Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn

có lịch sử lâu đời. Sản xuất muối nơi đây diễn

ra vào mùa khô, bắt đầu từ tháng 9 âm lịch của

năm trước đến tháng 3 âm lịch của năm sau.

Đây là giai đoạn nước biển có độ mặn cao, trời

không mưa, nắng gió đều và ổn định nhất

trong năm. Bài nghiên cứu này chủ yếu viết về

đời sống, kinh nghiệm và cách làm muối của

diêm dân ở Long Sơn. Hiện nay, nghề làm

muối ở đây vẫn chủ yếu sản xuất theo phương

pháp thủ công truyền thống, phụ thuộc nhiều

vào thiên nhiên, sản lượng và giá cả đầu ra

của sản phẩm. Việc thu hẹp diện tích đất làm

muối là do nghề làm muối có thu nhập bấp

bênh, bị nhiều ngành khác có thu nhập cao

hơn cạnh tranh. Bên cạnh đó, các dự án quy

hoạch đồng muối hiện nay của địa phương là

thách thức rất lớn đối với nghề làm muối và

diêm dân ở Long Sơn.

pdf 10 trang kimcuc 3220
Bạn đang xem tài liệu "Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X3-2015 
Trang 72 
Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn, 
thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 
 Phạm Văn Dục 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn 
có lịch sử lâu đời. Sản xuất muối nơi đây diễn 
ra vào mùa khô, bắt đầu từ tháng 9 âm lịch của 
năm trước đến tháng 3 âm lịch của năm sau. 
Đây là giai đoạn nước biển có độ mặn cao, trời 
không mưa, nắng gió đều và ổn định nhất 
trong năm. Bài nghiên cứu này chủ yếu viết về 
đời sống, kinh nghiệm và cách làm muối của 
diêm dân ở Long Sơn. Hiện nay, nghề làm 
muối ở đây vẫn chủ yếu sản xuất theo phương 
pháp thủ công truyền thống, phụ thuộc nhiều 
vào thiên nhiên, sản lượng và giá cả đầu ra 
của sản phẩm. Việc thu hẹp diện tích đất làm 
muối là do nghề làm muối có thu nhập bấp 
bênh, bị nhiều ngành khác có thu nhập cao 
hơn cạnh tranh. Bên cạnh đó, các dự án quy 
hoạch đồng muối hiện nay của địa phương là 
thách thức rất lớn đối với nghề làm muối và 
diêm dân ở Long Sơn. 
Từ khóa: Nghề làm muối, diêm dân, đảo Long Sơn 
1. Mở đầu 
Muối, một khoáng chất rất cần thiết trong đời 
sống con người. Muối dùng trong mỗi bữa ăn hàng 
ngày, trong các ngành công nghiệp thực phẩm, công 
nghiệp hóa chất và y tế Tuy vậy, những thế kỷ 
gần đây con người mới biết cách làm ra hạt muối. 
Bài viết này dựa trên kết quả nghiên cứu điền dã 
kéo dài 4 tháng, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2014 
tại xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa 
Vũng Tàu về nghề làm muối1 của người Việt ở 
Long Sơn. Hướng nghiên cứu trong bài viết này là 
tiếp cận sinh thái văn hóa trong nhân học kinh tế. 
Nghiên cứu sinh thái văn hóa trong nhân học kinh 
tế được ra đời khi một số học giả phương tây muốn 
lý giải cho sự giống nhau giữa các nền văn hóa vốn 
được quy định bởi những điều kiện địa lý nhất định. 
1 Nghề làm muối ở khu vực phía Nam được sản xuất theo 
phương pháp phơi nước truyền thống, khác hẳn với sản xuất 
muối theo phương pháp phơi cát truyền thống của diêm dân khu 
vực phía Bắc nước ta. 
Một trong những nhà nghiên cứu nổi bật trong tiếp 
cận sinh thái văn hóa là Julian Steward. J.Steward 
nhấn mạnh đến sự thích nghi của các nền văn hóa 
với các điều kiện của môi trường cụ thể. Thuyết 
nghiên cứu sinh thái văn hóa của ông cho rằng có 
một mối quan hệ sáng tạo và năng động giữa văn 
hóa và môi trường. Đó là mối quan hệ giữa công 
nghệ, tài nguyên và lao động. Lý thuyết này cho là 
các dạng thức lao động được sắp xếp theo chu kỳ 
thời vụ, phân công nhiệm vụ và sắp xếp, lỗ lực cùng 
nhau phần lớn phụ thuộc vào công nghệ sẵn có và 
bản chất nguồn tài nguyên sẽ khai thác. Những 
dạng thức lao động cũng tác động trở lại các thiết 
chế xã hội khác, bao gồm nguyên tắc cư trú, dòng 
họ, quy mô cộng đồng và vị trí cư trú. Lý thuyết của 
ông cũng cho thấy các xã hội mà công nghệ càng 
kém phát triển thì xã hội đó càng bị ảnh hưởng 
nhiều bởi yếu tố môi trường và các nền văn hóa 
được định hình bởi nhiều yếu tố khác nhau chứ 
