Một số thể thơ trong thơ công giáo Việt Nam hiện đại (Khảo sát qua năm tập có một vườn thơ đạo)

Đức tin là nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ tôn giáo. Cảm hứng về Đức tin thể hiện

rất đa dạng, phong phú trong thơ tôn giáo, nó chi phối đến cách lựa chọn đề tài, chủ đề, hình ảnh,

nội dung, ngôn ngữ. Để chuyển tải mạch cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của mình, các nhà

thơ đã tìm tòi, sử dụng nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau từ cách thức tổ chức ngôn ngữ,

giọng điệu, đến sự lựa chọn thể thơ, lựa chọn các hình ảnh biểu tượng phù hợp. Bài báo này sẽ

đi sâu tìm hiểu về sự lựa chọn các thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại khảo sát qua

năm tập Có một vườn thơ đạo, một bộ tuyển tập đồ sộ thơ Công giáo Việt Nam từ thế hệ của

Hàn Mặc Tử đến nay.

pdf 10 trang kimcuc 6860
Bạn đang xem tài liệu "Một số thể thơ trong thơ công giáo Việt Nam hiện đại (Khảo sát qua năm tập có một vườn thơ đạo)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số thể thơ trong thơ công giáo Việt Nam hiện đại (Khảo sát qua năm tập có một vườn thơ đạo)

Một số thể thơ trong thơ công giáo Việt Nam hiện đại (Khảo sát qua năm tập có một vườn thơ đạo)
35 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0025 
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 34-44 
This paper is available online at  
MỘT SỐ THỂ THƠ TRONG THƠ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 
(KHẢO SÁT QUA NĂM TẬP CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO) 
Nguyễn Thị Kim Hồng 
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên 
Tóm tắt. Đức tin là nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ tôn giáo. Cảm hứng về Đức tin thể hiện 
rất đa dạng, phong phú trong thơ tôn giáo, nó chi phối đến cách lựa chọn đề tài, chủ đề, hình ảnh, 
nội dung, ngôn ngữ... Để chuyển tải mạch cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của mình, các nhà 
thơ đã tìm tòi, sử dụng nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau từ cách thức tổ chức ngôn ngữ, 
giọng điệu, đến sự lựa chọn thể thơ, lựa chọn các hình ảnh biểu tượng phù hợp. Bài báo này sẽ 
đi sâu tìm hiểu về sự lựa chọn các thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại khảo sát qua 
năm tập Có một vườn thơ đạo, một bộ tuyển tập đồ sộ thơ Công giáo Việt Nam từ thế hệ của 
Hàn Mặc Tử đến nay. 
Từ khóa: Thể thơ, thơ Công giáo Việt Nam hiện đại. 
1. Mở đầu 
Từ lâu, văn học Công giáo chủ yếu được biết đến nhiều ở lĩnh vực văn xuôi, đặc biệt trong 
công cuộc hiện đại hóa văn học đầu thế kỉ XX. Phần về thơ, quả thực còn ít được chuyên tâm tìm 
hiểu. Điều này đặt ra sự nghi ngại của các nhà nghiên cứu về sự tồn tại hay không tồn tại của một 
dòng thơ Công giáo Việt Nam, cũng như quá trình vận động, sức sống, và vị trí, ý nghĩa của thơ 
Công giáo trong lịch sử thơ ca dân tộc. Năm 2012, Có một vườn thơ đạo ra đời cho thấy có sự hiện 
hữu của một dòng thơ Công giáo Việt Nam trong lòng thơ ca dân tộc. Với vai trò tiên phong và đại 
diện của Hàn Mặc Tử, thơ Công giáo đã có những bước vận động phát triển nhất định. Dù khiêm 
nhường và có phần lặng lẽ, sự hiện diện của thơ Công giáo với những nét đặc sắc riêng đã góp phần 
ít nhiều trong việc làm phong phú hóa nền thơ ca Việt Nam. Và riêng đối với công cuộc hiện đại hóa 
thơ ca đầu thế kỉ XX, trong những tác động mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, không thể không có 
sự ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo thông qua các tác phẩm thơ. 
