Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)

Từ năm 1802 đến năm 1883, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan chuyên môn của triều đình, trong đó có Khâm Thiên giám, triều Nguyễn đã hoạch định và triển khai thành công các chính sách phù hợp, thiết thực đối với đội ngũ quan lại. Từ nguồn tư liệu rời rạc, tản mạn trong các bộ sử lớn của triều Nguyễn, qua tổng hợp có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, ba chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, lương bổng và thưởng phạt đã được các hoàng đế triều Nguyễn áp dụng đối với các quan lại Khâm Thiên giám. Nghiên cứu dưới đây góp phần làm sáng tỏ nội dung của từng chính sách.

pdf 16 trang thom 04/01/2024 2160
Bạn đang xem tài liệu "Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)

Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)
 37 
CHUYÊN MỤC 
SỬ HỌC-NHÂN HỌC-NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO 
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ QUAN LẠI KHÂM THIÊN GIÁM 
(1802-1883)(1) 
TRƯƠNG ANH THUẬN* 
Từ năm 1802 đến năm 1883, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan 
chuyên môn của triều đình, trong đó có Khâm Thiên giám, triều Nguyễn đã 
hoạch định và triển khai thành công các chính sách phù hợp, thiết thực đối với 
đội ngũ quan lại. Từ nguồn tư liệu rời rạc, tản mạn trong các bộ sử lớn của triều 
Nguyễn, qua tổng hợp có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, ba chính sách cụ thể về 
đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, lương bổng và thưởng phạt đã được các hoàng 
đế triều Nguyễn áp dụng đối với các quan lại Khâm Thiên giám. Nghiên cứu dưới 
đây góp phần làm sáng tỏ nội dung của từng chính sách. 
Từ khóa: Triều Nguyễn; quan lại; Khâm Thiên giám, lƣơng bổng, thƣởng phạt 
Nhận bài ngày: 29/7/2018; đưa vào biên tập: 6/11/2018; phản biện: 10/12/2018; 
duyệt đăng: 25/01/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khâm Thiên giám là cơ quan nghiên 
cứu thiên văn, lịch pháp của vƣơng 
triều Nguyễn. Cơ quan trực thuộc 
Khâm Thiên giám có Ty Chiêm hậu 
(1802-1820)/Ty Kính cẩn (1829)/Ty 
Khác cẩn (1834), và gồm các chức 
danh: Giám chính/Chánh ngũ phẩm, 
Giám phó/Tòng ngũ phẩm, Chiêm 
hậu/Tòng ngũ phẩm, Linh đài 
lang/Chánh thất phẩm, Ngũ quan 
chính/Chức Chiêm hậu/Chánh lục 
phẩm, Chiêm hậu lại ty thủ hợp/ 
Chánh thất phẩm, Thƣ lại/Chánh bát 
phẩm/Chánh cửu phẩm. 
Khâm Thiên giám có vai trò quan trọng 
đối với nhiều hoạt động trong cung 
đình cũng nhƣ hoạt động nông nghiệp 
ngoài dân gian đƣơng thời. Nhận thức 
rõ điều này, nên triều Nguyễn ngay từ 
đầu đã có những chính sách hết sức 
cụ thể đối với đội ngũ quan lại ở đây, 
nhằm tăng cƣờng tính hiệu quả trong 
* 
Trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Đà 
Nẵng. 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
38 
hoạt động chuyên môn của Khâm 
Thiên giám. Vậy, trên thực tế, các 
chính sách của vƣơng triều Nguyễn 
đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên 
giám đƣợc thể hiện nhƣ thế nào qua 
các triều vua Gia Long, Minh Mệnh, 
Thiệu Trị và Tự Đức? 
Trên cơ sở khai thác nguồn tƣ liệu gốc 
trong hai bộ sử Khâm định Đại Nam 
hội điển sự lệ và Đại Nam thực lục, bài 
viết tập trung làm rõ các vấn đề này 
nhằm đƣa ra cái nhìn đa chiều và toàn 
diện hơn về cơ quan Khâm Thiên 
giám triều Nguyễn. 
2. CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO TUYỂN 
CHỌN VÀ BỔ DỤNG QUAN LẠI 
KHÂM THIÊN GIÁM 
2.1. Đào tạo 
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của 
việc chế tác lịch pháp, nghiên cứu thiên 
văn, xem phong thủy, báo ngày giờ 
và yêu cầu cao về độ chính xác của 
những tính toán, suy đoán do Khâm 
Thiên giám đƣa ra, nên các hoàng đế 
triều Nguyễn đã đặc biệt chú trọng đến 
việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ quan 
lại có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh 
vực thiên văn, địa lý làm việc tại Khâm 
Thiên giám. Trên thực tế, ngoài vai trò 
là cơ quan đảm trách việc nghiên cứu 
thiên văn, lịch pháp của triều Nguyễn, 
Khâm Thiên giám còn là nơi đào tạo 
và cung cấp nguồn quan lại đảm bảo 
về chất lƣợng, để bổ dụng vào các 
chức danh quản lý và chuyên môn tại 
Khâm Thiên giám cũng nhƣ tại các ty 
Chiêm hậu địa phƣơng. 
Sử liệu triều Nguyễn ở giai đoạn Tự 
Đức, công việc đào tạo, bồi dƣỡng 
nguồn quan lại chuyên môn cho cơ 
quan này đã đƣợc triều đình quy định 
bằng văn bản và đƣợc tổ chức hết 
sức chặt chẽ, bài bản. Tự Đức năm 
thứ 9 (1856), tháng 12, hoàng đế cho 
“chuẩn định điều lệ khoa học của 
Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). Trong 
đó nói rõ tất cả những vấn đề liên 
quan đến việc đào tạo, bồi dƣỡng 
quan sinh tại cơ quan này. Cụ thể, phụ 
trách công tác giảng dạy là các chức 
danh Giám chính, Giám phó và Ngũ 
quan chính. Ngƣời học đƣợc chia ra 
làm hai đối tƣợng, ngoài những ngƣời 
đang làm việc trong Giám thực hiện 
việc học tập theo chế độ bắt buộc, thì 
còn có cả những ngƣời bên ngoài tình 
nguyện đến học và những ngƣời này 
đƣợc hƣởng chế độ ƣu đãi của triều 
đình. “Trừ ra những ngƣời ở Giám sau 
khi làm việc xong mới học tập thì 
không kể, ngoài ra có ngƣời nào xin 
tình nguyện học tập thì mỗi tháng cấp 
cho tiền 1 quan, gạo một phƣơng” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 7: 483). Chính sách trên nhằm, thu 
hút, khích lệ mọi nhân tài về thiên văn, 
địa lý tham gia học tập và làm việc cho 
Khâm Thiên giám. 
Về cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ việc 
giảng dạy và học tập, trong điều lệ 
khoa học của Khâm Thiên giám, triều 
đình cũng ban hành một khoản về việc 
“cấp thêm sách vở” và một khoản 
khác “làm thêm dãy nhà dài để làm 
nhà in, lấy nhà sảnh đƣờng của Giám 
ấy làm chỗ học tập” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
39 
Chƣơng trình đào tạo của Khâm Thiên 
giám đƣợc phân làm hai lĩnh vực: lịch 
pháp và thiên văn. Ở mỗi lĩnh vực đều 
quy định cụ thể về tổng thời gian đào 
tạo cũng nhƣ nội dung học tập qua 
từng năm. Đối với việc học tập biên 
soạn lịch pháp, thời gian đào tạo cả 
khóa là 3 năm. Trong đó, “năm đầu 
dạy phƣơng pháp suy tính lịch Hiệp 
kỷ; năm thứ nhì dạy phƣơng pháp lịch 
Thất chính; năm sau dạy phƣơng 
pháp suy tính nhật thực, nguyệt thực 
và ngày nên làm việc gì, ngày nên 
kiêng việc gì, nên bỏ nên thêm” (Quốc 
sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 
483). Đối với việc đào tạo thiên văn, 
thời gian học tập cũng là 3 năm. Trong 
đó, khác với phƣơng Tây, nghiên cứu 
rất nhiều vì tinh tú trong vũ trụ, việc 
giảng dạy thiên văn tại Khâm Thiên 
giám triều Nguyễn thời bấy giờ chỉ tập 
trung khảo sát rất kỹ các chòm sao có 
liên quan và ảnh hƣởng trực tiếp đến 
cuộc sống con ngƣời cũng nhƣ các 
hiện tƣợng thiên nhiên nhƣ mƣa, gió, 
bão... theo các mùa xuân, hạ, thu, 
đông, để phục vụ cho sản xuất nông 
nghiệp. Cụ thể, “năm đầu dạy về hình 
thể 28 vì sao (nhị thập bát tú) và 
những sao đi theo; năm thứ nhì dạy về 
khu vực của 3 sao Tử vi, Thiên thị, 
Thái vi; năm sau lấy chỗ đóng của 5 
sao, cùng là hình thể của các sao mà 
bản đồ của Trung và Tây hợp lại vẽ ra 
và những phần đất thuộc về 28 ngôi 
sao trên trời cốt đƣợc thuộc làu” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 7: 483). 