không phải chỉ có yếu tố môi trường và kỹ thuật. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X3-2015 
 Trang 73 
Tuy nhiên, việc nhấn mạnh tầm quan trọng của các 
yếu tố trên là hết sức cần thiết2. 
Trong nghiên cứu này, việc áp dụng lý thuyết 
sinh thái văn hóa là nhằm nhấn mạnh sự thích nghi 
của diêm dân đối với môi trường sinh thái ở địa 
phương. Trước kia, khi cầu Ba Nanh, cầu Gò Găng 
và cầu Chà Và chưa được xây dựng thì xã Long 
Sơn còn cách biệt hoàn toàn với đất liền. Sự biệt lập 
về môi trường sống khiến cho cư dân trên đảo hạn 
chế tiếp xúc, trao đổi với các nhóm cư dân bên 
ngoài. Trong môi trường sống ấy, người dân đã tận 
dụng những tri thức sẵn có vào khai thác nguồn tài 
nguyên thiên nhiên và hình thành lên các nghề 
mang yếu tố văn hóa biển sâu sắc. Cuối thế kỷ XX 
trở về trước, nghề muối cùng với nghề đánh bắt và 
nghề trồng lúa nước là những ngành có thế mạnh ở 
Long Sơn. Sự kết hợp đa dạng mang tính chu kỳ 
thời vụ giữa các nghề làm muối, đánh bắt, nuôi 
trồng thủy sản, trồng lúa, làm rẫy minh chứng 
sống động cho quá trình thích nghi một cách chủ 
động, sáng tạo của con người với môi trường sinh 
thái nơi đây. 
Nội dung nghiên cứu tập trung tìm hiểu mùa vụ, 
dụng cụ, kinh nghiệm làm muối và đời sống của 
diêm dân Long Sơn nhằm hiểu rõ hơn về nghề làm 
muối theo phương pháp thủ công truyền thống. 
Ngoài ra, thông qua những dự án quy hoạch của địa 
phương, chúng tôi sẽ nêu lên khuynh hướng nghề 
muối nơi đây. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi giao 
thông liền mạch, trao đổi thông thương với các 
vùng đất khác trở nên dễ dàng thì cơ hội kinh tế của 
diêm dân cũng tăng lên. Những dự án quy hoạch 
tổng thể sẽ làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp. Khi 
đất làm muối giảm đi, nghề muối và người làm 
muối sẽ đứng trước những thách thức mới. 
2. Lịch sử vùng đất Long Sơn và nghề muối 
nơi đây 
Thành phố Vũng Tàu có tất cả 17 phường, xã 
nhưng Long Sơn là xã duy nhất. Xã Long Sơn nằm 
2 Ngô Thị Phương Lan (2013), “Chương 7: Kinh tế”, trong: Nhân 
học đại cương, Nxb. ĐHQG TP.HCM, tr.289-290. 
ở phía Bắc của thành phố Vũng Tàu, phía Đông 
giáp với sông Dinh, phía Bắc giáp xã Tân Hải thuộc 
huyện Tân Thành và Long Hương thuộc thành phố 
Bà Rịa, phía Tây và Nam tiếp giáp với biển. Xã 
Long Sơn gồm 2 đảo: phía Tây là đảo núi Nứa, phía 
Đông là đảo Gò Găng. Diện tích đất tự nhiện toàn 
xã rộng 92 km2. Dân số năm 2013 có 16.456 người, 
tập trung chủ yếu bên đảo núi Nứa. 
Long Sơn là một xã có lịch sử hình thành lâu 
đời, trước khi có người Việt đặt chân đến thì đã có 
con người sinh sống. Các di chỉ khảo cổ học gần 
đây cho thấy Long Sơn thuộc nền văn hóa Đồng 
Nai với những hiện vật được khai quật từ các khu 
mộ táng có niên đại khoảng 2.000 năm. Trong các 
di chỉ khảo cổ học có đồ tùy táng như vàng, đá quý, 
thủy tinh... cho thấy đời sống cư dân ở Long Sơn 
xưa kia đã phát triển tới một trình độ nhất định, có 
giao lưu, thông thương với nhiều khu vực khác3. 
Về cư dân người Việt sinh sống ở Long Sơn, 
theo những tài liệu chúng tôi có, chúng tôi tạm 
chia ra làm 3 nhóm cư dân tới khai hoang, lập ấp 
như sau: 
Nhóm những ngườidân tới khai hoang, lập ấp ở 
khu vực phía Bắc của đảo núi Nứa. Họ chủ yếu làm 
nghề đánh bắt hải sản, khai phá ruộng rẫy, trồng cây 
ăn trái và khai thác lâm sản4. 
Nhóm lính thú được cử tới núi Nứa để đóng giữ, 
canh phòng cửa ngõ đi vào miền Đông Nam Bộ thời 
vua Minh Mạng (1820-1840). Sau khi giải ngũ, một 
số người đã xin ở lại theo chính sách “khuyến 
nông” của triều đình lúc đó. Họ đã khai phá đất đai, 
định cư lâu dài tại khu vực Bến Điệp (phía Nam) và 
Bến Đá (phía Bắc) của đảo. Hai khu vực này là 
3 Nguyễn Đình Thống (Chủ biên), 2009, Lịch sử Đảng bộ xã 
Long Sơn 1930 - 2005, Vũng Tàu, tr. 13. 
4 Theo “Lịch sử Đảng bộ xã Long Sơn 1930 - 2005” thì nhóm cư 
dân khai hoang khu vực phía Bắc đảo Long Sơn gồm có các ông 
Cái Thế Hùng, Cái Văn Đóng,Trần Văn Mít, Lê Văn Luông, Võ 