Đã có một số công trình nghiên cứu quan tâm về thơ Công giáo như Võ Long Tê (1965) nghiên 
cứu về Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam [13], Lê Đình Bảng (2009) đã sưu tầm và giới thiệu 
các tác phẩm thi ca Công giáo [1-7], Trăng Thập Tự (2012a) tập hợp các công trình nghiên cứu về 
“thơ cầu nguyện” của Hàn Mặc Tử, tập hợp các bài viết về vấn đề tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử 
của nhiều nhà nghiên cứu như Phan Cự Đệ, Quách Tấn, LM. Trần Cao Tường... [14], Trăng Thập 
Tự (2012a) cũng đã dày công sưu tầm và giới thiệu các tác phẩm thơ Công giáo từ thế hệ của Hàn 
Mặc Tử đến nay [14], Trăng Thập Tự (2012b) [15], Trăng Thập Tự (2012c) [16], Trăng Thập Tự 
(2012d) [17], Trăng Thập Tự (2015) [18], những bài viết đề cập đến vấn đề tôn giáo trong thơ Hàn 
Mặc Tử như: Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử của Yến Lan; Quan niệm về thơ của Hàn Mặc Tử 
của Mai Văn Hoan; Sự nghiệp ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mặc Tử của Quách Tấn; Con 
người trong thơ Hàn Mặc Tử của Nguyễn Thị Hồng Nam... được tập hợp trong công trình Hàn Mặc 
Ngày nhận bài: 1/2/2018. Ngày sửa bài: 29/3/2018. Ngày nhận đăng: 1/4/2018. 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Kim Hồng. Địa chỉ e-mail: nguyenkimhong504@gmail.com 
Nguyễn Thị Kim Hồng 
36 
Tử - thơ và đời do nhóm trí thức Việt thực hiện (2016) [11]. Lê Hồ Quang (2015) thực hiện công 
trình nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam hiện đại và một số hiện tượng thơ đáng chú ý ở các giai 
đoạn khác nhau [12]. Công trình của Hoài Thanh, Hoài Chân (2005) [20], công trình của Nguyễn 
Toàn Thắng (2007) nghiên cứu về tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và những điểm đặc biệt về thi 
pháp thơ của nhóm thơ Bình Định [21]. Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Cảm hứng tôn giáo trong 
thơ Mới 1932 - 1945 của Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) [22]. Công trình nghiên cứu về Cảm 
hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn của Mai Thị Thảo (2014) [19], Chu Thị Thu Hằng (2012) 
nghiên cứu về Cảm quan tôn giáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều [10],.... Những công trình đã có 
là gợi ý quan trọng để chúng tôi thực hiện nghiên cứu về thơ Công giáo Việt Nam hiện đại về 
phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi sẽ tập trung 
nghiên cứu về hệ thống thể loại trong thơ Công giáo để làm rõ những đóng góp về phương diện 
nghệ thuật của thơ Công giáo đối với thi ca Việt Nam hiện đại. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Cách tân các thể thơ truyền thống 
Đức tin là yếu tố cốt lõi của một tôn giáo, thơ ca viết về tôn giáo không thể không viết về Đức 
tin. Đồng thời nhiều nhà thơ viết về tôn giáo đều theo đạo hoặc thấm nhuần tư tưởng của đạo mà 
họ đang quan tâm, ở họ sẵn có lòng mộ đạo, niềm tin tôn giáo luôn hiện diện trong tâm hồn của 
nhà thơ Công giáo, vì thế thơ như một phương tiện giãi bày cảm xúc về đức tin đó. Xét từ mối 
quan hệ giữa Đức tin tôn giáo và hoạt động sáng tạo thơ ca, có thể thấy, từ Phật giáo, Đạo giáo 
hay Thiên Chúa giáo, Đức tin của đạo luôn là nguồn cảm xúc mãnh liệt thôi thúc sự sáng tạo trong 
nghệ thuật. Thơ ca chính là phương tiện giãi bày những xúc cảm và khát vọng mãnh liệt về Đức 
tin của các nhà thơ. Mặt khác, trong thực tế cuộc sống, khi bế tắc con người thường tìm đến đức 
tin tôn giáo, dù là vô thức, nhằm giải thoát những ẩn ức. Sự phong phú trong cảm xúc về Đức tin 
của các nhà thơ Công giáo tất dẫn đến sự lựa chọn nhiều thể thơ. Quan sát 5 tập thơ Có một vườn 
thơ đạo, có thể thấy, không có nhà thơ nào chỉ sử dụng một thể duy nhất. Các nhà thơ sáng tác đa 
dạng trên tất cả các thể thơ, từ các thể thơ truyền thống đến các thể thơ hiện đại. Qua khảo sát, thống 
kê, chúng tôi thấy có các thể thơ như thể bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, song 
thất lục bát, đường luật, thơ hợp thể, thơ tự do, kịch thơ, thơ văn xuôi, trường ca. 
Như vậy, trong hàng ngũ các thể thơ, có sự hiện diện của các thể thơ truyền thống (bao gồm các 
thể: Đường luật, lục bát, song thất lục bát) và loại hình câu thơ truyền thống (xuất hiện trong các thể 
hiện đại: 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ và dạng hợp thể). Ở phương diện này, thơ đạo đã không hoàn 
toàn “đoạn tuyệt” với thơ truyền thống mà luôn có sự kế thừa và phát huy trên cơ sở cách tân, sáng 
tạo. 
Xuất hiện khá phổ biến là thể lục bát. Nhìn chung, thể lục bát trong thời kì mới đã được khai 
thác theo hướng hiện đại hóa, từ nội dung đến hình thức. Rất nhiều nhà thơ đạo đã hơn một lần tìm 
đến thể thơ này để sáng tác, tiêu biểu như: Lê Đình Bảng, Nghinh Nguyên, Xuân Ly Băng, Trần 
Văn Thi, Vũ Ngọc Bích, Long Giang Tử, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Quốc Dũng, Liễu Giang.... 
Quan sát các bài thơ lục bát của các tác giả trên có thể thấy, thể lục bát đã khai thác được tối đa khả 
năng trữ tình và tự sự của thể thơ để diễn tả dòng cảm xúc rất mới: cảm xúc về Đức tin Thiên Chúa. 
