Một số vấn đề van hóa - Xã hội nổi bật của Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ XXI

Dân số Nhật Bản và số hộ gia đình

hiện nay đang tăng lên, so với tỉ lệ tăng

dân số 1,2 lần kể từ những năm 1970

đến nay, thì tỉ lệ tăng tổng số hộ gia

đình đã lên tới 1,8 lần trong cùng thời

gian. Giai đoạn bùng nổ dân số ở Nhật

Bản là vào những năm 1970, sau đó tỉ lệ

tăng dân số dần dần giảm xuống. Số

ng−ời trung bình trong một hộ gia đình

Nhật Bản cũng giảm liên tục; nếu nh−

vào những năm 1960 quy mô hộ gia đình

trung bình là 4,14 ng−ời, năm 1970 giảm

xuống còn 3,41 ng−ời, năm 1980 là 3,22

ng−ời, năm 1990 là 2,99 ng−ời, thì đến

năm 2005, chỉ còn 2,5 ng−ời/hộ gia đình.

Các hộ độc thân (hộ 1 ng−ời) đã chiếm

đến hơn 1/4 tổng số hộ gia đình ở Nhật

Bản, lên tới 27,9% (xem: 1, tr.29).

 

pdf 9 trang kimcuc 9940
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề van hóa - Xã hội nổi bật của Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ XXI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề van hóa - Xã hội nổi bật của Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ XXI