Thành Long, Bùi Văn Lữ, Huỳnh Thanh Phi, Trương Văn Chơi, 
Huỳnh Thành Điểu và bà Nguyễn Thị Cúc. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X3-2015 
Trang 74 
những khu vực trũng, dễ tích tụ nước mưa, thuận lợi 
cho trồng trọt, đánh bắt hải sản và làm muối5. 
Nhóm do ông Lê Văn Mưu (1855-1935), tục gọi 
là ông Trần6 dẫn đầu. Nhóm người này từ miền Tây 
Nam Bộ tới đảo núi Nứa khoảng năm 1900. Họ 
khai hoang và định cư tại khu vực phía Đông của 
đảo. Sau một thời gian, Ông Trần xin chính quyền 
địa phương cho phép quy dân lập ấp. Những người 
theo Ông Trần đã khai hoang khu vực đồng bà Cúc, 
cải tạo kênh dẫn nước mặn, mở mang diện tích đất 
làm muối. Ngoài ra, họ còn làm đùng, đánh bắt cá 
và buôn bán muối. Cư dân trên đảo theo đạo Ông 
trần rất đông, khoảng 80% dân số. Những nét độc 
đáo của đạo Ông Trần được phần lớn nhân dân trên 
đảo giữ gìn tới ngày nay như cưới hỏi tổ chức vào 
ngày mùng 1 và 16 hàng tháng; tổ chức chôn cất 
người quá cố không quá 12 giờ... 
Phía đảo Gò Găng, chúng tôi chưa tiếp cận được 
nguồn tài liệu nào nói về thời gian cư dân sinh sống 
ở đây. Chỉ biết rằng khi Nguyễn Ánh cùng những 
người thân tín ẩn trú trên đảo để tránh sự truy kích 
của quân Tây Sơn thì đảo còn hoang vu, không 
người ở7. 
Thời Pháp thuộc thuế muối, thuế rượu là hai loại 
thuế quan trọng nên Pháp rất quan tâm phát triển 
diện tích đồng muối. Năm 1902, diện tích đồng 
5 Trương Thị Thu Hằng (2012), “Làm vì Ông: Tôn giáo và du 
lịch tại đảo Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng 
Tàu”, Tạp chí Khoa học Xã hội (Viện Khoa học Xã hội), 6 (166), 
tr. 58 - 69. 
6 Ông thường đi chân đất, cởi trần làm việc nên mọi người gọi là 
Ông Trần (Nguồn: Ông Ba Gò Xu, tư liệu điền dã ngày 
27/04/2014 ) 
7 Những người dân sống lâu năm trên đảo Gò Găng cho biết khi 
Nguyễn Ánh trốn chạy sự truy kích của quân Tây Sơn thì ông có 
sống trên đảo này một thời gian. Theo truyền thuyết, đảo khi đó 
còn hoang vắng và rất hiếm nước ngọt.Một người thân cận của 
Nguyễn Ánh đã tìm thấy vũng nước nhỏ, còn dấu chân rái cá nên 
đã cho người đào và phát hiện ra mạch nước ngầm bên dưới. 
Nước có vị ngọt, màu hơi vàng, có thể dùng ăn uống, nấu nướng 
được. Sau đó Nguyễn Ánh đã cho đào thêm 2 cái giếng nữa để 
dùng. Ba cái giếng lần lượt có tên là giếng Ăn Thịt, giếng Học và 
giếng Giồng Bà Tượng. Cả 3 cái giếng đều được xây bằng đá 
ong, dấu tích giếng ngày nay vẫn còn. Nguồn: Chú Tư Gò Găng, 
tư liệu điền dã ngày 04/05/2014 
muối ở Long Sơn có 27ha8 . Trong kháng chiến 
chống Pháp, đồng ruộng ở Long Sơn bị phá hủy, đê 
ngăn nước mặn bị vỡ khiến cho ruộng đất bị ngập 
mặn không thể tiếp tục trồng lúa. Sau chiến tranh, 
người dân đã chuyển một phần đất trồng lúa sang 
đất làm ruộng muối. Diện tích đất làm muối đã tăng 
từ 90ha vào năm 1975 lên 141,97ha vào năm 1979, 
sản lượng đạt 2.913 tấn. Đặc biệt, năm 1980 xã có 
chính sách mở rộng diện tích đất canh tác, vỡ thêm 
150 ha đất làm muối khu vực Trảng Cây Đu (phía 
Tây đảo núi Nứa) và hình thành lên tập đoàn muối 
nơi đây9. 
Phía đảo Gò Găng vào giữa thế kỷ XX vẫn còn 
rất ít người sinh sống, chủ yếu là người dân ở đảo 
núi Nứa sang làm tá điền cho ruộng muối của người 
Pháp và sang vỡ hoang làm rẫy. Buổi sáng họ đi 
ghe sang Gò Găng làm, chiều về lại núi Nứa. Trong 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, binh lính Mỹ và 
quân đội miền Nam Việt Nam cho rải chất độc hóa 
học xuống đây, cây cối chết nhiều nên không thể 
tiếp tục canh tác. Như vậy trong kháng chiến chống 
Mỹ cứu nước, đồng muối ở Gò Găng bị gián đoạn 
sản xuất. Sau giải phóng năm 1975, địa phương đã 
có những chính sách nhằm khôi phục nghề muối. 
Những bãi đất ven sông Chà Và (còn gọi là sông Ăn 
Thịt), sông Dinh được khai hoang và tiếp tục làm 
muối tới ngày nay. 
Hiện nay, Long Sơn đang có 2 dự án quy hoạch 
đất đai lớn là dự án xây dựng sân bay bên đảo Gò 
Găng và dự án quy hoạch 2.000ha đất xây dựng khu 
lọc hóa dầu bên đảo núi Nứa. Phần lớn đất làm 