Nhà thơ Hồ Dzếnh rất khéo léo khi lồng tình yêu đôi lứa vào không khí giáo đường với lời kinh vấn 
vương, với âm thanh chuông nhà thờ vang vọng... Vẻ huyền hồ của tôn giáo, của Đức tin càng làm 
cho tình yêu lứa đôi trở nên nhiệm màu: Em ạ quê ta tháp giáo đường/ Sáng chiều vẫn vọng những 
hồi chuông/ Ai đi xem lễ tôi đi với/ Gió đạo lời kinh tỏa vấn vương/ Đêm giáng sinh này em ở đâu/ 
Nghe chuông có nhớ thuở ban đầu/ Ước chi sống lại thời xưa nhỉ/ Để trẻ ra và để hẹn nhau (Hoa 
mẫu đơn - Hồ Dzếnh). Thơ lục bát của Nghinh Nguyên lại đầy khắc khoải, chơi vơi trên hành trình 
tìm Chúa: Tôi tìm tôi giữa chợ đời/ Thấy mình phiêu dạt, chơi vơi lạc loài/ Cố vươn xa cõi trần ai/ 
Đi tìm thượng đế - bóng ngài cao xa (Tôi tìm). Cái tôi thi nhân có lúc cô đơn, mong mỏi kiếm tìm 
Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo) 
37 
những nguồn cậy trông: Mẹ ơi! chiều đã xuống rồi/ Lòng con trống lạnh giữa đời đơn côi/ Hồn con 
- thuyền nhỏ biển khơi/ Phong ba bão táp biết đời về đâu/ Cậy trông ơn mẹ nhiệm mầu/ Giúp con 
vượt thoát nỗi đau lạc loài/ Giúp con những phút mệt nhoài/ Vững tin tiến bước hăng say tìm về/ 
Giúp con vượt thoát đam mê/ Cho con vững bước tiến về nhà Cha (Cho con vững bước - Nghinh 
Nguyên),... Nhịp điệu của câu thơ lục bát trên được thể hiện hoàn chỉnh qua hai dòng thơ, sự kết hợp 
của vần chân và vần lưng và được gieo ở số từ chẵn tạo nên cho thể thơ này một âm hưởng và nhịp 
điệu riêng. Trong thể lục bát, vần chân và vần lưng bao giờ cũng hiệp vần với thanh bằng nên nhịp 
điệu chung của câu thơ lục bát thường nhẹ nhàng, uyển chuyển và ngân vang. Thơ lục bát, vì thế, rất 
có ưu thế trữ tình trong phô bày cảm xúc. Các nhà thơ Công giáo đã khai thác tối đa thế mạnh này 
của thể thơ nhằm diễn tả những nỗi buồn mơ hồ kéo dài, những tình cảm bâng khuâng thương nhớ: 
Hồn chiều lên ý não nề/ Buồn ơi! Xa vắng, đê mê là buồn/ Bỗng nghe một tiếng chuông buông/ Xa 
xôi tự tháp thánh đường nào đây (Chuông chiều - Xuân Ly Băng); những suy tư của con người 
trước cuộc đời hư vô, sự ý thức về cuộc đời hữu hạn và thân phận cát bụi, nhỏ nhoi của con người 
trong trần thế: Từ con tỉnh giấc mê đời/ Sầu thôi sắc tím xanh ngời bình yên/ Thoảng về trận gió siêu 
nhiên/ Bừng cơn ảo mộng ngả nghiêng đền đài/ Phù du trọn kiếp trần ai/ Triền miên một thưở đọa 
đày tấm thân/ Ngẫm suy nửa kiếp nhân trần/ Hồng ân tuôn đổ mở dần từ tâm (Cười - Nguyễn 
Kim Lệ); cùng những khát vọng mạnh mẽ về Đức tin, về thế giới Thiên đường, về cõi thiên thu 
của các tín đồ Thiên Chúa: Hoa đời tan tác cánh nhung/ Từng chiều lặng lẽ thẹn thùng nỗi đau/ 
Trần gian xơ xác một màu/ Bởi vòng tục lụy ngọt ngào bùa mê... Tôi ơi dừng bước ruổi rong/ 
Tin yêu về với tình nồng thiên thu (Về với tình nồng - Cao Huy Hoàng). 
Bên cạnh khả năng trữ tình, thể lục bát cũng rất mạnh về tự sự. Với khả năng “kể chuyện” bằng 
thơ cùng đặc điểm dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng quần chúng, thể lục bát rất có ưu thế trong việc 
“thi hóa Thánh kinh”. Các nhà thơ đạo đã tận dụng tối đa ưu điểm của thể thơ để chuyển tải nội 
dung giáo lí, kinh bổn, điều răn. Từ đó những bài giáo huấn khô khan khó hiểu trong Kinh thánh lại 
trở nên dễ tiếp nhận hơn với đông đảo con chiên. Có thể bắt gặp khá nhiều trong thơ đạo những câu 
chuyện bằng thơ sống động như: Bài giảng trên núi, Dụ ngôn người gieo giống, Hồn tôi lên tiếng, 
Trên đường rao giảng, Tâm niệm, Tổng kết (Long Giang Tử), Tiệc cưới Cana, Phép lạ hóa bánh lần 
đầu, Đức Mẹ dưới chân Thánh giá, Chúa trối Đức Mẹ cho Gioan, Chúa than thở, Chúa kêu khát, 
Chúa trút linh hồn, Đức Mẹ khóc con, Chúa lên trời (Nguyễn Xuân Văn), Pharông tuyên bố tha về, 
Dân oán trách Mosê, Trên đường hồi hương qua biển Đỏ (Cao Vĩnh Phan), một số bài Thánh vịnh 
của Gérard Gagnon Nhân, Năm sự vui, Năm sự sáng (Võ Ngọc Bích); ... Trong số này, đặc biệt nổi 
bật tác phẩm Sứ điệp tình thương của tác giả Nguyễn Văn Xuân với 9764 câu thơ lục bát. Đây là 
một nỗ lực lớn của nhà thơ trong việc thực hiện diễn ca toàn bộ Tin mừng. 
