Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị thông qua việc tái tạo không gian thiêng

Mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị luôn là vấn đề nổi cộm trong nghiên cứu văn hóa học đương đại. Thông qua

nghiên cứu sự tái tạo không gian thiêng ở miếu thờ Linh Lang đại vương tại khu đô thị (KĐT) Đặng Xá, Gia Lâm,

Hà Nội, tác giả thảo luận về vấn đề biến đổi văn hóa làng quê Việt Nam, trong đó vấn đề tái tạo không gian thiêng liên

quan đến xu hướng “phục hồi”, “tái cấu trúc” văn hóa truyền thống giống như các địa phương khác trong các giai

đoạn chuyển đổi; tái tạo không gian thiêng như một thế ứng xử linh hoạt của người dân trong bối cảnh mới. Ở đó

cầu nối giữa nông thôn và đô thị trong những giai đoạn chuyển đổi được tạo dựng thông qua nhiều hình thức, trong

đó có sự tái cấu trúc trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội.

pdf 5 trang kimcuc 15320
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị thông qua việc tái tạo không gian thiêng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị thông qua việc tái tạo không gian thiêng

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị thông qua việc tái tạo không gian thiêng
4260(11) 11.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Mở đầu
Philip Taylor - một học giả nước ngoài có rất nhiều công 
trình uy tín nghiên cứu về Việt Nam nhận định rằng: “Khi 
nghiên cứu một làng, điều quan trọng là phải nghiên cứu 
mạng lưới (network) của làng đó với môi trường bên ngoài. 
Đó chính là nguồn lực để phát triển”1. Quan điểm đó cũng 
được nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn [1] chia sẻ khi ông cho 
rằng việc nghiên cứu làng phải dựa trên mối quan hệ “liên 
làng, siêu làng”, vì đó là cơ sở cho việc hình thành ý thức 
cộng đồng siêu làng, tiền thân của ý thức cộng đồng dân 
tộc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ngọc (2009) cũng cho 
rằng: “Một công trình nghiên cứu về làng xã, dù chỉ nghiên 
cứu một làng cũng không thể không quan tâm đến mối liên 
hệ giữa làng đó với bên ngoài”, bởi vì: “Không có làng Việt 
bất biến mà chỉ có làng Việt biến đổi nhiều hay ít cho phù 
hợp với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà 
thôi” [2]. Đã nhiều năm trôi qua, nghiên cứu làng Việt đã có 
nhiều thay đổi bởi sự đóng góp của các nhà khoa học nước 
ngoài như John Kleinen, Philip Taylor... cũng như một thế 
hệ các nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Công Thảo, Trần Thị 
Hồng Yến, Nguyễn Thị Phương Châm, Đỗ Lan Phương... 
Họ không còn bó buộc trong những nghiên cứu mô tả, khảo 
tả hay trình bày làng Việt như một thể cô lập, bất biến như 
Nguyễn Quang Ngọc từng trăn trở. Làng Việt đã được nhìn 
nhận một cách sống động hơn, với những cơ chế vận động 
nội tại và những động thái tiếp nhận sự biến đổi của môi 
trường xã hội. Gần đây nhất, năm 2016, trong công trình 
nghiên cứu: “Làng ven đô và sự biến đổi văn hóa - Nghiên 
cứu trường hợp làng Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, thành phố 
Hà Nội” [3], các tác giả đã đưa ra nhận định: “Việc mở rộng 
và đan xen các mạng lưới xã hội trong và ngoài cộng đồng 
làng trở nên phổ biến và diễn ra liên tục, biên giới làng 
ngày càng được mở rộng, mỗi người dân gắn với nhiều mối 
quan hệ, nhiều mạng lưới xã hội trong và ngoài khác nhau. 
Trên cơ sở giao lưu, tương tác diễn ra liên tục đa chiều, các 
thực hành văn hóa trong làng cũng theo đó mà thay đổi theo 
nhiều chiều hướng khác nhau”. Từ đó có thể thấy làng trong 
các giai đoạn biến đổi đã thể hiện là những cầu nối giữa 
nông thôn và đô thị, nó vẫn giữ được tính tự trị tương đối 
nhưng đã rất cởi mở và linh hoạt, ở đó có sự tái cấu trúc từ 
không gian đến kinh tế, văn hóa, chính trị, và rằng làng là 
một thực thể rất năng động, luôn “đóng” và “mở” đúng lúc 
để “thích nghi riêng đối với những biến số môi trường nhất 
định”[4].