Một số vấn đề van hóa - Xã hội nổi bật của Nhật Bản thập niên đầu thế kỷ XXI
 MộT Số VấN Đề VĂN HóA – Xã HộI NổI BậT 
CủA NHậT BảN THậP NIÊN ĐầU THế Kỷ XXI 
Ngô H−ơng Lan (*) 
hập niên đầu thế kỷ XXI đã chứng 
kiến một giai đoạn đầy biến động 
trên chính tr−ờng Nhật Bản và những 
thăng trầm của nền kinh tế n−ớc này. 
Cùng với sự thay đổi trong đời sống 
chính trị - kinh tế, đời sống văn hóa - xã 
hội Nhật Bản cũng có những chuyển 
biến nhất định. Trong những thay đổi 
này, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Các 
yếu tố văn hóa xã hội chịu tác động của 
nền kinh tế, nh−ng đến l−ợt nó, lại tác 
động ng−ợc trở lại tới nền kinh tế và 
t−ơng lai của đất n−ớc Nhật Bản. ý thức 
sâu sắc về sức mạnh và ảnh h−ởng của 
văn hóa Nhật Bản đối với thế giới, các 
nhà lãnh đạo n−ớc này đã có những điều 
chỉnh trong chính sách văn hóa - xã hội 
theo h−ớng tận dụng những ảnh h−ởng 
văn hóa tích cực của Nhật Bản ở n−ớc 
ngoài để “làm mới” hình ảnh, tiếp thêm 
sinh lực cho sự phát triển của Nhật 
Bản. 
Bài viết sẽ xem xét những vấn đề 
văn hóa - xã hội nổi bật của Nhật Bản 
trong thập niên đầu thế kỷ XXI trong 
mối t−ơng quan với sự thay đổi ý thức, 
giá trị quan của ng−ời Nhật Bản về lối 
sống, gia đình, công việc và các mối 
quan hệ xã hội. 
1. Quy mô gia đình giảm, tỷ lệ sinh thấp và xã hội 
già hóa 
Dân số Nhật Bản và số hộ gia đình 
hiện nay đang tăng lên, so với tỉ lệ tăng 
dân số 1,2 lần kể từ những năm 1970 
đến nay, thì tỉ lệ tăng tổng số hộ gia 
đình đã lên tới 1,8 lần trong cùng thời 
gian. Giai đoạn bùng nổ dân số ở Nhật 
Bản là vào những năm 1970, sau đó tỉ lệ 
tăng dân số dần dần giảm xuống. Số 
ng−ời trung bình trong một hộ gia đình 
Nhật Bản cũng giảm liên tục; nếu nh− 
vào những năm 1960 quy mô hộ gia đình 
trung bình là 4,14 ng−ời, năm 1970 giảm 
xuống còn 3,41 ng−ời, năm 1980 là 3,22 
ng−ời, năm 1990 là 2,99 ng−ời, thì đến 
năm 2005, chỉ còn 2,5 ng−ời/hộ gia đình. 
Các hộ độc thân (hộ 1 ng−ời) đã chiếm 
đến hơn 1/4 tổng số hộ gia đình ở Nhật 
Bản, lên tới 27,9% (xem: 1, tr.29).∗ 
Xem xét sự thay đổi cơ cấu dân số 
theo độ tuổi, có thể thấy tỉ lệ trẻ em (14 
tuổi trở xuống) đã giảm sút nghiêm 
trọng, từ chỗ chiếm 24% dân số vào 
những năm 1970 xuống chỉ còn 13,5% 
vào năm 2008. Ng−ợc lại, số ng−ời già 
trên 65 tuổi đã tăng lên nhanh chóng 
trong giai đoạn này, từ 7,1% lên đến 
(∗) 
 ThS., Viện Nghiên cứu Đông Bắc á. 
T 
22 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2011 
20,1%. Bên cạnh đó, tuổi thọ trung bình 
của nam, nữ Nhật Bản đều tăng thêm 
10 tuổi, từ năm 1977 đến nay, Nhật Bản 
liên tục giữ vị trí là quốc gia có tuổi thọ 
trung bình cao nhất thế giới. 
Về tỉ lệ sinh, vào những năm 1970, 
trung bình một phụ nữ Nhật Bản sinh 
d−ới 2,08 con trong vòng đời. Nhiều ý 
kiến cho rằng, nếu tỉ lệ sinh cứ tiếp tục 
duy trì ở tình trạng thấp nh− vậy sẽ dẫn 
đến giảm dân số, nh−ng trên thực tế, do 
tuổi thọ trung bình của ng−ời Nhật Bản 
tiếp tục tăng lên, nên dân số vẫn tăng. 
Từ cuối những năm 1950 đến nửa đầu 
1970, tỉ lệ sinh trung bình giữ ở mức 
trên d−ới 2,08 con/phụ nữ. Nh−ng từ 
sau năm 1975 đã giảm xuống là 2,0 
con/phụ nữ, và cho đến năm 2005 thì tỉ 
lệ này là 1,26 con/phụ nữ. Cứ nh− vậy, 
tỉ lệ sinh giảm và xã hội Nhật Bản b−ớc 
vào tình trạng già hóa dân số ngày càng 
trầm trọng (theo: 2). 
Vấn đề đáng ngại nhất là ý thức 
“không sinh con” ngày càng trở nên phổ 
biến ở Nhật Bản. Vào những năm đầu 
1990, tỉ lệ cho rằng “có con là cần” đã ở 
mức khá thấp - là 54%, đến năm 1998 
giảm xuống còn 48%, và từ năm 2003 
đến nay, số ng−ời theo khuynh h−ớng 
“không cần có con” đã v−ợt trên số ng−ời 
cho rằng “cần có con” (theo: 2). 
Có thể thấy, căn nguyên của vấn đề 
trên xuất phát từ sự thay đổi cơ cấu xã 
hội, gia đình, lối sống, các giá trị quan 
của ng−ời Nhật Bản sau thời kỳ tăng 
tr−ởng kinh tế cao độ. Và những vấn đề 
này, đến l−ợt nó, lại t−ơng tác với nhau, 
cái này trở thành nguyên nhân của cái 
kia, tiếp tục tồn tại trầm trọng hơn 
trong 10 năm đầu thế kỷ XXI. 
Ngày 11/3/2011 vừa qua, trận động 
đất lớn ch−a từng có (9 độ richter), kèm 
theo sóng thần đã xảy ra tại vùng Đông 
Bắc Nhật Bản. Hai thành phố nhỏ nằm 