Không dừng lại ở đó, các nhà thơ đạo còn tìm cách thay đổi một số yếu tố thi pháp thơ lục bát 
nhằm tìm một hình thức biểu đạt mới mẻ cho vấn đề Đức tin. Nhà thơ Vũ Đức Trinh tìm cách tách 
đôi cú pháp câu thơ bằng dấu chấm câu giữa dòng: Đượm hương nhân đức Chúa trời/ Thanh cao, 
siêu thoát. Cõi đời hay không (Hương sắc cao thiêng). Nhà thơ cố tình kết bài lục bát bằng một câu 
lục như một lời gọi thiết tha: Lặng nghe chuông đổ mỗi chiều/ Lá vàng tuôn rụng hắt hiu vườn nhà/ 
Tiếng chuông trong gió ngân nga/ Âm thanh rút ngắn đời ta dần dần/ Rồi đây chuông vẫn còn ngân/ 
Thân em khuất dạng khỏi sân khấu đời/ Tìm về với Chúa em ơi! (Trong tiếng chuông). Nhà thơ Lê 
Đình Bảng viết khá nhiều lục bát. Ở thể loại này, nhà thơ cũng vận dụng nhiều thủ pháp như chấm 
câu giữa dòng, tạo câu vắt dòng, dấu chấm lửng giữa những câu thơ: Ta nhìn trong mắt em xanh/ 
Hoa xoan tim tím, mỏng manh. Ô kìa/ Ở nơi vòm cửa bên kia/ Có đôi chim mới tha về cọng rơm 
(Vào đền lễ hương), Thế rồi... một sớm heo may/ Em đi vẫy những bàn tay vô hồn (Vượt qua),... Lục 
bát của Nguyễn Văn Ái lại có cách ngắt câu thơ rất mới lạ: 
Sáng danh 
Nguyện sớm kinh chiều 
Mân côi lần chuỗi 
Nguyễn Thị Kim Hồng 
38 
Tín điều tạc ghi 
Xưa vâng Thiên ý 
Một thì 
Yêu là cõi phúc 
Đền nghì tình ai 
Thủy chung về nước Ba Ngôi 
Yêu là hơi thở của trời 
Bén duyên linh khí 
An vui Thánh tình 
 (Tạc ghi – Nguyễn Văn Ái) 
Những hình thức biểu hiện mới lạ này tạo ấn tượng âm thanh và thị giác mạnh mẽ cho người 
đọc, từ đó chuyển tải hữu hiệu dòng cảm xúc về tình đạo, tình đời. 
Cùng với thể lục bát, thể thơ song thất lục bát cũng xuất hiện trong vườn thơ đạo, dù không 
nhiều. Cũng như thể lục bát, song thất lục bát được nhiều nhà thơ khai thác khả năng tự sự vốn có 
của thể loại nhằm thực hiện sứ mệnh “truyền tin”, tiêu biểu là các tác phẩm: Giáng sinh, Rao giảng 
nước trời, Dụ ngôn nước trời, Bữa tiệc ly, Cầu nguyện một mình (Phạm Đình Tụng),... Thể song thất 
lục bát còn có ưu thế trữ tình trong việc biểu tỏ dòng tâm trạng u uất, sầu thương được tạo nên từ 
nhịp điệu của hai câu thất và cặp câu lục bát. Một số nhà thơ đạo đã tìm thấy sự đồng điệu ở đặc 
điểm này của thể thơ, vận dụng nó vào giãi bày dòng cảm xúc uất hận, nghẹn ngào: Ôi đau xót tái tê 
tủi hận/ Quảng đời chiều lủi thủi mình em/ Lần theo bước của con tim/ Tìm anh trong cõi vô biên 
vĩnh hằng ... Duyên trần đứt từ đây anh nhé/ Hội thiên đàng ta sẽ gặp nhau (Khóc bạn trăm năm - 
Maria Ngọc Minh), Hãy nghe tiếng tôi kêu, hỡi Chúa!/ Xin lắng tai nghe tỏ lời tôi/ Từ nơi cùng đất 
cuối trời/ Tôi kêu cầu Chúa rã rời tâm can (Kẻ lưu đày khẩn nguyện - Mai Lâm). Số ít bài thơ mang 
cảm hứng tụng ca, ngợi khen của Đức Maria cũng vận dụng thể song thất lục bát nhưng không nhiều. 
Thể Đường luật - một thể thơ điển hình của loại hình thơ cổ điển, với niêm luật, vận đối hết sức 
chặt chẽ, quy phạm vẫn hiện diện trong “vườn thơ đạo” dù số lượng rất ít. Đó những bài thơ đầu tiên 
trong nghiệp thơ của Hàn Mặc Tử, cảm quan tôn giáo của nhà thơ lúc này còn mờ nhạt. Một số nhà 
thơ lớn tuổi sau 1975 cũng vận dụng thể Đường luật nhằm bày tỏ những chiêm nghiệm cuộc đời, 
chiêm nghiệm Đức tin, tuy nhiên số bài thơ này khá khuôn sáo về hình thức và nội dung. Tuy nhiên, 
thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp vài bài Đường luật có thi tứ: Tinh tú bay - Nguyễn Văn Ái, Phút nhiệm 
màu - Vũ Đan Thanh. 