Từ các nhận định gợi mở trên, bài viết tìm hiểu về sự 
tương tác giữa nông thôn và thành thị tại khu vực khảo sát 
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nông thôn 
và thành thị thông qua việc tái tạo không gian thiêng
Lê Việt Liên*
Viện Nghiên cứu Văn hóa
Ngày nhận bài 14/8/2018; ngày chuyển phản biện 20/8/2018; ngày nhận phản biện 8/10/2018; ngày chấp nhận đăng 16/10/2018
Tóm tắt:
Mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị luôn là vấn đề nổi cộm trong nghiên cứu văn hóa học đương đại. Thông qua 
nghiên cứu sự tái tạo không gian thiêng ở miếu thờ Linh Lang đại vương tại khu đô thị (KĐT) Đặng Xá, Gia Lâm, 
Hà Nội, tác giả thảo luận về vấn đề biến đổi văn hóa làng quê Việt Nam, trong đó vấn đề tái tạo không gian thiêng liên 
quan đến xu hướng “phục hồi”, “tái cấu trúc” văn hóa truyền thống giống như các địa phương khác trong các giai 
đoạn chuyển đổi; tái tạo không gian thiêng như một thế ứng xử linh hoạt của người dân trong bối cảnh mới. Ở đó 
cầu nối giữa nông thôn và đô thị trong những giai đoạn chuyển đổi được tạo dựng thông qua nhiều hình thức, trong 
đó có sự tái cấu trúc trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội.
Từ khóa: không gian thiêng, nông thôn, thành thị, truyền thống được sáng tạo.
Chỉ số phân loại: 5.10
*Email: levietlien@gmail.com.
1Trích buổi thuyết trình của TS Philip Taylor tại Viện Nghiên cứu Văn hóa ngày 
22/12/2016.
4360(11) 11.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
là KĐT Đặng Xá, thuộc xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, thành 
phố Hà Nội thông qua sự tái tạo một không gian thiêng. Bài 
viết xem xét sự tương tác giữa nông thôn và thành thị thể 
hiện như thế nào thông qua việc tái tạo không gian thiêng; 
những lợi ích mà cộng đồng làng xã được hưởng khi tái tạo 
không gian thiêng, cũng như nhận diện được “cái thiêng”, 
cái “truyền thống” mà cộng đồng sử dụng trong quá trình 
tương tác “đóng”, “mở” với bên ngoài. 
“Trong thôn có thị, trong thị có thôn”: KĐT Đặng Xá trong quần 
thể xã Đặng Xá - một mối liên hệ không thể tách rời
Trong quá trình mở rộng thành phố Hà Nội, việc xây 
dựng quỹ nhà ở cho người dân trên địa bàn là một việc làm 
cần thiết. Để đáp ứng nhu cầu đó, thành phố đã chủ trương 
cho phép xây dựng nhiều KĐT mới, đặc biệt là ở vùng ngoại 
thành Hà Nội phù hợp với thu nhập của người dân. Đặng Xá 
là một trong những KĐT như vậy. KĐT có diện tích 69,6 ha 
tọa lạc về phía đông bắc Thủ đô, cách trung tâm thành phố 
Hà Nội khoảng 12 km, là KĐT đầu tiên trên địa bàn huyện 
Gia Lâm phát triển dọc theo Quốc lộ 5. Tại đây, các công 
trình dân sinh đã được hoàn thiện như khu nhà biệt thự, khu 
nhà ở thương mại, khu nhà ở cho người thu nhập thấp... với 
rất nhiều tiện ích đi kèm như bể bơi, bãi đỗ xe, công viên, 
sân bóng, khu vui chơi giải trí, siêu thị, ngân hàng, hệ thống 
trường học các cấp. 
Mặc dù được đầu tư xây dựng một KĐT với hạ tầng 
đồng bộ như vậy, nhưng xã Đặng Xá hiện nay vẫn mang 
nhiều màu sắc nông thôn mặc dù xã đang trong quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa sâu sắc với những khu công 
nghiệp, nhà máy, xí nghiệp mọc lên. Về mặt hình thức, KĐT 
Đặng Xá nằm tách bạch trên một khoảng đất riêng, với phần 
lớn là cư dân mới, có công ăn việc làm không gắn với nông 
nghiệp và hầu như không có mối quan hệ thân tộc gì với 
những người trên địa bàn xã. Nhưng kỳ thực, do KĐT thuộc 
địa bàn xã, nên chịu sự quản lý của chính quyền xã, “vẫn 
phải” tương tác với cư dân sở tại, trước hết là về mặt hành 
chính. Trong cuộc sống thường ngày, mối tương tác thể hiện 
trên nhiều phương diện như chợ búa, sinh hoạt tín ngưỡng... 