gần tâm chấn nhất là Kesenuma và 
Rikuzentadaka hứng chịu sóng thần cao 
tới 10m, hơn 50% dân số ở đây đã thiệt 
mạng hoặc mất tích. Trớ trêu thay, 
phần lớn c− dân của ngôi làng và thị 
trấn nhỏ này là ng−ời già, những ng−ời 
không thể kịp chạy đi lánh nạn. Miền 
Đông Bắc Nhật Bản, nơi ít đô thị hóa 
hơn các vùng khác của đảo chính 
Honshu, nhiều thập kỷ qua đã chứng 
kiến sự ra đi của những ng−ời trẻ tuổi 
đến các thành phố lớn. Cái lạnh khắc 
nghiệt của miền Bắc khiến cho vùng 
này chỉ canh tác đ−ợc 1 vụ lúa, trong 
khi các vùng khác có thể canh tác từ 2-3 
vụ một năm, và đó cũng là lý do khiến 
cho hầu hết thanh niên nơi đây quyết 
định từ giã miền quê nghèo của họ để ra 
thành phố lớn lập nghiệp. Ng−ời trẻ ra 
đi, ng−ời già ở lại, tỉ lệ kết hôn và sinh 
con thấp đã làm cho vấn đề “già hóa dân 
số” càng thêm rõ nét ở khu vực này, và 
phải chăng cũng là một trong những 
nguyên nhân làm trầm trọng hơn thảm 
họa vừa qua. 
2. Xã hội bằng cấp và những vấn đề của nền giáo 
dục 
Xã hội bằng cấp cao đã hình thành ở 
Nhật Bản trong khoảng 30 năm trở lại 
đây. Vào những năm 1970, cứ 4 ng−ời 
Nhật thì có 1 ng−ời thi đỗ vào các 
tr−ờng cao đẳng hoặc đại học. Tuy 
nhiên, do xã hội bằng cấp phát triển, 
theo thống kê năm 2005, cứ 2 ng−ời thì 
có 1 ng−ời học lên đại học hoặc cao đẳng 
và tỉ lệ này vẫn tiếp tục đ−ợc duy trì 
đến nay. Đặc biệt, từ năm 1990 trở đi, 
tỷ lệ học lên trong giới nữ cũng khá cao, 
tới 54% (tỉ lệ này ở nam giới là 56%). 
Xuất phát điểm của xã hội bằng cấp là 
do trong thời kỳ phát triển kinh tế cao 
độ, n−ớc Nhật cần một nguồn lao động 
có chất l−ợng cao để làm việc tại các 
Một số vấn đề 23 
công ty, xí nghiệp đang mở rộng quy mô 
sản xuất với tốc độ chóng mặt. Các công 
ty, đặc biệt là những công ty lớn khao 
khát nhân tài đến mức “dòm ngó” đến 
cả những sinh viên đại học còn đang 
ngồi trên ghế nhà tr−ờng năm thứ 3, 
thứ 4 tại các tr−ờng đại học danh tiếng. 
Mảnh bằng đại học thời kỳ những năm 
1960-1970 đ−ợc ng−ời Nhật ví nh− “tấm 
hộ chiếu để vào đ−ợc các hãng lớn”, nơi 
có thể đảm bảo cho họ mức l−ơng cao, 
cuộc sống sung túc và một việc làm ổn 
định suốt đời ở đó. 
Một nguyên nhân khác của xã hội 
bằng cấp là đời sống kinh tế ng−ời dân 
Nhật Bản phát triển nhanh chóng vào 
những năm 1970, cộng với mô hình gia 
đình hạt nhân với bố, mẹ và từ 1 đến 2 
con rất phát triển, khiến cho các bậc cha 
mẹ có điều kiện hơn trong việc nuôi dạy 
và chăm sóc con cái, đặc biệt là có điều 
kiện kinh tế chu cấp cho con đi học tại 
các lớp học thêm, các “lò luyện thi” để có 
thể “tranh tài” trong các cuộc đua thi cử 
khắc nghiệt từ cấp 2 lên cấp 3, cấp 3 lên 
các tr−ờng đại học danh tiếng. Nguyên 
nhân thứ ba, có thể nói là nguyên nhân 
quan trọng nhất dẫn tới sự hình thành 
và phát triển của xã hội bằng cấp nh− 
hiện nay, đó là sự thay đổi sâu sắc trong 
ý thức của ng−ời Nhật Bản về việc 
muốn cho con học lên cao, về sự bình 
đẳng nam nữ trong cơ hội đ−ợc đi học, 
và trên hết, là việc muốn khẳng định 
năng lực bản thân trong xã hội. 
Tuy nhiên, mới xuất hiện trong một 
thập kỷ trở lại đây, còn có một nguyên 
nhân nữa, đó là học lên cao nh− một sự 
lựa chọn trong điều kiện còn ch−a kiếm 
đ−ợc việc làm thích hợp; việc học lên đại 
học hoặc cao học ở Nhật Bản hiện nay 
cũng không mấy khó khăn, khi mà con 
số các tr−ờng đại học đang thừa, còn 
sinh viên thì ngày càng ít đi trong tình 
trạng dân số già hóa. Và nh− vậy thì 
việc học lên, có bằng cấp cao không hẳn 
t−ơng đ−ơng với trình độ học lực thực 
sự; ngay cả khi đã cầm tấm bằng tốt 
nghiệp, các cử nhân cũng ch−a chắc tìm 
đ−ợc việc làm xứng đáng. Thực tế đáng 
buồn là rất nhiều sinh viên ra tr−ờng 
lựa chọn những công việc tự do nh− bán 
hàng thuê, phục vụ tại các quán ăn 
nhanh McDonald, làm những việc 
chẳng hề liên quan đến chuyên môn mà 
họ đ−ợc đào tạo ở tr−ờng đại học. Điều 
này liên quan đến hiện t−ợng ng−ời làm 
công việc tự do “freeter” và hiện t−ợng 
“nid” mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau. 
Xã hội bằng cấp cao, trong một 
chừng mực nhất định, cũng tạo đ−ợc 
những yếu tố có lợi cho sự phát triển 
của xã hội nh−: nhận thức của ng−ời 