Như vậy, có thể thấy, trong sự lựa chọn thể loại biểu đạt thích hợp dòng cảm xúc về Đức tin tôn 
giáo, các nhà thơ đạo đã không hề ngần ngại đưa vào các thể thơ truyền thống để sáng tác. Trong đó, 
thể lục bát là phổ biến hơn cả. Thể lục bát với ưu thế về khả năng trữ tình, phong phú trong việc 
chuyên chở nội dung, với âm điệu nhẹ nhàng, êm ái rất thích hợp để các nhà thơ bày tỏ những suy 
niệm sâu sắc về đời về đạo. Đồng thời, với khả năng diễn ca, kể chuyện, vần điệu dễ nhớ, dễ thuộc, 
thể lục bát cũng được các nhà thơ đạo ưa chuộng sử dụng nhằm tái hiện sống động các câu chuyện 
Thánh kinh, rao giảng luân lí tôn giáo. So với thể lục bát, thể Đường luật với công thức gò bó, quy 
phạm chặt chẽ, thể song thất lục bát đặc trưng với điệu thơ u uất, sầu thương rất khó thích hợp biểu 
đạt các vấn đề về Đức tin tôn giáo... Thực tế này cho thấy, một mặt, các nhà thơ Công giáo đã rất nỗ 
lực trong việc làm mới các thể truyền thống nhằm đa dạng hóa hình thức biểu đạt các vấn  ... ữ trước vốn được dùng trong các bài vè, nói lối. Đến thời đại Thơ mới, các thể này 
đã được cách tân, làm mới. Bài thơ 4 chữ thường được chia khổ, kéo dài vô hạn tùy mạch cảm xúc 
của nhà thơ. Các nhà thơ Công giáo đã tận dụng những lợi thế sẵn có này của các thể thơ để phô tả 
cảm xúc về Đức tin tôn giáo. Đặc biệt, nhịp ngắt của loại câu 4 chữ thường là nhịp chẵn. Nhịp ngắt 
này tạo tính nhịp nhàng, cân đối, dễ thuộc, dễ nhớ, tạo một âm hưởng đặc biệt đối với thơ ca viết về 
Đức tin. Hơn nữa, đặc điểm này cũng rất cần thiết đối với thơ Đạo, nhất là trong ý thức về “truyền 
bá hoặc rao giảng Đức tin” một cách rộng rãi trong cộng đồng dân Chúa. Một số tác giả đã tận dụng 
lợi thế này để chuyển hóa nội dung Kinh của đạo Công giáo vào thơ nhằm răn dạy đạo đức cho con 
người theo ý hướng của Chúa. Tiêu biểu là các tác phẩm: Kinh mười điều răn - Vũ Ngọc Bích, Dụ 
ngôn người gieo hạt - Vũ Phan Long... Thơ 4 chữ còn được sử dụng để nhà thơ thể hiện tình cảm 
của cá nhân với Chúa và Đức Mẹ (Đêm Bê lem - Vĩnh An, Mùa xuân bên Mẹ - Dzuy Sơn Tuyền, 
Tâm nguyện, Khi về - Trịnh Tây Ninh...). 
Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo) 
41 
Thể thơ 5 chữ được khá nhiều nhà thơ ưa chuộng. Đây vốn là thể thơ phổ biến trong ca dao 
dân ca (các loại vè, đồng dao, hát dặm Nghệ Tĩnh) hoặc có gốc từ thể ngũ ngôn Cổ phong hay 
Đường luật. Nhưng khi đi vào thơ hiện đại, thể thơ 5 chữ đã được làm mới bằng cách chia khổ, có 
thể kéo dài thành nhiều khổ. Nhịp điệu câu thơ 5 chữ thường thay đổi liên tục, có dòng ngắt nhịp 
chẵn - lẻ (2/3) nhưng cũng có dòng ngược lại lẻ - chẵn (3/2 hoặc 1/2/2). Các nhà thơ đã tận dụng tối 
đa các cách ngắt nhịp này để diễn tả linh hoạt dòng trạng thái xúc cảm về tôn giáo. Các bài thơ 5 chữ 
của Lê Đình Bảng, Xuân Ly Băng, Phạm Thị Hồi,... không hề gò bó như ngũ ngôn cổ thể. Lời thơ 
trở nên phóng khoáng, thanh thoát, diễn tả thành công dòng cảm xúc vừa chân thành vừa sâu sắc về 
lòng tin Thiên Chúa: Cho tôi một lòng tin/ Nhỏ nhoi như hạt cải/ Cho tôi làm cỏ dại/ Ở bên đường 
không tên (Xin cho tôi lòng tin - Lê Đình Bảng), Có một lần nào đó/ Ngài trắc nghiệm lòng tin/ Để 
chữa cho lành đã/ Một trái tim ưu phiền/... Có một lần thế đó/ Chén đắng ngài trao ban/ Nhận chìm 
trong bể khổ/ Để đo độ đá vàng! (Có một lần nào đó - Phạm Thị Hồi), Chính Chúa là hiện hữu/ 
Không có thủy có chung/ Đời con một chút xíu/ Như giọt nước miệng thùng (Suy nghĩ cúi đầu - 
Xuân Ly Băng),v.v... 