Người dân trong xã vẫn mang lương thực thực phẩm do 
mình sản xuất bán tại chợ cóc trong KĐT, còn người dân 
trong KĐT vẫn sinh hoạt tín ngưỡng tại những đền, chùa có 
trong xã... Sự tương tác đó một mặt là do quy định bắt buộc, 
mặt khác cũng là do chính quyền và những người dân mong 
muốn thể hiện quyền lợi, lợi ích của mình trên vùng đất mà 
trước kia đã từng thuộc về mình. Họ coi như đây là một 
hình thức “đền bù” xứng đáng. 
Như vậy có thể thấy, KĐT Đặng Xá là một ví dụ tiêu 
The relationship between rural 
and urban areas as expressed 
in the reconstruction 
of a sacred space
Viet Lien Le
Institute for Cultural Studies
Received 14 August 2018; accepted 16 October 2018
Abstract:
The relationship between rural and urban areas has 
always been a prominent issue in contemporary cultural 
studies. Through studying the reconstruction of the 
sacred space in the Temple of the Great Hall in Dang 
Xa, Gia Lam, Hanoi, the author raises the issues of 
Vietnamese rural culture change, including the problem 
of regeneration of the sacred space related to the trend 
of “restoring”, “restructuring” traditional culture 
like other localities in the transitional period and the 
rebuilding of the sacred space as an action to express 
the flexible behaviour of people in the new context. 
The connection between rural and urban areas in the 
transitional period is expressed in various aspects, such 
as economy, culture and social restructuring.
Keywords: invented tradition, rural, sacred space, urban.
Classification number: 5.10
4460(11) 11.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
biểu cho cái gọi là “trong thôn có thị, trong thị có thôn” tại 
nhiều địa phương ngoại thành Hà Nội. Ở đó, sự giao lưu 
giữa thôn và thị là một nét văn hóa đặc trưng của làng ngày 
nay trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Tái tạo không gian thiêng - chiến lược trong việc sử dụng 
“cái thiêng” của người dân trong bối cảnh biến đổi văn hóa 
làng
Không gian là một đối tượng quan trọng trong nghiên 
cứu văn hóa thường ngày. Thuyết kiến tạo không gian 
(Spatializing theory - nguyên gốc từ cuốn sách “Production 
de l’espace” của nhà nghiên cứu Henri Lefèbvre người Pháp) 
cho rằng, trong khoa học xã hội và nhân văn, không gian là 
một đối tượng chúng ta không chỉ nói tới mà trực tiếp tham gia 
vào. Đây không chỉ là không gian vật chất, không gian hữu 
hình, mà quan trọng hơn là không gian văn hóa, không gian 
xã hội được tạo bởi con người sống trong đó. Khi nghiên 
cứu về không gian làng, Nguyễn Công Thảo (2008) [5] chia 
ra các dạng không gian như: i) không gian sản xuất bao 
gồm: các xứ đồng, bãi chăn thả, đầm, hồ; ii) không gian cư 
trú gồm xóm, ngõ, nhà cửa, vườn nhà; iii) không gian sinh 
hoạt cộng đồng gồm sân đình, chợ, giếng làng, ao làng, các 
bãi đất công trong làng dùng làm nơi hội họp, tổ chức lễ 
hội, hay vui chơi; iv) không gian tâm linh gồm đình, chùa, 
đền, miếu. Nguyễn Văn Sửu (2014) phân tích từ nhiều tài 
liệu khác nhau đã phân chia không gian làng thành các dạng 
không gian như: không gian cư trú, không gian kiến trúc, 
không gian xã hội, không gian thiêng, không gian canh tác/
sản xuất, không gian hành chính, không gian chung... Trong 
đó, tác giả cho rằng không gian thiêng là nơi chứa đựng các 
giá trị vật thể hay phi vật thể hay các hoạt động tôn giáo, 
tín ngưỡng [6]. Dù có nhiều cách phân loại, nhưng các tác 
giả đều thừa nhận sự phân loại là mang tính chất tương đối 
vì các loại hình không gian và ngay cả quan niệm hay nhận 
thức về không gian đều có xu hướng “không phải là bất 
biến”.