dân đ−ợc nâng cao, cung cấp nguồn lao 
động chất l−ợng cao đáp ứng nhu cầu 
phát triển của các ngành sản xuất trong 
xã hội, nâng cao chất l−ợng xã hội. Tuy 
nhiên, mặt trái của nó là “cơn sốt học 
thêm”, chạy đua thi cử, hình thành một 
nền giáo dục khoa cử, thiên về đánh giá 
năng lực con ng−ời qua các bài thi, sức 
ép trong học tập lớn, trẻ em bị căng 
thẳng, tress kéo dài dẫn đến những 
phản kháng nh− chống đối việc đến 
tr−ờng, nạn bạo lực học đ−ờng, bắt nạt, 
tự tử tăng cao trong giới học sinh. 
Trong khi đó, các vấn đề trầm trọng 
nh− nạn bạo lực học đ−ờng, bắt nạt, tự 
tử vẫn không có dấu hiệu suy giảm, con 
số học sinh “không đến tr−ờng” (nghỉ 
học quá 50 buổi học trong 1 năm mà 
không có lý do đ−ợc gọi là “không đến 
tr−ờng”) tiếp tục tăng cao. Theo thống 
kê của Bộ Giáo dục Nhật Bản, trong 
vòng 20 năm qua, số học sinh tiểu học 
“không đến tr−ờng” tăng 1,9 lần, tỉ lệ 
này ở học sinh THCS tăng 2,3 lần, con 
số các vụ bạo lực học đ−ờng cũng gia 
24 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2011 
tăng: 1,7 lần ở cấp tiểu học, 1,4 lần ở 
cấp THCS (3). Nh− vậy, vấn đề cốt lõi 
không chỉ nằm ở hệ thống giáo dục mà 
còn ở lối sống, văn hóa ứng xử, quan 
niệm sống, các vấn đề xã hội nh−: quan 
hệ giữa ng−ời và ng−ời ngày càng lỏng 
lẻo, sự thiếu giao l−u, thiếu quan tâm 
đến trẻ em của gia đình và xã hội, gia 
đình ít con tạo ra sự cô độc, thiếu cảm 
thông, chia sẻ với ng−ời khác ở trẻ em 
Nhật Bản. Nếu các vấn đề xã hội không 
đ−ợc giải quyết một cách triệt để thì vấn 
đề của nền giáo dục cũng không thể giải 
quyết tận gốc. 
3. Sự thay đổi cơ cấu việc làm, tuyển dụng, hiện 
t−ợng Nit, Freeter 
Sau thời kỳ kinh tế tăng tr−ởng cao, 
cơ cấu lao động ở Nhật Bản thay đổi 
đáng kể. Theo kết quả của một cuộc 
điều tra về ngành nghề trên toàn quốc, 
tỉ lệ lao động (trên 15 tuổi) trong các 
ngành nghề vào những năm 1960 là: lao 
động làm trong ngành nông nghiệp 
(ngành sản xuất thứ nhất) chiếm 33%, 
lao động ở ngành sản xuất thứ ba (dịch 
vụ, giải trí...) chỉ chiếm 12%. Tuy nhiên, 
sau nửa thế kỷ, vào năm 2008, tỉ lệ lao 
động trong ngành sản xuất thứ nhất chỉ 
còn vẻn vẹn 5%, trong khi đó, lao động 
trong ngành sản xuất thứ ba tăng lên 
tới 67%, đặc biệt là ở hệ thống ngành 
nghề dịch vụ, hành chính sự nghiệp, 
những công việc mang tính chuyên môn 
và tính kỹ thuật. Hình thức tuyển dụng 
cũng không chỉ giới hạn ở hợp đồng lao 
động chính quy, mà các loại hợp đồng 
lao động đa dạng nh−: lao động bán thời 
gian, lao động không chính thức, lao 
động theo giờ... cũng tăng lên nhanh 
chóng. 
Song song với sự thay đổi cơ cấu 
ngành nghề trong n−ớc, chế độ tuyển 
dụng lao động truyền thống với “hợp 
đồng lao động suốt đời” cũng dần bị phá 
vỡ. Hình ảnh những ng−ời làm công ăn 
l−ơng tận tụy cống hiến hết mình cho 
một hãng, nơi mà họ cũng đ−ợc đảm bảo 
công việc ổn định suốt đời đã không còn 
nữa. Các công ty Nhật Bản, để có thể 
tồn tại đ−ợc sau thời kỳ kinh tế bong 
bóng đổ vỡ, đều phải giảm bớt nhân 
công, học theo mô hình của châu Âu và 
Mỹ bằng việc đa dạng hóa hình thái 
tuyển dụng. Theo một kết quả điều tra 
về lực l−ợng lao động do Bộ Quản lý 
hành chính, b−u chính và truyền thông 
tiến hành, tỷ lệ lao động làm việc bán 
thời gian, lao động theo hợp đồng ngắn 
hạn, lao động phái cử trên tổng số lao 
động Nhật Bản vào năm 2003 chiếm 
30,3%, năm 2008 đã tăng lên 34%. 
Một vấn đề xã hội mới nảy sinh 
trong vài năm gần đây là sự xuất hiện 
của một bộ phận thanh niên Nhật Bản 
(từ 15-34 tuổi), hầu hết có trình độ đại 
học nh−ng không thích kiếm việc làm cố 
định, họ chọn những công việc đơn giản 
nh− phục vụ trong các nhà hàng, quán 
bar, bán hàng thuê trong các cửa hàng 
McDonald, kiếm tiền chỉ để trang trải 
cho những thú vui của bản thân nh− đi 
du lịch, mua sắm... Bộ phận thanh niên 
này đ−ợc gọi là “Freeter” (Freeter là từ 
ghép của Free - tự do trong tiếng Anh 
và Arbeiter - công nhân trong tiếng 
Đức). Năm 2004, số l−ợng “freeter” ở 
Nhật Bản đã lên tới 2.130.000 ng−ời và 
vẫn tiếp tục tăng (4). Nguyên nhân trở 
thành “freeter” của phần lớn thanh niên 
Nhật Bản là do quan niệm về công việc 
