiến trả lời chưa từng nghe nói về nhãn 
này; 6% không có ý kiến. Trong số 28% ý kiến trả 
lời có nghe nói về Nhãn Bông sen xanh, chỉ có duy 
nhất 1 khách sạn 4 sao (2%) đang tìm hiểu về nhãn 
sinh thái này; chưa có cơ sở lưu trú du lịch nào ở 
TP. Cần Thơ áp dụng và được cấp Nhãn Bông sen 
xanh. 
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, việc tham dự 
các lớp tập huấn về môi trường và biến đổi khí hậu 
của các doanh nghiệp lưu trú du lịch ở Cần Thơ đạt 
tỷ lệ thấp (18%); còn 82% doanh nghiệp được khảo 
sát chưa từng dự tập huấn về môi trường. Về sự 
cần thiết tập huấn về môi trường và biến đổi khí 
hậu, 76% ý kiến cho rằng tập huấn là cần thiết 
nhằm cung cấp thêm thông tin hữu ích, giúp doanh 
nghiệp tìm ra các giải pháp ứng phó với biến đổi 
khí hậu. Ngược lại, có 24% ý kiến cho rằng không 
cần thiết tập huấn với lý do không có thời gian 
hoặc cho rằng đã có nhiều thông tin từ báo đài về 
vấn đề này. 
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
4.1 Kết luận 
Kết quả khảo sát cho thấy, nhìn chung các 
doanh nghiệp lưu trú du lịch tại TP. Cần Thơ đã có 
những kiến thức cơ bản về môi trường và biến đổi 
khí hậu; bước đầu các doanh nghiệp cũng có những 
biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ 
môi trường, phát triển bền vững. 
Tuy nhiên, nhận thức của các doanh nghiệp lưu 
trú du lịch tại TP. Cần Thơ mới dừng lại ở mức độ 
phổ quát, chưa có tính chuyên sâu trong lĩnh vực 
du lịch nói chung và lưu trú du lịch nói riêng. Các 
kiến thức về biến đổi khí hậu mà các doanh nghiệp 
lưu trú du lịch thu nhận được chủ yếu qua các 
phương tiện thông tin đại chúng (báo đài) và mạng 
internet. Nguồn thông tin từ hệ thống quản lý 
ngành du lịch như tổ chức tập huấn, hội thảo, ban 
hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đối với các 
doanh nghiệp lưu trú còn chưa phát huy hiệu quả. 
Vì vậy, việc tiếp tục nâng cao nhận thức về môi 
trường và biến đổi khí hậu đối với các doanh 
nghiệp lưu trú du lịch là một yêu cầu cấp thiết, nhất 
là việc cung cấp các kiến thức chuyên ngành như: 
vấn đề tác động của biến đổi khí hậu đối với du 
lịch, vấn đề phát triển du lịch bền vững, vấn đề áp 
dụng nhãn sinh thái trong du lịch,... nhằm đẩy 
mạnh phát triển du lịch xanh, bền vững ở thành 
phố Cần Thơ nói riêng và ĐBSCL nói chung. 
4.2 Đề xuất 
Để nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu cho 
các doanh nghiệp lưu trú du lịch ở TP.Cần Thơ, 
chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp như sau: 
 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục 
trong ngành du lịch để nâng cao nhận thức về môi 
trường và biến đổi khí hậu. Đặc biệt là việc tuyên 
truyền, phổ biến và triển khai áp dụng Nhãn du lịch 
bền vững Bông sen xanh, làm cho các doanh 
nghiệp thấy rõ ý nghĩa và sự cần thiết áp dụng nhãn 
sinh thái này để nâng cao chất lượng dịch vụ lưu 
trú và bảo đảm phát triển du lịch bền vững. 
 Phát huy vai trò của các phương tiện thông 
tin đại chúng như báo chí, đài truyền hình và mạng 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần C (2017): 19-26 
 26 
Internet trong việc phổ biến kiến thức về môi 
trường và biến đổi khí hậu, nâng cao nhận thức và 
thúc đẩy phong trào hành động vì môi trường, phát 
triển du lịch bền vững. Sở Văn hóa Thể thao và Du 
lịch TP. Cần Thơ cần bổ sung mục “Biến đổi khí 
hậu” hoặc “Du lịch bền vững” trên trang web của 
Sở nhằm cung cấp thông tin về môi trường và biến 
đổi khí hậu cho các doanh nghiệp và người lao 
động trong ngành du lịch. 
 Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch cần chú 
trọng xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo, 
hướng dẫn về phát triển du lịch bền vững và thích 
ứng với biến đổi khí hậu trong ngành du lịch nói 
chung và các doanh nghiệp lưu trú du lịch nói 
riêng. 
 Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch cần tăng 
cường tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị hội thảo 
về chủ đề bảo vệ môi trường và thích ứng với biến 
đổi khí hậu nhằm trang bị những kiến thức cần 
thiết cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính 
sách và các doanh nghiệp, người lao động trong 
ngành du lịch; từ đó có những hành động vì môi 
trường, góp phần phát triển du lịch bền vững. 
 Các doanh nghiệp lưu trú du lịch cần tích 
cực hưởng ứng các phong trào bảo vệ môi trường 
như “Làm sạch thế giới”, “Giờ trái đất”, để 
chung tay hành động cùng cộng đồng bảo vệ môi 
trường, phòng chống biến đổi khí hậu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2012. Kịch bản biến 
đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, Nxb 
Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học Khí 
tượng Thủy văn và Môi trường, Chương trình phát 
triển Liên Hợp Quốc, 2012. Kịch bản biến đổi khí 
hậu, nước biển dâng cho thành phố Cần Thơ. 
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, 2012. Bộ tiêu chí 
Nhãn du lịch bền vững Bông sen xanh áp dụng 
đối với cơ sở lưu trú du lịch tại Việt Nam. Quyết 
định số 1355/QĐ-BVHTTDL ngày 12/4/ 2012. 
Bohdanowicz P., 2006, Environmental awareness and 
initiatives in the Swedish and Polish hotel 
industries - survey results, International Journal of 
Hospitality Management, vol. 25, no. 4, pp. 66-82. 
Chính phủ, 2009. Đề án Nâng cao nhận thức cộng 
đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng 
đồng, Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 
13/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ. 
Chính phủ, 2011. Chiến lược quốc gia về biến đổi 
khí hậu. Quyết định số 2139 /QĐ-TTg ngày 
05/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ. 
IMHEN, 2015. Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về quản 
lý rủi ro thiên tai và các hiện tượng cực đoan nhằm 
thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu, Nxb Tài 
nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 
IPCC, 2007. Fourth Assessment Synthesis Report: 
Impacts, Adaptation and Vulnerability. 
IPCC, 2014. Fifth Assessment Synthesis Report: 
Approved Summary for Policymakers. 
Klein, R.J.T, Nicholls, R.J., Ragoonaden, S., 
Capobianco M., Aston J. & Buckley E.N., 2001. 
Technological Options for Adaptation to Climate 
Change in Coastal Zone', Journal of Coastal 
Research, vol. 17, no. 3, pp. 531-543. 
Lê Anh Tuấn, 2009. Tổng quan về nghiên cứu biến 
đổi khí hậu và các hoạt động thích ứng ở miền 
Nam Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo “Cùng nỗ lực 
để thích ứng biến đổi khí hậu”, CSRD-Acacia-
Both ENDS-IVM, Huế, 11-13/5/2009. 
Lê Quang Trí, 2016. Tác động của biến đổi khí hậu 
đối với sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL. Tạp chí 
Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 08/2016, 
tr.40-42. 
Lê Thanh Sang và Bùi Đức Kính, 2010. ĐBSCL 
thích ứng với biến đổi khí hậu, Tạp chí Khoa học 
Xã hội, số 11+12/2010, tr. 41-54. 
Palmer J.A., Suggate J., Robottom, I. & Hart P., 
1999. Significant life experiences and formative 
influences on the development of adults’ 
environmental awareness in the UK, Australia 
and Canada, Environmental Education Research, 
vol. 5, no. 2, pp. 181-200. 
Partanen-Hertell M., Harju-Autti P., Kreft-Burma K. 
& Pemberton D., 1999. Raising environmental 
awareness in the Baltic Sea area, The Finnish 
Environment, Hämeenlinna, Finland. 
Phạm Trung Lương, 2015. Biến đổi khí hậu với phát 
triển du lịch Việt Nam, Tài liệu tập huấn Bồi 
dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước về du lịch, 
Tổng cục Du lịch. 
Shahid Z., 2012. Climate Change Awareness and 
Adaptation by Local Planning in Punjab, 
Pakistan, Doctor of Philosophy thesis, 
University of Western Sydney. 
Smith K., 1996. Adapting to Climate Change: An 
International Perspective, Springer-Verlag. New 
York, NY, USA. 
Stabler M.J. & Goodall B., 1997. Environmental 
awareness, action and performance in the 
Guernsey hospitality sector. Tourism 
Management, vol. 18, no. 1, pp. 19-33. 
Ziadat A.H., 2010, Major factors contributing to 
environmental awareness among people in a third 
world country/Jordan, Environment, Development 
and Sustainability, vol. 12, no. 1, pp. 135-145. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_cua_cac_doanh_nghiep_kinh_doanh_luu_tru_du_lich_o.pdf