Hiếm gặp nhất là thể thơ 6 chữ. Thể thơ 6 chữ hiện đại cũng đã có từ thời Thơ mới. Có thể 
chia làm nhiều khổ và kéo dài như các thể 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ. Câu thơ thường ngắt nhịp chẵn 2/2/2 
hoặc nhịp lẻ 3/3 tạo âm hưởng thanh thoát. Nhà thơ Vũ Đức Trinh đã vận dụng khá thành công thể 
thơ này khi mô tả vẻ huyền nhiệm của nhà thờ, người đi lễ, bài ca kinh thánh và hình ảnh Đức Chúa 
trong hành trình đi lễ đầy sương: Sương xuống mỗi khi càng lạnh/ Lù mù như thể vầng hơi/ Lởn vởn 
quay luồng Kinh thánh/ Kinh đang tìm nẻo lên trời/... Sương bọc quanh người đi lễ/ Quẩn chân họ 
đến nhà thờ/ Mong lạy lúc ánh hừng đông bật tóe/ Chiếu qua lưới nhện vương sương/ Những hạt 
minh châu sáng chóe/ Tươi như ngọc của Thiên đường/ Tia lửa mặt trời xinh xắn/ Dập dềnh rọi 
thẳng búp hoa/ Các giọt sương đêm chờ sẵn/ Óng lên xem Chúa chín tòa (Sương). 
Đáng chú ý nhất là sự vận dụng khá phổ biến hình thức hợp thể và tự do. Hình thức hợp thể là 
sự kết hợp linh hoạt những dòng thơ và khổ thơ thuộc các thể thơ khác nhau trong cùng một bài (Hồ 
Dzếnh trong bài Phong Châu đã dùng thể 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ cho những khổ thơ đầu và thể lục bát 
cho những khổ thơ sau). Hình thức thơ hợp thể được xem như là một dạng thức trên đường đi đến 
thơ tự do. Bản thân thể thơ này không tự xác định đầy đủ tư cách của một thể thơ độc lập và ổn định. 
Thơ hợp thể trong các sáng tác của các nhà thơ Công giáo tuy đa dạng về câu thơ nhưng ít khi có 
câu quá 8 chữ và vẫn chịu quy định về vần, nhất là về vần chân. Các nhà thơ Công giáo tỏ ra nhuần 
nhuyễn trong việc phối xen các thể thơ để tạo nên những thi phẩm sinh động. Cách thức phối xen 
nhiều câu thơ thuộc nhiều thể thơ trong cùng một bài như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các tác 
giả có thể tự do bộc lộ các cung bậc tình cảm khác nhau của mình. Xin dẫn một ví dụ tiêu biểu. Mở 
đầu bài thơ Trong tiếng chuông chiều của Xuân Ly Băng là 14 câu 8 chữ kể lể nỗi cô đơn thê thiết 
của nhân vật trữ tình: Không gian ơi chiều nay tan thành lệ/ Chảy trong lòng người viễn khách cô 
đơn/ Nhớ nhung chi khi trời xuống hoàng hôn/ Để buồn ngấm, uất hồn ai nức nở, kế tiếp là câu 6 
chữ bị ngắt làm đôi và cặp câu lục bát dưới hình thức câu hỏi như tiếng gọi xoáy sâu, thức tỉnh 
người viễn khách: Viễn khách ơi!/ Viễn khách ơi!... Tìm chi hoa nội trăng ngàn?/ Tìm chi hạnh phúc 
dương gian mà tìm?, và thi nhân đã kết bài thơ bằng thể lục bát với giọng điệu đầy suy tư, chiêm 
nghiệm khi ngộ ra triết lí cuộc đời nhờ ánh sáng Đức tin: Con người chưa được vô biên/ Là còn thổn 
thức ưu phiền tháng năm/ Này người viễn khách bâng khuâng/ Đường lên ánh sáng đã gần không 
xa. 
Còn thơ tự do hiểu đúng nghĩa là loại thơ không tuân theo quy tắc nào cả như các thể thơ cách 
luật. Số câu không hạn định, số chữ nhiều ít không đều, ngắt nhịp linh hoạt, vần có thể gieo vần trắc 
hoặc vần bằng, có thể gieo vần lưng, vần chân, vần liền, vần gián cách, vần hỗn hợp hoặc không có 
vần nào cả. Thực tế, nhiều bài từ khúc của Tản Đà đã có dáng dấp, cách điệu tự do nhưng chưa vươn 
lên được một hình thức thơ ổn định. Thơ tự do chính thức được khởi phát từ phong trào Thơ mới và 
phát triển mạnh trong dòng thơ ca cách mạng sau 1945, nhất là những năm đầu kháng chiến. Thơ tự 
Nguyễn Thị Kim Hồng 
42 
do là thể thơ của loại hình thơ hiện đại, giàu tính sáng tạo. Trong Có một vườn thơ đạo có những câu 
thơ dài ngắn đan xen và không hiệp vần theo quy củ hợp thành bài thơ, vừa tạo ấn tượng thị giác 
mạnh mẽ, vừa có khả năng chuyển tải nhiều hình thái cảm xúc của các nhà thơ về Đức tin Thiên 
Chúa, tiêu biểu là các bài: Thơ và Chúa (Hồ Dzếnh), Màu thương nhớ (Nguyễn Duy Diễn), Noel 
này (Trần Uyên Thi), Trên lầu cao khó nhìn thấy Chúa (Bùi Chí Vinh),... Quan sát các bài thơ này, 
chúng ta thấy, nhìn chung thơ tự do không nệ về vần và số chữ trong câu thơ có thể dài ngắn không 
chừng, trải rộng bao quát hết cảm xúc. Đặc biệt, thể thơ này không bị hạn chế bởi những thiết chế 
ngữ pháp tạo nên hiện tượng vắt dòng câu thơ, cho phép cảm xúc nhân vật trữ tình tuôn chảy tự 
nhiên, thoải mái. Hơn nữa, trong một khuôn khổ tự do, các nhà thơ Công giáo cũng thoải mái hơn 
trong việc lựa chọn từ ngữ. Các nhà thơ có thể đưa vào thơ vốn từ ngữ đời thường, gần gũi với đời 
sống sinh hoạt của giáo dân. Trong thơ Công giáo thường xuất hiện phổ biến lối nói khẩu ngữ quen 
thuộc hàng ngày, các nhà thơ luôn cố gắng dùng những từ ngữ dễ hiểu, thông dụng của đạo và đời. 