muối của diêm dân nằm trong đất quy hoạch nên có 
lẽ trong tương lai diện tích đất làm muối nơi đây sẽ 
bị giảm đi đáng kể. 
3. Nghề muối ở Long Sơn 
Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn diễn 
ra trong mùa khô, bắt đầu từ khoảng tháng 9, tháng 
10 âm lịch của năm trước cho tới cuối tháng 3 âm 
8 Nguyễn Đình Thống (Chủ biên), 2009, Lịch sử Đảng bộ xã 
Long Sơn 1930 - 2005, Vũng Tàu, tr. 18. 
9 Nguyễn Đình Thống (Chủ biên), 2009, Lịch sử Đảng bộ xã 
Long Sơn 1930 - 2005, Vũng Tàu,tr. 185. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X3-2015 
 Trang 75 
lịch của năm sau. Những tháng này nắng gió nhiều, 
không có mưa, nước sông chảy ra biển chậm, lưu 
lượng nhỏ nên độ mặn nước biển tương đôi cao. Độ 
mặn nước tầng mặt đạt từ 32 ‰ đến 34 ‰, tầng đáy 
từ 32 ‰ đến 35 ‰10. 
Diêm dân Long Sơn trước kia làm muối trên nền 
da rong theo kỹ thuật của diêm dân Long Điền. 
Khoảng 10 năm trở lại đây, để tận dụng sức lao 
động trong gia đình cũng như để sản lượng muối 
đạt hiệu quả hơn, đa số diêm dân chuyển sang làm 
ruộng Ba Tri lai11. Mỗi hộ gia đình làm muối ở 
Long Sơn đều có những kỹ thuật đi nước khác nhau 
nhưng chung quy lại đều phải tuân thủ theo những 
nguyên tắc đi nước cơ bản của phương pháp phơi 
nước phân tán như sau: 
Đầu vụ, diêm dân lo ra sở ruộng12 của gia 
đình mình, dùng tay hoặc giá13 để sửa, đắp lại bờ 
đùng, bờ ruộng muối cho chắc chắn14. Tiếp theo, 
dùng trang tước15 kéo sình trong ô kết tinh ra rồi 
phơi ô kết tinh cho khô. Sau khi phơi khoảng 2 
ngày thì dùng ống lăn16 lăn nền ô kết tinh cho 
10 Thạch Phương - Nguyễn Trọng Minh (Chủ biên), 2005, Địa 
chí Bà Rịa - Vũng Tàu, Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 46. 
11 Làm ruộng Ba Tri lai là kết hợp giữa ruộng dây truyền thống 
với cách đi nước của diêm dân Bà Tri.Ô kết tinh có độ rộng 12m, 
chiều dài 20-25m. Bờ ngăn cách giữa 2 ô kết tinh có độ rộng 0,8-
1,0 m, dùng để cào muối lên và làm đường cho xe rùa đẩy muối 
vào chòi. Mỗi ha đất làm muối có khoảng 0,2 ha dùng làm ô kết 
tinh còn lại là sân phơi. Nếu ô kết tinh nhiều thì không đủ nước 
có độ mặn cao để kịp sản xuất muối; ô kết tinh ít thì giai đoạn 
nắng tháng 2, tháng 3 âm lịch muối sẽ rải ngoài sân phơi. 
12 Sở ruộng là toàn bộ diện tích đất làm muối của mỗi hộ gia 
đình, gồm đường đi, bờ bao, đùng chứa nước, hệ thống kênh 
mương, sân phơi, chòi muối và ô kết tinh. 
13 Giá có nơi còn gọi là cái xẻng hoặc mai dùng để xẻ đất 
14 Những ô muối mới vỡ hoặc chưa thuần thì Cua, Còng thường 
đào hang hoặc còn rễ cây sót lại dễ bị đi nước. Để khắc phục, 
diêm dân đào sâu 60-80cm xung quanh ô kết tinh rồi dùng ni 
lông lót theo chiều sâu trước khi lấp đất lại. Ô kết tinh chứa 
nhiều cành cây mục sẽ được cuốc lên, nhặt bỏ rẽ cây và băm 
nhỏ đất. Sau đó nước được bơm vào ruộng để ngâm. Vài ngày 
sau xả nước, phơi khô, lăn nền ruộng và lăn bờ cho thật kỹ, thật 
cứng sẽ không bị đi nước nữa. Riêng Cua, Còng thì dùng thuốc 
xử lý rồi xả bỏ nước đó đi trước khi bước vào vụ làm muối chính 
thức. 
15 Chang gồm 3 loại: chang cào, chang chà và chang tước. Chang 
có 2 bộ phận: miếng gỗ để tra vào cán làm bằng gỗ mít và cán 
làm bằng thân cây tầm vông. Chang chà được gắn 1 hàng đinh 
phía dưới để rẫy muối. 
16 Ống lăn (ống hủ lô, ống cán), được làm bằng bê tông, có hình 
trụ tròn, đường kính 50 cm, dài 80-100 cm. Hai đầu ống có gắn 
thật cứng, phẳng rồi dùng sa quạt 17 hoặc máy 
bơm18 để bơm nước mặn dưới đùng lên mương19 
rồi cho chảy vào các ô kết tinh20 phơi khoảng 30 
ngày để tạo lớp da rong21. 
Trong thời gian chờ đóng da rong, diêm dân lo 
vệ sinh sân phơi. Sau đó dùng ống lăn lăn cho cứng, 
phẳng nền sân phơi và bờ ruộng trước khi dẫn nước 
dưới đùng lên phơi để lấy độ mặn. Thông thường 
mỗi sở ruộng có từ 3 đến 4 sân phơi liền nhau. 
Nước từ sân phơi dưới được đẩy lên sân phơi trên 
một cách từ từ để làm lắng các tạp chất và bay hơi 
làm tăng độ mặn. Ở sân phơi cuối cùng, độ mặn 
thường lớn hơn 15 độ Be. Nước sau đó được dẫn 