của họ đã thay đổi. Họ không muốn “cật 
lực lao động trong các đoàn thể nghiêm 
khắc truyền thống của các tập đoàn sản 
xuất cho tới khi đ−ợc bù đắp bằng 
những hình thức phúc lợi hậu hĩnh” nh− 
thế hệ cha anh. Ng−ợc lại, họ chỉ muốn 
“làm việc vừa đủ, nh−ng lại vui chơi hết 
mức có thể” (5). 
Một số vấn đề 25 
Bên cạnh đó, hiện nay ở Nhật Bản 
còn xuất hiện một bộ phận thanh niên 
“thất nghiệp tự nguyện”. Con số này vào 
năm 1994 là 400.000 ng−ời, năm 2004 
đã tăng lên 640.000 ng−ời, tuy ch−a 
phải là con số lớn, nh−ng cũng đóng góp 
vào tỉ lệ 10% thất nghiệp trong thanh 
niên Nhật hiện nay. Hiện t−ợng “thất 
nghiệp tự nguyện” này gọi là “Nit” (viết 
tắt của “Not in Education, Employment 
or Traning”) - tức là những ng−ời không 
nghề nghiệp, không đi học và cũng 
không có ý định kiếm việc làm. Nguyên 
nhân của hiện t−ợng trở thành “Nit” 
xuất phát từ những căng thẳng tâm lý 
trong thanh niên nh−: do áp lực tại nhà 
tr−ờng, tại nơi làm việc, hoặc đang học 
dở thì cảm thấy không phù hợp với 
chuyên ngành đã chọn, mất ph−ơng 
h−ớng... nên bỏ học. 
Tất cả những hiện t−ợng trên đều 
cho thấy căn nguyên là sự thay đổi 
trong ý thức về lao động, việc làm ở giới 
trẻ Nhật Bản, ngoài ra nguyên nhân 
sâu xa hơn có thể nằm ở chính xã hội 
Nhật Bản với áp lực lớn và những yêu 
cầu hà khắc trong công việc, học tập, 
trong khi lại thiếu sự đồng cảm giữa các 
thành viên trong gia đình, xã hội. 
4. Hình thành tầng lớp ng−ời nghèo trong xã hội 
Nhật Bản 
Một vấn đề, tuy ch−a trở thành 
trầm trọng nh−ng đã bắt đầu hiện hữu 
và báo hiệu sự gia tăng của nó vài năm 
trở lại đây - sự phân biệt giàu nghèo 
trong xã hội Nhật Bản. 
Có một hiện t−ợng khá thú vị ở 
Nhật Bản, từ cuối những năm 1990, đầu 
những năm 2000, ở Nhật Bản xuất hiện 
ồ ạt loại cửa hàng nhỏ bán hàng đồng 
giá 100 Yên (t−ơng đ−ơng 1 USD thời kỳ 
đó) từ thực phẩm, rau quả, văn phòng 
phẩm đến những vật dụng nhỏ thiết yếu 
trong gia đình. Nghĩa là, trừ đồ điện tử 
và đồ đạc lớn (đồ gỗ, gi−ờng, tủ...), mọi 
thứ cần thiết cho sinh hoạt cuộc sống 
đều có thể mua đ−ợc tại hệ thống cửa 
hàng 100 Yên này. Sự xuất hiện của cửa 
hàng giá rẻ 100 Yên có thể có nhiều lý 
do nh−: sự gia tăng các “hộ gia đình 1 
ng−ời” có nhu cầu mua l−ợng hàng nhỏ, 
tính tiện dụng của loại cửa hàng này 
phù hợp với nhịp sống vội vã ở Nhật 
Bản, tính “kinh tế” của nó trong tình 
trạng nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục trì 
trệ, và một lý do nữa là số ng−ời nghèo 
chỉ có thể mua các vật dụng và thực 
phẩm rẻ tiền ở Nhật Bản đang tăng lên. 
Nếu nh− tr−ớc đây, ng−ời Nhật luôn 
thích mua sắm ở hệ thống siêu thị và 
bách hóa sang trọng thì ngày nay những 
cửa hàng 100 Yên cũng hết sức nhộn 
nhịp bởi đủ loại khách mua hàng: thanh 
thiếu niên, ng−ời trung niên độc thân, 
ng−ời già và thậm chí cả ng−ời vô gia c− 
nữa. Khoảng 5 năm trở lại đây mới xuất 
hiện thêm hệ thống QQ's shop (đọc 
chệch của từ kyuju-kyu), tức là cửa 
hàng 99 Yên, h−ớng đến đối t−ợng mua 
hàng là ng−ời độc thân và tầng lớp 
nghèo trong xã hội. Thực phẩm ở đây 
không t−ơi ngon bằng siêu thị, hàng hóa 
cũng không cao cấp và chất l−ợng bằng, 
song nó vẫn tồn tại và phát triển nhanh 
chóng, có lẽ bởi đối t−ợng mua hàng đặc 
tr−ng của nó đang tăng lên. 
Một hiện t−ợng khác cho thấy sự 
xuất hiện của tầng lớp ng−ời nghèo ở 
Nhật Bản, đó là “dân tị nạn net café”, 
những ng−ời vô gia c− kiểu mới ở Nhật 
Bản mà chủ yếu là thanh niên. Số ng−ời 
này tuy không nhiều, nh−ng nó đã 
chứng tỏ mầm mống manh nha của một 
xã hội mà sự phân hóa giàu nghèo sẽ 
ngày càng sâu sắc. Theo thống kê của 
Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản, 
vào tháng 7/2008, có khoảng 5.400 
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2011 
ng−ời tị nạn net cafe ở Nhật Bản (6, 
tr.33). “C− dân tị nạn net café” đ−ợc 
định nghĩa “là những ng−ời không có 
công ăn việc làm ổn định, làm việc và 
h−ởng l−ơng theo công nhật, thu nhập 
thấp, không có khả năng thanh toán 
tiền nhà hàng tháng, không có bảo hiểm 
xã hội, hầu nh− phải sống qua đêm ở 
những quán café internet”. Một hệ 
thống giá rẻ phục vụ cho đối t−ợng 
ng−ời nghèo này cũng đã hình thành ở 