Khi nghiên cứu đời sống tôn giáo của một cộng đồng, 
cần quan tâm nhất đến “không gian thiêng”. Khái niệm 
“không gian thiêng” không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp 
là khoảng không gian trong các nhà thờ, nhà nguyện, thánh 
đường, thánh thất, chùa, đạo, quán mà còn được hiểu theo 
nghĩa rộng là không gian tâm linh, không gian thiêng mà 
chính đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cộng đồng ấy tạo 
ra. Trong bài “Không gian thiêng Thăng Long Hà Nội”, Đỗ 
Quang Hưng (2010) cho rằng: “Không gian thiêng được tạo 
Miếu thờ Linh Lang đại vương trong KĐT Đặng Xá.
4560(11) 11.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
nên bởi những “di tích tôn giáo” hay “bầu không khí tâm 
linh” mà di tích tôn giáo cũng như những thói quen tập tục 
của đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cộng đồng tạo thành, 
nghĩa là bên cạnh không gian xã hội bình thường lại có thêm 
một không gian tâm linh lồng vào cái không gian xã hội 
bình thường đó” [7]. 
Trường hợp của KĐT Đặng Xá, mối quan hệ nông thôn 
- đô thị được biểu đạt thông qua việc tái tạo một không 
gian thiêng, cụ thể là ở việc miếu thờ Linh Lang đại vương 
trước đây thuộc thôn Kim Âu (xã Đặng Xá) nay đã được xây 
dựng lại trên nền cũ thuộc KĐT. Việc xây dựng lại miếu thờ 
trong KĐT Đặng Xá (hoàn tất vào tháng 11/2012) đã xác lập 
tính “hợp pháp” về mặt văn hóa cho một không gian nay đã 
“thiêng” trở lại này. Tính “hợp pháp” này trước hết phù hợp 
với chủ trương của Nhà nước “khôi phục văn hóa truyền 
thống” ở nhiều địa phương thông qua việc tu bổ, chỉnh 
trang, xây dựng các khu di tích kể từ khi Đổi mới (1986). 
Việc xây dựng KĐT Đặng Xá đã chia địa vực hành chính 
của thôn Kim Âu trước kia thành hai phần không gian, một 
không gian với khung cảnh làng quê và người dân sở tại 
(gốc); phần thứ hai thuộc về KĐT với những công trình quy 
mô hiện đại (người dân sống ở đây được dân làng gọi là 
dân KĐT). Đó giống như một bức tranh với hai mảng màu, 
không thể coi “mảng” nào sáng hơn “mảng” nào bởi đôi khi 
cuộc sống nông thôn có những lợi ích mà cuộc sống đô thị 
không thể có và ngược lại. Trong bối cảnh hiện đại hóa nông 
thôn thì đó là hai mảng màu xen kẽ, lưỡng phân và tương 
tác với nhau. Vấn đề biến đổi văn hóa làng trong bối cảnh 
mới cũng đã được các nhà nghiên cứu trong nước tiếp thu 
và ứng dụng từ hệ thống lý thuyết của nước ngoài đã cho ra 
nhiều công trình có giá trị của các tác giả như Lê Hồng Lý 
(2007) [8], Phan Đại Doãn (1992) [9], Lương Văn Hy và 
Trương Huyền Chi (2012) [10], Nguyễn Thị Phương Châm 
(2009) [11]
Trong một công trình khác, Nguyễn Thị Phương Châm 
khi nghiên cứu về quá trình biến đổi văn hóa cho rằng: “Chủ 
đề nổi bật được nhiều học giả quan tâm là quá trình lưỡng 
phân giữa hệ thống kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, là 
quá trình lưỡng phân và tiếp nối giữa nông thôn và đô thị, sự 
chuyển đổi cấu trúc xã hội nông thôn đi cùng với sự thay đổi 
của hệ thống giá trị: giá trị truyền thống dần bị chuyển đổi, 
một số giá trị mang tính địa phương riêng biệt dần trở nên 
đồng dạng trên diện rộng. Sự lưỡng phân nông thôn - đô thị 
này cũng được tìm hiểu trên cấp độ làng Làng trong các 
giai đoạn biến đổi đã thể hiện là những cầu nối giữa nông 
thôn và đô thị, nó vẫn giữ tính tự trị tương đối của nó nhưng 
đã rất cởi mở và linh hoạt, ở đó có những sự tái cấu trúc từ 
không gian cho đến kinh tế, văn hóa, xã hội” [12]. 