qua hệ thống mương đưa vào các ô kết tinhđể phơi 
lần cuối trước khi lấy muối. 
Sau khi có lớp da rong, diêm dân đưa hết nước 
mặn từ ô kết tinh này đưa sang ô kết tinh khác rồi 
phơi khô nền ô kết tinh. Tiếp theo, dùng ống lăn để 
lăn nền ô kết tinh cho thật cứng, thật phẳng. Đây là 
công đoạn khó khăn nhất, vất vả nhấ ... g khoảng thời gian nhiều ngày và để nước bốc 
hơn còn lại muối kết tinh. Diêm dân chỉ thu hoạch 3 lần trong 
mùa khô. Để thu hoạch, người ta dùng cào bằng gỗ nhưng 
răng là một thanh gỗ dài 40cm và rộng 30cm. Mỗi ha đồng 
muối có thể cho thu 6 tấn muối mỗi năm. (Nguồn: Nguyễn 
Đình Thống (Chủ biên), 2009, Lịch sử Đảng bộ xã Long Sơn 
1930 - 2005, Vũng Tàu, tr. 18) 
Cống (bơm) 
Cấp nước 
biển 
Sân phơi 
nước trung 
cấp 
Hồ (đùng) 
chứa nước 
biển 
Hệ thống 
kênh mương 
Sân phơi 
nước thứ cấp 
Ô kết tinh 
muối thô 
Muối thô 
Công đoạn 
cung cấp nước 
Nước ót 
Công đoạn 
kết tinh, thu 
muối 
Nước biển 
bên trong 
sông 
Công đoạn 
phơi nước 
(nước chạt) 
Sân phơi 
nước cao cấp 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X3-2015 
 Trang 77 
Để khắc phục, diêm dân đem hết nước ót28 sang ô 
kết tinh khác rồi cho nước chạt29 ở sân phơi cuối 
cùng vào để lấy độ mặn. Sau khi ngâm lấy độ mặn 
khoảng 3 đến 4 lần30, da ruộng đã nhạt thì diêm dân 
dùng chang tước để kéo sình ra ngoài, phơi khô và 
lăn lại nền cho cứng rồi tiếp tục đưa nước vào để 
sản xuất muối. 
Lịch sản xuất muối của diêm dân Long Sơn 
được mô tả như sau: 
Thời 
gian 
Công việc cần làm 
Tháng 
9, tháng 
10 AL 
Đắp bờ đùng, bờ ô kết tinh, bờ sân phơi 
Kéo sình trong ô kết tinh cho ra ngoài 
Phơi khô nền rồi lăn nền ô kết tinh 
Bơm nước dưới đùng vào ô kết tinh để 
ngâm da rong 
Vệ sinh trước khi lăn nền sân phơi 
Bơm nước từ dưới đùng lên sân phơi thứ 
cấp rồi từ từ đưa nước ở sân phơi thứ cấp 
lên sân phơi trung cấp, cao cấp 
Tháng 
11, 
tháng 12 
AL 
Đưa nước trong ô kết tinh ra ngoài 
Phơi khô rồi lăn thật kỹ nền ô kết tinh 
Tiếp tục đưa nước dưới đùng lên sân phơi 
thứ cấp; từ sân phơi thứ cấp lên sân phơi 
trung cấp và từ sân phơi trung cấp lên sân 
phơi cao cấp 
Đưa nước từ sân phơi cao cấp vào ô kết 
tinh để tiếp tục phơi 
Đi nước qua lại giữa các ô kết tinh để 
nhanh tăng độ mặn 
Cào muối lên bờ ở một vài ô kết tinh đầu 
tiên 
Sửa lại chòi (kho) chứa muối 
Tháng 1 
đến giữa 
Tiếp tục đưa nước từ sân phơi cao cấp 
vào các ô kết tinh 
28 Nước mặn bão hòa và kết tinh ở 25 độ Be. Diêm dân gọi nước 
trong ô kết tinh sau khi thu hoạch muối là nước ót. Nước ót có độ 
mặn trên 25 độ Be. 
29 Nước ở sân phơi diêm dân gọi là nước chạt. 
30 Các lần đưa nước vào lấy độ mặn của da rong thì lần đưa nước 
sau phải đưa nước nhạt hơn nước trước mới lấy được độ mặn của 
da rong. 
tháng 
3AL 
Cào muối lên bờ ở các ô kết tinh 
Đẩy muối vào chòi 
Tiếp tục đưa nước dưới đùng lên sân phơi 
thứ cấp; từ sân phơi thứ cấp lên sân phơi 
trung cấp và từ sân phơi trung cấp lên sân 
phơi cao cấp 
Kéo sình ra khỏi ô kết tinh, phơi khô, lăn 
nền rồi mới tiếp tục đưa nước vào để ăn 
muối ở những ô kết tinh có muối bị đen 
Cuối 
tháng 3 
AL 
Tiếp tục các công đoạn giống tháng 1 đến 
đầu tháng 3 âm lịch 
Gấp rút đẩy muối vào chòi khi thấy trời 
chuyển mưa 
Tháng 4 
đến đầu 
tháng 9 
AL 
Mưa lớn, xả đùng, mãn mùa muối 
Diêm dân chuyển sang công việc khác: 
Nuôi trồng thủy sản hoặc làm bè hào, làm 
công nhân... 
Dụng cụ sản xuất muối mang tính đặc trưng. 
Một số dụng cụ trong nghề là chang, ống đo độ, ống 
lăn, xe đẩy... Ngoài hệ thống cơ sở hạ tầng gồm 
kênh mương dẫn, chứa nước và sân chứa, sân phơi 
là những thứ cần thiết để có muối thì công dụng của 
một số dụng cụ trong nghề muối được miêu tả như 
bảng dưới đây: 
Vật dụng Công dụng 
Chà vô Làm cứng mương dẫn 
nước 
Chang cào Cào muối 
Chang rẫy Rẫy muối 
Chang tước Kéo sình 
Kê Ngăn cách nước ở sông 
và đùng 
Kho/chòi Chứa muối 
Máy bơm/sa 
quạt 
Dẫn nước dưới đùng lên 
sân, vào ô kết tinh 
Ống đo độ Đo độ mặn của nước 
Ống lăn Lăn nền 