Nhật Bản: quán ăn giá rẻ, hộp gửi hành 
lý giá rẻ, chỗ tá túc rẻ tiền và tất nhiên 
là cả công việc đơn giản với mức l−ơng 
rẻ mạt. Nếu đám mây u ám của nền 
kinh tế trì trệ vẫn còn bao trùm n−ớc 
Nhật và xã hội già hóa vẫn tiếp tục tiến 
triển cùng với những vấn đề của nó, thì 
sự phân hóa giàu nghèo ở Nhật Bản sẽ 
ngày càng trở nên sâu sắc. 
5. Toàn cầu hóa và vấn đề văn hóa truyền thống 
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, 
khoảng hơn 10 năm trở lại đây, văn hóa 
ngoại lai du nhập vào Nhật Bản một 
cách mạnh mẽ và ảnh h−ởng sâu rộng 
đến văn hóa, lối sống và cả những thói 
quen trong sinh hoạt hàng ngày của 
ng−ời Nhật Bản. 
Nhìn trên bề mặt, sự hào nhoáng và 
sầm uất của các thành phố lớn ở Nhật 
Bản không khác gì so với các thành phố 
ph−ơng Tây. Văn hóa ph−ơng Tây đã 
len lỏi trong mọi ngóc ngách của cuộc 
sống, thói quen sinh hoạt ăn, mặc, ở của 
ng−ời Nhật. Cửa hàng ăn nhanh kiểu 
Mỹ nh− hệ thống McDonald mọc lên 
khắp nơi và đã hấp dẫn hầu hết giới trẻ 
Nhật Bản. Phong cách ăn mặc của 
ng−ời Nhật ngày nay cũng đã Âu hóa 
toàn bộ, trang phục truyền thống 
Kimono rất hiếm khi xuất hiện, ng−ời 
Nhật có chăng cũng chỉ mặc nó vào 
những dịp đặc biệt trong đời ng−ời nh− 
lễ thành nhân (khi b−ớc vào tuổi 20) và 
lễ c−ới. Hình bóng của bộ Kimono 
truyền thống chỉ còn phảng phất ít 
nhiều trong bộ Yukata (Kimono mùa hè, 
đơn giản hơn nhiều và giá thành cũng 
rẻ hơn vài chục lần so với Kimono thực 
sự) đ−ợc mặc vào những dịp lễ hội mùa 
hè nh− lễ Obon, ngày của biển... 
Thói quen sinh hoạt hàng ngày của 
ng−ời Nhật cũng thay đổi nhiều, ví dụ 
nh− việc chuẩn bị bữa ăn sáng theo kiểu 
Nhật, hộp cơm nắm (onigiri) tr−ớc đây 
đ−ợc các bà mẹ dậy rất sớm tự tay 
chuẩn bị cho chồng con, thì nay đã thay 
bằng bữa sáng kiểu Tây với bánh mì và 
cà phê sữa, cơm nắm cũng có thể mua 
sẵn ngay trong siêu thị hoặc cửa hàng 
giá rẻ 100 Yên, chỉ việc cho vào lò vi 
sóng vài phút là ăn đ−ợc ngay. Hệ thống 
cửa hàng ăn nhanh fastfood cũng là một 
lựa chọn −a thích của tầng lớp thanh, 
thiếu niên. 
Trong những dịp đ−ợc nghỉ dài nh− 
tuần lễ vàng (đầu tháng 5 d−ơng lịch), 
lễ Obon, ngày Tết, thói quen trở về quê 
nhà thăm cha mẹ, họ hàng dần phai 
nhạt, thay thế vào đó là các tour du lịch 
đi n−ớc ngoài nghỉ ngơi, giải trí. Thậm 
chí, một thói quen truyền thống trong 
các dịp nghỉ lễ là tới các khu onsen tắm 
suối n−ớc nóng, nghỉ ngơi tại các ryokan 
(lữ quán) kiểu Nhật, th−ởng thức các 
món ăn và ở nhà truyền thống Nhật 
Bản cũng đã mất dần. 
Theo thống kê của báo Asahi, vào 
đầu năm 2010, trên toàn n−ớc Nhật chỉ 
còn lại khoảng 55.000 ryokan (lữ quán), 
giảm hơn 1/3 so với con số 80.000 lữ 
quán cách đây 10 năm. Ryokan là một 
nét văn hóa truyền thống tiêu biểu của 
Nhật Bản còn tồn tại đến ngày nay. 
Nghỉ ngơi ở ryokan, khách sẽ đ−ợc tận 
h−ởng dịch vụ hoàn hảo theo kiểu Nhật, 
th−ởng thức các món ăn truyền thống 
và nghỉ ngơi trong những căn phòng 
Một số vấn đề 27 
trải chiếu tatami với cách bài trí nh− 
cách đây hàng vài thế kỷ. Giá nghỉ trọ ở 
ryokan khá đắt đỏ, mỗi đêm khoảng từ 
3 - 5 vạn Yên (t−ơng đ−ơng 300 đến 500 
USD), một mức giá không kém gì khách 
sạn 5 sao. Tuy nhiên, nếu muốn th−ởng 
thức h−ơng vị cuộc sống mang đậm 
phong cách truyền thống của Nhật Bản, 
thì không thể không tới ryokan. Nh−ng, 
một điều đáng buồn là, gần đây có rất 
nhiều ryokan phá sản vì không có ng−ời 
kế nghiệp. Những cô gái trẻ Nhật Bản 
ngày nay không muốn trở thành Okami 
(bà chủ lữ quán) nh− các bà mẹ của họ - 
những ng−ời chủ nhà có phong thái nhẹ 
nhàng, lịch lãm, lời ăn tiếng nói và thái 
độ phục vụ hết mực cung kính đối với 
khách nghỉ trọ, và cả nét duYên dáng 
ngầm ẩn sau sự hiểu biết sâu sắc về văn 
hóa truyền thống của họ. Ryokan cũng 
mất dần khách trọ, bởi giá của nó quá 
đắt đỏ trong tình hình kinh tế khó khăn 
nh− hiện nay, và cũng bởi vì giới trẻ 
Nhật không còn cảm thấy sức hấp dẫn 
của việc th−ởng thức văn hóa truyền 
thống nữa. Một số ryokan, để có thể 
cạnh tranh và tồn tại, buộc phải giảm 
giá và điều này cũng đồng nghĩa với việc 
cắt bớt các dịch vụ hoàn hảo của nó, và 
nh− vậy, ryokan sẽ không còn là 
“ryokan” nữa. Gần đây, lại rộ lên phong 