Tái tạo không gian thiêng liên quan đến xu hướng “phục 
hồi”, “tái cấu trúc” văn hóa truyền thống. Và trong quá trình 
“tái cấu trúc” về mặt vật chất ấy cũng kéo theo những mối 
quan hệ đa chiều, đa thanh trong các vấn đề về kinh tế, văn 
hóa, xã hội tại địa phương đó. Về vấn đề này, nhiều học 
giả trong các công trình nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa 
làng quê thường đề cập đến lý thuyết “sáng tạo ra truyền 
thống” của Hobsbawn. Theo ông, “sáng tạo ra truyền thống” 
(invented tradition) là “bao gồm những “truyền thống” thực 
tế đã được sáng tạo ra, được xây dựng thành, được hợp thức 
hóa; và bao gồm cả những gì đang nhen nhóm theo một 
lối khó truy nguyên hơn, trong một khoảng thời gian ngắn 
và dễ xác định niên đại hơn, có khả năng định hình nhanh 
chóng hơn trong tiềm thức cộng đồng” [13]. Do đó, sự phục 
dựng và thiêng hóa khu miếu ở KĐT Đặng Xá quả thật là 
một thứ “vũ khí” văn hóa của người dân nhằm “đáp ứng nhu 
cầu vật chất cho sự tồn tại” trong bối cảnh đô thị hóa nông 
thôn đang diễn ra sâu sắc như hiện nay [14]. 
Trong việc tái tạo không gian thiêng tại miếu thờ Linh 
Lang đại vương, người dân gốc của làng đã sử dụng những 
câu chuyện dân gian mang tính huyền thoại để bồi đắp thêm 
phần linh thiêng cho ngôi miếu. Sự tích miếu thờ này được 
truyền miệng và lưu truyền bởi những người dân trong làng. 
Họ kể rằng: xưa kia có một cây gỗ rất to trôi từ trên sông 
Đuống về đây. Lúc đó ở đây là một vùng đầm nước mênh 
mông, cây cối um tùm. Khi cây gỗ trôi đến làng Kim Âu thì 
dừng lại. Dân làng bèn hò nhau ra kéo vớt lên, lạ kỳ thay 
khi xẻ cây gỗ ra thì thấy dòng chữ “Linh Lang đại vương”. 
Cho là thánh đã hiển linh tại đây, họ bèn lập một miếu thờ 
ngài, còn cây gỗ thì được đem vào trong làng để xây đình. 
Màu sắc linh thiêng ngày càng đậm đà hơn khi người dân 
trong làng luôn kể về những câu chuyện mang tính chất ma 
mị liên quan đến miếu thờ này. Có một điều dễ nhận thấy 
là motif “cây khổng lồ”, “rắn”, “không kiêng khem mà bỏ 
mạng” thường được xuất hiện trong những câu chuyện dân 
gian của người dân nhiều địa phương khi muốn nhấn mạnh 
tới yếu tố linh thiêng của địa điểm nào đó ở địa phương 
mình. Các huyền thoại luôn được giải huyền thoại, được 
diễn ngôn cho những diễn ngôn ở các cấp độ khác nhau cho 
những “kế hoạch” khác nhau. Hiện thực đã được kiến tạo 
bởi những huyền thoại. Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, 
con người khoác màu sắc linh thiêng cho một không gian 
dựa trên những gì họ và cộng đồng trải nghiệm nhằm một 
mục đích cụ thể. Như vậy, tính từ thời điểm trước khi KĐT 
Đặng Xá được xây dựng thì đây là khu miếu nhỏ, ít được 
dân làng quan tâm. Miếu thờ Linh Lang đại vương cũ nằm 
trong quy hoạch xây dựng tổng thể KĐT Đặng Xá. Vì đây 
4660(11) 11.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
là một di tích tâm linh, hơn nữa lại được bà con trong thôn 
khẳng định là miếu thiêng, ai xâm phạm sẽ bị thánh quở nên 
những nhà chủ thầu xây dựng vốn có chút duy tâm đã không 
thể xóa bỏ ngôi miếu đó ra khỏi dự án. Nhưng với không 
gian đô thị hiện đại thì không thể tồn tại một ngôi miếu đã 
rêu phong, hoen ố theo thời gian. Chính vì vậy mà ban quản 
lý phối hợp với dân làng đã bàn bạc đưa ra một phương án 
xây dựng lại khu miếu thật bề thế cho hài hòa với khung 
cảnh chung. Lời đề nghị ấy được dân làng hoan nghênh bởi 
nhiều lý do, trong đó có việc vốn bỏ ra là của công ty, còn 
dân làng vẫn là chủ của ngôi miếu đó, mọi hoạt động văn 
hóa tại ngôi miếu đều do dân làng chủ trì. Hơn nữa, từ khi có 
ngôi miếu, người dân trong KĐT cũng có nơi để sinh hoạt 
tín ngưỡng và số tiền công đức mà người dân ở đây đóng 
góp cũng không phải là ít. Câu chuyện tiền công đức là vấn 
đề nhạy cảm không thuộc mối quan tâm của bài viết nhưng 
rõ ràng nó mang lại lợi nhuận cho những người thuộc ban 
quản lý trong thôn - những người nắm quyền lực với cái 
thiêng đã và đang được kiến tạo ra. 