Quang gánh Gánh muối vào chòi 
Xe rùa Đẩy muối vào chòi 
Thuyền/ô tô Chuyên chở muối 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X3-2015 
Trang 78 
Về đất làm muối: đất làm muối ở Long Sơn là 
đất nhiễm mặn, chủ yếu là đấtđen pha cát. Bề mặt 
bờ ruộng thời điểm sáng sớm rất trơn dính vì hấp 
thu độ ẩm khi đêm xuống. Do vậy, sáng sớm diêm 
rất dân ngại ra đồng làm vì đất dính chân và dễ làm 
bờ ruộng bị hỏng do di chuyển. Khoảng 7 giờ sáng, 
khi gió và nắng sớm đã làm cho mặt đất khô ráo, dễ 
dàng di chuyển thì diêm dân bắt đầu công việc 
ngoài đồng. Diêm dân ở Long Sơn thường ra đồng 
vào khoảng 7 giờ sáng và kết thúc vào khoảng 5 giờ 
chiều. Công việc làm muối trong mùa vụ thường 
tiến hành như sau: 
Thời gian 
trong ngày 
Công việc Đối tượng 
lao động 
7 giờ đến 
 11 giờ 30 
Cào muối, 
kéo sình, lăn 
nền 
Chủ yếu là 
nam làm 
11 giờ 30 đến 
13 giờ 
Nghỉ ngơi, ăn 
uống 
13 giờ đến 
17 giờ 
Đi nước, rẫy 
muối, cào 
muối, đẩy 
muối, bán 
muối 
Chủ yếu là 
nam làm. 
Nghề làm muối rất nặng nhọc, đòi hỏi người 
làm phải có sức khỏe tốt nên chủ yếu do nam giới 
trong gia đình đảm nhiệm. Nữ giới trong gia đình 
chủ yếu làm nội trợ, chăm sóc con cái. Trong nghề 
muối, nữ giới chỉ làm những công việc vừa sức như 
rẫy muối, bán muối. Những gia đình không có nam 
giới là lao động chính trong nghề thì phụ nữ phải 
làm tất cả những công việc của đàn ông. 
4. Đời sống diêm dân ở Long Sơn 
Nghề làm muối phụ thuộc chủ yếu vào thiên 
nhiên.Nghiên cứu gần đây cho thấy nghề muối ở Bà 
Rịa-Vũng Tàu có ít nhất từ thế kỷ XIII31 nhưng hiện 
nay làm muối vẫn phụ thuộc phần lớn vào thiên 
nhiên, khiến cho sản lượng không ổn định.Năm 
31 Phan Huy Lê (Chủ biên), 2011, Quá trình hình thành và phát 
triển vùng đất Nam Bộ, Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 
tr. 342. 
2010, mùa mưa đến sớm khiến cho sản lượng muối 
ở Bà Rịa - Vũng Tàu bị suy giảm đáng kể. Thống 
kê sản lượng muối những năm gần đây (bảng 1)32 
cho thấy bức tranh khái quát về muối Bà Rịa-Vũng 
Tàuvà tình hình sản xuất ở Long Sơn cũng không 
khác biệt. 
Hình 2. Biểu đồ sản lượng muối 
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu qua các năm 
Về thu nhập: Thu nhập của diêm dân phụ thuộc 
vào sản lượng, giá muối và khả năng tiêu thụ muối 
ngoài thị trường. Mùa khô diêm dân làm muối, mùa 
mưa đa số diêm dân chuyển sang nghề khác như 
nuôi hào, làm đùng hoặc làm rẫy Những hộ 
không có vốn thì chuyển sang làm công cho các 
công ty, xí nghiệp. Những ngày mưa diêm dân nghỉ 
ngơi còn khi trời nắng to, diêm dân lại tất bật ngoài 
đồng để tranh thủ đi nước, tranh thủ lăn khuôn giúp 
nhanh có muối. 
Nghề muối luôn có sự biến động về giá cả, sản 
lượng, diện tích và nguồn lao động. Những năm 
muối trong nước được mùa thì giá muối lại bị hạ 
nên năm sau diện tích và số hộ làm muối giảm 
xuống. Những năm muối trong nước mất mùa hoặc 
ngoài khơi trúng mùa cá cơm để làm nước mắm thì 
giá muối lại tăng cao. Do vậy, diện tích và số hộ 
diêm dân năm sau đó lại tăng lên33. Theo báo cáo 
của ủy ban nhân dân xã Long Sơn, niên vụ 2010-
32 Cục chế biến, thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối 
(2013), Dự thảo báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển ngành 
muối đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội, tr. 26. 
33 Ông Ba Gò Xu, tư liệu điền dã ngày 27/04/2014 ). 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X3-2015 
 Trang 79 
2011 xã có 264,7ha đất làm muối với 188 hộ gia 
đình tham gia sản xuất, sản lượng đạt 22,7 ngàn 
tấn34. Tới niên vụ 2013-2014 diện tích, sản lượng 
muối đã giảm đi đáng kể. Diện tích đất làm muối 
niên vụ 2013-2014 ở Long Sơn chỉ còn 184,2ha với 
153 hộ35. Nguyên nhân là do làm muối phụ thuộc 
vào tự nhiên, giá bán thất thường nên một bộ phận 
diêm dân chuyển làm muối sang làm đùng. Trung 
bình mỗi hộ diêm dân có 2 người làm trong nghề. 
Những gia đình có nhiều đàn ônglàm muối hoặc có 
diện tích đất làm muối từ 1 ha đất trở lên thì sống 