trào ng−ời giàu Trung Quốc mua lại 
ryokan của Nhật để kinh doanh, cho ra 
đời hệ thống ryokan giá rẻ. Sự “bình 
dân” của các ryokan do ng−ời Trung 
Quốc điều hành đã phá vỡ nét văn hóa 
truyền thống đẹp tinh tế của ryokan, 
hay phải chăng là thói quen tiêu dùng 
và giải trí mới của ng−ời Nhật hiện nay 
đã phá vỡ nó. 
6. Văn hóa giải trí và chiến l−ợc “xuất khẩu văn 
hóa” của Nhật Bản 
Là một trong những yếu tố thuộc 
lĩnh vực văn hóa giải trí của Nhật Bản, 
Manga (truyện tranh Nhật Bản) và 
Anime (phim hoạt hình Nhật Bản) đã 
phát triển nhanh chóng từ thập niên 70 
của thế kỷ tr−ớc và đặc biệt tăng mạnh 
và có ảnh h−ởng sâu rộng đến văn hóa 
giải trí thế giới trong thời gian gần đây. 
Thuật ngữ Manga (bao gồm 2 chữ: Man 
- không mục đích, ngẫu hứng và Ga - 
bức họa) đ−ợc dùng để chỉ các tác phẩm 
truyện tranh mang phong cách Nhật 
Bản. Hiện nay, với con số 2,26 tỉ ấn bản 
mỗi năm (trung bình 17 quyển/ng−ời), 
Manga chiếm khoảng 40% tổng số ấn 
bản sách, báo, tạp chí tại Nhật, và trung 
bình mỗi năm 1 ng−ời Nhật bỏ ra 
khoảng 3.777 Yên (t−ơng đ−ơng 40 
USD) để mua Manga. Doanh thu từ 
ngành công nghiệp xuất bản Manga là 
481 tỉ Yên. 
Cũng là một trong những yếu tố văn 
hóa giải trí “hot” nh− Manga, Anime 
(phim hoạt hình Nhật Bản) bắt đầu 
xuất hiện vào những năm 1960 và 
nhanh chóng đ−ợc nhân dân Nhật Bản 
và toàn thế giới yêu thích đến tận ngày 
nay. Anime là thuật ngữ do ng−ời Nhật 
sáng tạo ra, dựa trên Animetion (phim 
hoạt hình), để chỉ phim hoạt hình mang 
phong cách riêng của Nhật Bản. Anime 
có quan hệ chặt chẽ với Manga, do phần 
lớn kịch bản của Anime đ−ợc chuyển thể 
từ những tác phẩm Manga ăn khách. 
Nhiều bộ phim Anime Nhật Bản đã 
từng đoạt giải Oscar dành cho “phim 
hoạt hình”. Doanh thu của Anime năm 
2006 lên tới 94 tỉ Yên, chủ yếu là thu 
nhập từ những DVD Anime ăn khách. 
Manga và Anime hiện nay có một 
l−ợng fan hâm mộ đông đảo, đ−ợc gọi là 
Otaku, có mặt trên toàn thế giới. Otaku 
tự tổ chức những hoạt động hội hè khá 
đa dạng, đặc biệt có 3 sự kiện lớn hàng 
năm là: Comiket, Otakon và Anime 
Expro. Comiket là hội chợ quốc tế 
28 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2011 
chuyên về Manga và Anime, đ−ợc tổ 
chức ở Nhật Bản 2 lần trong năm, với 
khoảng trên 20.000 gian hàng tr−ng 
bày. Otakon và Anime Expro là lễ hội 
đ−ợc tổ chức ở Mỹ, với đông đảo ng−ời 
tham gia, và là cơ hội để các nhà sản 
xuất Anime quảng bá sản phẩm của 
mình với toàn thế giới. 
Bên cạnh Manga và Anime, thời 
trang Nhật Bản cũng là một lĩnh vực 
văn hóa có ảnh h−ởng trên thế giới. 
Hiện nay, dòng thời trang Kawaii đã trở 
nên nổi tiếng, và Kawaii đã trở thành 
một từ quốc tế hóa, giống nh− karaoke 
hay sushi... Hình ảnh thời trang này có 
thể bắt gặp ở bất cứ n−ớc nào, Âu hay á, 
Nhật Bản hay n−ớc Mỹ, thậm chí là ở 
Việt Nam. Một cuộc khảo sát đ−ợc Bộ 
Th−ơng mại và Công nghiệp Nhật Bản 
tiến hành tháng 2/2010 với tên gọi “Bản 
đồ xu h−ớng tiêu dùng châu á” (7), chủ 
yếu điều tra về tiêu dùng thời trang, ẩm 
thực và lối sống của 4 thành phố lớn ở 
châu á là Hongkong, Singapore, 
Bangkok (Thailand) và Mumbai (ấn 
Độ). Kết quả điều tra bất ngờ cho thấy 
số ng−ời biết đến thời trang Kawaii khá 
lớn, chiếm tới 50% tỉ lệ ng−ời đ−ợc hỏi 
tại Hongkong, Singapore, và Bangkok. 
L−ợng ng−ời yêu thích thời trang 
Kawaii cũng lên đến 40% ở Singapore 
và Bangkok, ở Hongkong là 30%, 
Mumbai là 10%. Nh− vậy, có thể nói, 
thời trang Kawaii phản ánh xu h−ớng 
quốc tế hóa văn hóa Nhật Bản hiện nay. 
Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa 
đại chúng Nhật Bản và ảnh h−ởng sâu 
rộng của nó tới đời sống văn hóa thế giới 
hiện nay đã trở thành chủ đề đ−ợc bàn 
luận tại Chính phủ, và ý t−ởng “xuất 
khẩu văn hóa Nhật Bản” ra n−ớc ngoài 
đ−ợc phác thảo một cách có kế hoạch, 
trở thành một trong những chiến l−ợc 
phát triển đất n−ớc trong thời đại mới. 
Ngày 8/6/2010, Bộ Kinh tế Nhật Bản đã 
tuyên bố chiến l−ợc xây dựng “Vẻ đẹp 
văn hóa Nhật Bản” (Cool Japan: Cool - 
viết tắt của cụm từ kakkou ii, tức là 
đẹp, dễ th−ơng, hiện đại...), nhằm phát 
triển ngành công nghiệp văn hóa của 
Nhật Bản, bao gồm các lĩnh vực nh− 