Hệ thống ngôn từ giản dị đem lại nét gần gũi của thơ đạo đối với tâm hồn của dân Chúa. Mặt khác, 
trong thể thơ tự do, các nhà thơ cũng có thể sử dụng đa dạng ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo, tâm 
linh, siêu thực, có tác dụng trong việc biểu đạt sự thiêng liêng, độc đáo của Đức tin tôn giáo. Sự lựa 
chọn thể thơ tự do đã đem lại sự tự do, phóng khoáng cần thiết trong biểu tỏ cảm xúc phong phú về 
Đức tin của các nhà thơ đạo. Điều này cho thấy nỗ lực làm mới thơ ca các tác giả Công giáo: Không 
là Thơ sao/ Cái đêm tuyệt vời mầu nhiệm/ Đã ghi những phút trọng vọng của một Chúa ra đời?/ 
Không là Thơ sao/ Nỗi đau đớn trọn đời của Người Mẹ đồng trinh/ Ôm lấy xác con muôn đời sáng 
láng/ Và đây nữa ái tình thắm đượm/ Madeleine cúi xuống hôn chân người/ Nước lành rửa máu 
(Thơ và Chúa - Hồ Dzếnh). 
Thơ văn xuôi là một thử nghiệm táo bạo của các nhà thơ Công giáo. Một số ý kiến cho rằng 
bóng dáng của thơ văn xuôi đã có thể tìm thấy từ thơ Đông Hồ, Tương Phố, thậm chí xa hơn trong 
văn học trung đại ở các thể văn vần như phú, văn tế, các loại biền văn như hịch, cáo. Tuy nhiên, đến 
Thơ mới, cùng với thơ tự do, thơ văn xuôi mới được xem là một thể có diện mạo hoàn chỉnh, có tên 
rõ ràng. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xuôi còn giống thơ tự do ở cùng một 
điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác 
với thơ tự do ở chỗ là trong khi thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần, 
thì thơ văn xuôi không phân dòng, không dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và thứ hai là 
thơ văn xuôi không có vần. Cùng trong xu hướng của thơ tự do, thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp 
với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư triết lý và suy tưởng về mối tương quan nhân thế và Đức tin, 
đời và đạo. Đây là một lối thoát cho các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn 
luận tự do về số phận của con người và xã hội, về niềm tin tôn giáo trong thời hiện đại. Chính vì vậy 
mà thơ văn xuôi nhanh chóng được nhiều nhà thơ Công giáo từ sau 1975 tiếp nhận, tiêu biểu như 
Giấc ngủ, Bốn khúc ca ngắn về mẹ, Vĩnh hằng (Lê Quốc Hán); Cô gái mù với li cà phê trắng - Vũ 
Thủy, Hoa núi (Nguyễn Thị Mai), Số phận người (Dương Kim Quới)... 
Thể kịch thơ và trường ca cũng xuất hiện, tuy rất ít. Trường ca có dung lượng lớn, thường 
có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình, đề cập đến các vấn đề có tính triết lí, mang tầm vóc 
lớn lao của thời đại. Trích đoạn trường ca Ngước lên cao của Nguyễn Hoàng Đức và Chúa hiển 
dung của Hoàng Diệp đã đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa triết học và nhân sinh. Các sáng tác kịch thơ 
tương đối dài. Hình thức phân vai và đối thoại giúp cho ý thơ đi xa hơn, đỡ đơn điệu hơn. Tác giả 
tiêu biểu sử dụng thể kịch thơ là nữ tu H.C.N với tác phẩm Ơn gọi của chim sáo. Vở kịch thơ gồm 
ba màn, mỗi màn là các bài thơ để diễn viên đồng thanh xướng ca, màn kịch thể hiện ý nghĩa Chúa 
của muôn loài thôi thúc vạn vật lắng nghe Thiên ý của Ngài, chỉ có nghe lời Chúa và thực thi ý Chúa 
thì mới có bình an trong lòng. Sử dụng phối hợp đa dạng các thể thơ trong từng màn kịch như 
những phương tiện để bộc lộ cảm hứng Đức tin, H.C.N đã có đóng góp lớn khi thể nghiệm đổi 
mới ở thể kịch thơ và bước đầu đạt được thành công nhất định. 
Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo) 
43 
3. Kết luận 
Rõ ràng Có một vườn thơ đạo là một tuyển tập thơ khá quy mô, số lượng tác phẩm lớn và có 
nhiều sáng tác có giá trị, tập thơ phong phú về thể loại (lục bát, song thất lục bát, thơ hợp thể, kịch 
thơ, thơ 4 chữ, 5, chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi, trường ca,), lực lượng sáng tác 
đông đảo, được sắp xếp theo một hành trình xuyên suốt từ Hàn Mặc Tử đến nay, đặc biệt có những 
gương mặt thơ sáng giá như Lê Đình Bảng, Trần Mộng Tú, Phi Tuyết Ba, Bùi Chí Vinh, Lê Quốc 
Hán, Cao Huy Hoàng, Trần Thu Miên... Trong đó Hàn Mặc Tử được lựa chọn làm gương mặt điển 
hình của tập thơ. Điều này cho thấy, thơ Công giáo Việt đã đạt được những kết quả nhất định. Và 
không thể phủ định, có một dòng thơ Công giáo Việt Nam hiện đại với vai trò, vị trí và sức sống 
riêng của nó trong dòng chảy thơ ca dân tộc. 
Mạch cảm xúc mãnh liệt về Đức tin đã chi phối mạnh mẽ đến nhiều phương thức biểu đạt của 
thơ ca. Các nhà thơ Công giáo một mặt tìm cách cách tân thể lục bát cổ truyền để có thể chuyển tải 
những dòng cảm xúc mới, mặt khác sử dụng đa dạng các thể loại hiện đại như thể 7 chữ, 8 chữ, kịch 
thơ, thơ tự do, thơ văn xuôi, thậm chí cả trường ca. Các biểu tượng tôn giáo đa nghĩa như máu, hồn, 
ánh sáng, Chúa, Thánh giá, cõi Thiên đường,... cũng được các nhà thơ khắc họa một cách sống động 
nhằm nhấn mạnh tính thiêng liêng, thánh hiển của Đức tin. Các nhà thơ Công giáo còn khai thác 
phong phú các sắc thái giọng điệu: giọng giãi bày, suy tư, chiêm nghiệm và giọng ngợi ca, thành 
kính; kết hợp hài hòa tính triết lí và màu sắc siêu thực trong ngôn ngữ thơ tôn giáo, v.v... Với những 
sáng tạo của mình, các tín đồ Kitô hữu đã đưa đến cho dòng thơ Công giáo những đặc sắc riêng, rất 
đáng ghi nhận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ kinh cầu nguyện. Nxb Phương Đông. 
[2] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ trong kinh nguyện. Nxb Tôn giáo. 
[3] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ trong Thánh nhạc Thánh ca. Nxb Tôn giáo. 
[4] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ trong kí ức dòng đời. Nxb Phương Đông. 
[5] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ huấn ca. Nxb Phương Đông. 
[6] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt 
Nam, miền thơ Phúc âm diễn ca. Nxb Tôn giáo. 
[7] Lê Đình Bảng, 2010. Văn học Công giáo Việt Nam - những chặng đường. Nxb Từ điển Bách 
khoa. 
[8] Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2005. Kinh thánh Tân ước – Lời Chúa cho mọi người. Nxb Tôn 
giáo. 
[9] Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2006. Kinh thánh Cựu ước và Tân ước – Lời Chúa cho mọi 
người. Nxb Tôn giáo. 
[10] Chu Thị Thu Hằng, 2012. Cảm quan tôn giáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Luận văn thạc sĩ 
trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[11] Nhóm trí thức Việt, 2016. Hàn Mặc Tử - thơ và đời. Nxb Văn học. 
[12] Lê Hồ Quang, 2015. Âm thanh của tưởng tượng (phê bình thơ Việt Nam hiện đại). Nxb Đại học 
Vinh. 
Nguyễn Thị Kim Hồng 
44 
[13] Võ Long Tê, 1965. Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam. Nxb Tư duy Sài gòn 
[14] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012a. Có một vườn thơ đạo, tập 1. Nxb Phương Đông. 
[15] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012b. Có một vườn thơ đạo, tập 2. Nxb Phương Đông. 
[16] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012c. Có một vườn thơ đạo, tập 3. Nxb Phương Đông. 
[17] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012d. Có một vườn thơ đạo, tập 4. Nxb Phương Đông. 
[18] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2015. Có một vườn thơ đạo, tập 5. Nxb Hồng Đức. 
[19] Mai Thị Thảo, 2014. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn. Luận văn thạc sĩ trường đại 
học Sư phạm Hà Nội. 
[20] Hoài Thanh, Hoài Chân, 2005. Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học, Hà Nội. 
[21] Nguyễn Toàn Thắng, 2007. Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định. Nxb Giáo dục. 
Nguyễn Thị Phương Thúy, 2010. Cảm hứng tôn giáo trong thơ mới 1932 – 1945. Luận văn thạc 
sĩ, Trường đại học Vinh. 
ABSTRACT 
Research genre of poetry in Vietnamese Catholic poets 
(Survey in Has a gardens poems Catholic) 
Nguyen Thi Kim Hong 
Faculty of Education - Tay Nguyen University 
Faith is the main inspiration of religious poetry. Faith is manifold, which governs the choice of 
subject, image, content, language, etc. In poetry, the poet explores the use of various artistic 
mediums from the way the language is organized, the tone, the choice of the poetic form, the choice 
of appropriate symbolic images. In this the essay we will reseach genre of Vietnamese Catholic 
poets in the “Has a gardens poems Catholic”, a collection from Catholics poems of Han Mac Tu to 
now. 
Keywords: Genre of poetry, Catholics poems of Viet Nam. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_the_tho_trong_tho_cong_giao_viet_nam_hien_dai_khao_sa.pdf