được với nghề. Những hộ gia đình làm muối kết 
hợp với nuôi hào, nuôi trồng thủy sản thì kinh tế 
khá. Những hộ gia đình không có hoặc nam giới 
không phải là lao động chính trong nghề muối hoặc 
diện tích làm muối ít hơn 1 ha thì thu nhập từ nghề 
muối chỉ tạm đủ sống. Một số hộ phải bán muối sa 
mãi (bán muối non, mượn tiền của chủ ghe đầu tư 
sản xuất muối, đến vụ trả nợ bằng muối), nên lâm 
vào cảnh thiếu trước hụt sau. Cũng chính vì làm 
muối mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào thiên 
nhiên cho nên diêm dân phải làm thêm nhiều công 
việc khác mới đủ trang trải cuộc sống. 
Những hộ gia đình chuyên làm muối thường 
mắc các bệnh liên quan đến nghề nghiệp như đau 
nhức chân tay do làm nặng, cảm nắng do thường 
xuyên làm việc ngoài đồng vào buổi trưa, đau bao 
tử do ăn uống thất thường, làm theo thời vụ... Khi bị 
bệnh, diêm dân rất ngại tới bệnh viên hay trạm y tế 
là do những nơi này bệnh nhân đông, khi tới phải 
chờ đợi lâu trong khi nghề muối cần phải làm tranh 
thủ khi có nắng, có gió và vội vàng thu gom khi trời 
chuyển mưa36. Đặc biệt, thế hệ trẻ trong gia đình có 
làm muối hiện nay ít người tiếp tục theo nghề của 
cha mẹ mà chủ yếu họ theo học ở các cấp học cao 
hơn hoặc đi làm công nhân vì họ cho rằng làm muối 
34 UBND xã Long Sơn, Báo cáo tình hình sản xuất muối niên vụ 
2010-2011. 
35 UBND xã Long Sơn, Báo cáo tình hình sản xuất muối niên vụ 
2013-2014. 
36Ở Long Sơn, gia đình tự canh tác trong nghề muối, chỉ thuê 
nhân công đẩy muối nên vào cuối mùa khô, khi mưa xuống dễ 
mất muối vì đẩy muối vào chòi không kịp. 
vất vả, thu nhập bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào yếu 
tố thiên nhiên. 
Ngoài thờ cúng ông bà, tổ tiên theo tín ngưỡng 
truyền thống của người Việt, diêm dân Long Sơn 
còn thờ Ông Trần, thờ các vị nữ thần: bà Cửu Thiên 
Huyền Nữ, bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, bà Ngũ hành 
Nương Nương, thờ bà mẹ tiếp sanh; thờ các vị thần 
khác: Tam Thánh, Táo Quân; thờ ngoài bàn thiên và 
cúng ở bàn cô bác... Những gia đình diêm dân có 
người làm về đánh cá thì thờ một số vị thần khác 
như Tứ vị Thánh Nương, Thiên Ya Na, Bà Thiên 
Hậu... với mong muốn gia đình được bảo vệ, chở 
che, quanh năm yên bình. 
Tại các sở ruộng làm muối, trước khi vào vụ 
chính thức hoặc khi mãn mùa, diêm dân tiến hành 
cúng ngoài ruộng. Đối tượng cúng là ông Tiêu, cô 
bác khuất mặt khuất mày, những người chết vào giờ 
linh, những người chết ở sông, suối... với mong 
muốn sản xuất gặp nhiều thuận lợi, bán muối giá 
cao... Lễ vật cúng ngoài ruộng muối gồm: 1 bộ quần 
áo nam, 1 bộ quần áo nữ, 5 chén cháo, 5 chén nước, 
muối, trái cây, nhang, đèn, dẻo (xôi), ngọt (chè), thịt 
heo hoặc thịt vịt quay và tiền vàng. Sau khi cúng 
xong họ xá bốn phương, tám hướng rồi hóa vàng, 
rải muối xung quanh và cùng tham gia ăn uống 
ngay tại ruộng. 
Hiện nay, phần lớn đồng muối ở Long Sơn đang 
đền bù để mở rộng dự án lọc hóa dầu ở Trảng Cây 
Đu, xây dựng sân bay Vũng Tàu bên đảo Gò Găng 
và xây dựng khu tái định cư mớikhu vực đồng bà 
Cúc37. Trong nhưng năm tới, diện tích đất làm muối 
ở Long Sơn chỉ còn lại vài chục ha. Đây sẽ là thách 
thức lớn đối với nghề muối và đời sống diêm dân ở 
Long Sơn. 
5. Một số vấn đề đặt ra đối với nghề muối của 
người Việt ở Long Sơn 
Nghề làm muối của người Việt ở Long Sơn là 
một phương tiện sinh kế của người dân. Muối được 
làm theo phương pháp thủ công truyền thống. Khi 
giá muối xuống thấp thì diêm dân chuyển từ làm 
37Cô Tư Gò Xu, Tư liệu điền dã ngày 17/03/2014. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X3-2015 
Trang 80 
muối sang làm đùng, nuôi hào hoặc làm công việc 
khác có nguồn thu nhập cao hơn hoặc ngượi lại. 
Làm muối phụ thuộc nhiều rất nhiều vào thiên 
nhiên và giá cả đầu ra của sản phẩm. Trong tương 
lai đất làm muối ở Long Sơn sẽ còn rất ít do dự án 
quy hoạch đất đai làm khu lọc hóa dầu, khu tái định 
cư và xây dựng sân bay Vũng Tàu. Vì vậy, phần 