truyện tranh (Manga), phim hoạt hình 
(Anime), thời trang và văn hóa ẩm thực 
của Nhật Bản... ra n−ớc ngoài. Với sự hỗ 
trợ của Chính phủ, lễ hội văn hóa Nhật 
Bản sẽ đ−ợc tổ chức ở nhiều n−ớc, nhằm 
đem lại nhận thức mới về một đất n−ớc 
Nhật Bản giàu sáng tạo văn hóa, thu 
hút các nhân tài trong lĩnh vực này đến 
với môi tr−ờng sáng tác ở Nhật. Bên 
cạnh đó, đối với các thị tr−ờng mới nổi 
trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, 
Chính phủ Nhật Bản cũng dự định tiến 
hành điều tra thị tr−ờng công nghiệp 
văn hóa tại đây, đồng thời mở các Phòng 
văn hóa “Cool Japan” tại những địa 
ph−ơng quan trọng và hỗ trợ cho các 
công ty văn hóa Nhật Bản muốn thâm 
nhập vào thị tr−ờng này. Có thể thấy, 
trong 10 năm tới, Chính phủ Nhật Bản 
coi việc phát triển công nghiệp văn hóa 
ở n−ớc ngoài là một trong những chính 
sách quan trọng trong Chiến l−ợc phát 
triển đất n−ớc. 
7. Kết luận 
Tính cách dân tộc, văn hóa ứng xử 
của ng−ời Nhật Bản tự thân nó đã là 
một tài sản văn hóa vô giá đ−ợc thế giới 
ca tụng trong nhiều thập kỷ qua, và vừa 
mới đây, lại một lần nữa chứng tỏ sức 
sống mãnh liệt của nó. Khi đại thảm 
họa động đất, sóng thần và sự cố hạt 
nhân cùng một lúc xảy ra ở Nhật Bản, 
không hỗn loạn, không c−ớp bóc, hôi 
của, ng−ời dân nơi đây vẫn giữ vững 
đ−ợc trật tự của một xã hội mà sự đoàn 
kết một lòng, cùng nhau nỗ lực v−ợt qua 
gian khó đã trở thành phẩm chất chung 
Một số vấn đề 29 
của mọi thành viên trong xã hội. Theo 
Thomas Lifson (12), ở Nhật Bản, “văn 
hóa xấu hổ” đ−ợc đề cao hơn “văn hóa 
tội lỗi”. Hành động của mỗi ng−ời chịu 
ràng buộc bởi sự đánh giá của những 
ng−ời xung quanh hơn là việc tiếp thu 
những phong tục. Một ng−ời không thể 
cảm thấy mình hạnh phúc, đủ đầy trong 
khi những ng−ời xung quanh anh ta 
đang khốn khó. Sự nhẫn nhịn, cố gắng 
làm việc một cách có kỷ luật nh− những 
ng−ời xung quanh và cùng nhau nỗ lực 
để đạt đ−ợc mục tiêu chung chính là 
ph−ơng thức ứng xử của ng−ời Nhật 
Bản. Họ đã thành công bởi biết vận 
hành một chế độ xã hội trong đó duy trì 
đ−ợc trật tự và cách ứng xử tốt. Đây 
chính là sức sống mạnh mẽ giúp Nhật 
Bản v−ơn lên từ những điêu tàn sau 
Chiến tranh Thế giới thứ Hai, và đại 
thảm họa vừa qua rốt cuộc lại có thể trở 
thành một cú hích giúp Nhật Bản hồi 
sinh và phát triển mạnh mẽ. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Kỷ yếu hội thảo “Tâm lý học, chăm 
sóc sức khỏe và văn hóa Việt Nam - 
Nhật Bản”. Viện Nghiên cứu Đông 
Bắc á, tháng 12/2010. 
2. Viện Nghiên cứu văn hóa truyền 
thông NHK. Cơ cấu ý thức ng−ời 
Nhật hiện đại (bản thứ 7). Tokyo: 
Hiệp hội xuất bản truyền thông 
Nhật Bản, 2010. 
3. Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, 
Khoa học và Công nghệ. Sách trắng 
giáo dục Nhật Bản năm 2009. 
Tokyo: 2009. 
4. Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, 
Khoa học và Công nghệ. 
kusho/html/hpba200501/002/001/
topics01.htm 
5. Phan Cao Nhật Anh. Làm việc tự do 
trong giới trẻ Nhật Bản. Tạp chí 
Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc 
á, 2006, số 1. 
6. Trần Hoàng Long. Hiện t−ợng “c− 
dân tị nạn café internet” ở Nhật Bản 
hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu Đông 
Bắc á, 2009, số 12. 
7. Thời trang Kawaii Nhật Bản đ−ợc 
yêu thích ở châu á (Nguyễn Ngọc 
Ph−ơng Trang dịch). Website 
Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên 
cứu Đông Bắc á. 
cks.gov.vn/ 
8. 
ws/100609/mca1006090502008-
n1.htm 
9. Nguyễn Duy Dũng (chủ biên). Kinh 
nghiệm giải quyết các vấn đề xã hội 
bức xúc của Nhật Bản. H.: Khoa học 
xã hội, 2007. 
10. Thiết lập phòng văn hóa Nhật Bản 
ws/100609/mca1006090502008-
n1.htm 
11. Khái l−ợc dự toán của Sở văn hóa 
Nhật Bản năm 2010. Thực hiện văn 
hóa nghệ thuật lập quốc và quảng 
bá văn hóa. 
www.bunka.go.jp/bunkashingikai/s
oukai/50/pdf/shiryo_9.pdf 
12. Tại sao ng−ời Nhật không c−ớp bóc 
(Phạm Thị Xuân Mai dịch). Website 
Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên 
cứu Đông Bắc á. 
cks.gov.vn/Default.aspx?Content=C
hiTietTinTuc&MaChuDe=16&MaTi
n=1271 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_van_hoa_xa_hoi_noi_bat_cua_nhat_ban_thap_nien.pdf