Kết luận
 Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mối quan 
hệ giữa nông thôn và thành thị ngày càng trở nên rõ nét hơn. 
Mối quan hệ này thể hiện trên tất cả các bình diện của cuộc 
sống từ văn hóa, chính trị, kinh tế... Từ một khía cạnh nhỏ 
của đời sống văn hóa, đó là việc tái tạo không gian thiêng 
mà cụ thể là tái tạo miếu thờ Linh Lang đại vương tại KĐT 
Đặng Xá - Gia Lâm - Hà Nội đã cho thấy một bức tranh 
phức hợp đan xen giữa nông thôn và thành thị. Bên cạnh đó, 
tái tạo không gian thiêng cũng có thể xem như một thế ứng 
xử linh hoạt của người dân trong bối cảnh mới. Trong khung 
cảnh này, người dân đã sử dụng cái truyền thống, cái thiêng 
cũng như “quyền lực” của cái thiêng để ứng xử với môi 
trường mới bên ngoài khi mà bối cảnh mới là công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa diễn ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nhà 
xuất bản Hội Nhà văn.
[2] Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, 
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Nguyễn Thị Phương Châm, Đỗ Lan Phương (2016), Làng ven 
đô và sự biến đổi văn hóa - Trường hợp làng Xuân Đỉnh, huyện Từ 
Liêm, TP Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
[4] Terry Rambo (2014), “Cộng đồng nông dân cố kết khép kín và 
cộng đồng nông dân mở: mở lại một trường hợp đã đóng vội vàng”, 
Văn hóa, môi trường, lễ nghi và sức khỏe ở Việt Nam: Những cách 
tiếp cận nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
[5] Nguyễn Công Thảo (2008), “Sự biến mất của những bóng ma 
tiếp cận dưới cái nhìn nhân học sinh thái”, Sự biến đổi của tôn giáo tín 
ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Thế giới.
[6] Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến 
đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội, Nhà xuất bản Tri thức.
[7] Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng 
Long - Hà Nội, Nhà xuất bản Hà Nội.
[8] Le Hong Ly (2007), “Praying for Profit: The Cult of the Lady 
of the Treasury”, Journal of Southeast Asian Studies, 38(3), pp.493-
513.
[9] Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh 
tế - xã hội, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
[10] Lương Văn Hy, Trương Huyền Chi (2012), “Thương thảo 
tái lập và sáng tạo “truyền thống”: Tiến trình tái cấu trúc lễ hội cộng 
đồng tại một làng Bắc Bộ”, Những thành tựu nghiên cứu bước đầu 
của Khoa Nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
[11] Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các 
làng quê hiện nay, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[12] Nguyễn Thị Phương Châm (2010), “Khi làng vươn ra phố: 
những xu hướng biến đổi văn hóa - Nghiên cứu trường hợp làng Đồng 
Kỵ, Đồng Quang, Từ Sơn, Bắc Ninh”, Hiện đại và động thái của 
truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, tập 2, Nhà 
xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
[13] Eric Hobsbawn (2012), “Sáng tạo ra truyền thống”, Tạp chí 
Văn hóa học, số 2.
 [14] Phạm Quỳnh Phương (2010), “Những không gian thiêng 
- Một nghiên cứu thực địa về các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở Việt 
Nam”, Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những 
cách tiếp cận nhân học, tập 2, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ 
Chí Minh.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ve_moi_quan_he_giua_nong_thon_va_thanh_thi_thong.pdf