ruộng muối còn lại, diêm dân cần đầu tư máy móc, 
kỹ thuật hiện đại vào để sản xuất muối đạt hiệu quả 
cao hơn. Mặt khác, chính quyền địa phương cần có 
những chính sách ưu tiên đối với các hộ diêm dân bị 
quy hoạch ruộng muối như: hỗ trợ việc làm, hướng 
dẫn, định hướng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệpvà 
cần có chính sách đền bù xứng đáng cho công sức 
diêm dân đã khai phá ruộng muối nhằm giúp diêm 
dân an cư lạc nghiệp, ổn định kinh tế. 
Salt trade of Vietnamese people in Long Son, 
Vung Tau City, Ba Ria - Vung Tau Province 
 Pham Van Duc 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Salt trade of Vietnamese people in Long 
Son Commune has a long standing history. 
Salt production here takes place in the dry 
season, starting from September to March 
according to Lunar Calendar. This is the period 
of high salinity in sea water with no rain and 
most stable sunshine and wind within a year. 
This paper mainly documents life, experiences 
and methods of salt production of salt makers 
in Long Son. Currently, salt making is mainly 
processed by traditionally manual methods 
which very much depend on the nature, 
quantity and price of the output. The area of 
salt fields being resized to a smaller scale has 
led to less income of salt production and a 
threat of being competed by other sectors with 
more income. Besides, present projects of 
decreasing salt field areas by local government 
seem to be enormous challenges for the salt 
production and salt makers in Long Son. 
Keywords: Salt trade, Salt worker, Long Son Island 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Cục chế biến, thương mại nông lâm thủy sản 
và nghề muối (2013), Dự thảo báo cáo tổng 
hợp quy hoạch phát triển ngành muối đến năm 
2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội. 
[2]. Phạm Diễm (Chủ biên), 2007, Bà Rịa - Vũng 
Tàu con số và sự kiện, Sở Văn hóa Thông tin 
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vũng Tàu 
[3]. Nguyễn Đình Đầu (1994), Địa bạ Triều 
Nguyễn - tỉnh Biên Hòa, Nxb. Thành phố Hồ 
Chí Minh 
[4]. Đinh Văn Hạnh, Phạm Quang Minh, Thái 
Quốc Việt (1994, Nhà Lớn Long Sơn, Sở 
Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Bà 
Rịa - Vũng Tàu. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X3-2015 
 Trang 81 
[5]. Trương Thị Thu Hằng(2012), “Làm vì Ông: 
Tôn giáo và du lịch tại đảo Long Sơn, Thành 
phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”, Tạp 
chí Khoa học Xã hội (Viện khoa học xã hội), 
số 6 (166), tr. 58 - 69. 
[6]. Ngô Thị Phương Lan (2013), “Chương 7: 
Kinh tế”, trong: Nhân học đại cương, Nxb. 
ĐHQG TP.HCM. 
[7]. Phan Huy Lê (Chủ biên), 2011, Quá trình hình 
thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Hội 
khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội. 
[8]. Phan Hoa Lý (2005), Nghề muối ở Thụy Hải, 
Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2(98), 2005, 
trang 46-51. 
[9]. Thạch Phương - Nguyễn Trọng Minh (Chủ 
biên),2005, Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[10]. Trần Đức Sang (2008), Nghề làm muối ở Hải 
Bình,Thông tin khoa học, Phân viện Văn hóa 
nghệ thuật Việt Nam tại Huế, số 3/2008, tr. 
128-140. 
[11]. Nguyễn Đình Thống (Chủ biên), Nguyễn Thị 
Vân Anh, Cao Thái Bình, Đinh Văn Hạnh, 
2009, Lịch sử Đảng bộ xã Long Sơn 1930 - 
2005, Vũng Tàu. 
[12]. UBND xã Long Sơn, Báo cáo tình hình sản 
xuất muối niên vụ 2010 - 2011 
[13]. UBND xã Long Sơn, Báo cáo tình hình sản 
xuất muối niên vụ 2013 - 2014 
[14]. Cô Tư Gò Xu, Tư liệu điền dã ngày 
17/03/2014 
[15]. Chú Tư Gò Găng, Tư liệu điền dã ngày 
04/05/2014 
[16]. Ông Ba Gò Xu, Tư liệu điền dã ngày 
27/04/2014 
[17]. 
x?Id=767&CatId=9 (truy cập ngày 15 thang 7 
năm 2014),Kỹ thuật sản xuất muối phơi cát 
truyền thống. 
[18]. 
2386/ (Truy cập ngày 07 tháng 05 năm 2014), 
Muối Việt xưa và nay. 

File đính kèm:

  • pdfnghe_lam_muoi_cua_nguoi_viet_o_long_son_thanh_pho_vung_tau_t.pdf