Nhƣ vậy, từ hai chƣơng trình giảng 
dạy trên, có thể thấy rằng, trong một 
thời gian không ngắn, việc học tập chỉ 
tập trung vào một số nội dung chuyên 
sâu về chế tác lịch pháp và quan trắc 
thiên văn. Điều đó cho thấy mục tiêu 
của triều đình là đào tạo ra những 
quan lại thực sự tinh thông trong các 
lĩnh vực này. Ngoài ra, để thúc đẩy và 
làm cho đội ngũ giảng dạy thiên văn, 
lịch pháp có trách nhiệm hơn trong 
việc đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài cho 
Khâm Thiên giám, triều đình cũng ban 
hành chính sách thƣởng phạt nghiêm 
minh đối với kết quả đào tạo của họ. 
Cụ thể, trong ba năm, “dạy đƣợc 1 
ngƣời thành tài, thì thƣởng cho kỷ lục 
2 thứ và 3 lạng bạc; đƣợc 2 ngƣời 
thành tài thƣởng cho gấp đôi; không 
đƣợc ngƣời nào phạt 6 tháng lƣơng” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 7: 483). 
2.2. Tuyển chọn và bổ dụng 
Đối với vấn đề tuyển chọn, bổ dụng 
quan lại tại Khâm Thiên giám, từ các 
nguồn sử liệu do Nội các cũng nhƣ 
Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép, 
có thể thấy rằng, hệ thống quan lại 
làm việc tại Khâm Thiên giám lúc bấy 
giờ về cơ bản đƣợc chia ra làm 2 bộ 
phận, đó là bộ phận lãnh đạo và bộ 
phận chuyên môn, giúp việc. Và ở mỗi 
bộ phận này, việc tuyển bổ quan lại 
của triều đình cũng có những nét đặc 
thù. 
Trên thực tế, công việc tại Khâm Thiên 
giám đƣơng thời đƣợc vận hành và 
duy trì dƣới sự điều khiển của hai 
chức danh lãnh đạo là Giám chính và 
Giám phó. Nhƣng đứng trên hết và 
chịu trách nhiệm cao nhất là một quan 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
40 
đại thần của triều đình, thƣờng giữ 
chức vụ chính thuộc một lĩnh vực khác 
và kiêm quản công việc tại Giám, cho 
nên sử cũ gọi là Kiêm quản Khâm 
Thiên giám sự vụ đại thần (兼管欽天監事
务大臣). Tiêu biểu nhƣ “Gia Long năm 
thứ 11 (1812), mùa thu, tháng 7, lấy 
Trịnh Hoài Đức làm thƣợng thƣ bộ Lễ, 
kiêm quản lý công việc Khâm Thiên 
giám” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2002, tập 1: 842); Minh Mệnh năm thứ 
18 (1837), mùa thu, tháng 7, nhà vua 
truyền “cho Trƣơng Đăng Quế, Hiệp 
biện Đại học sĩ lĩnh Thƣợng thƣ bộ 
Binh, kiêm quản Khâm Thiên giám” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 5: 135); hay Tự Đức năm thứ 10 
(1857), mùa xuân, tháng Giêng, nhà 
vua chuẩn bổ đại thần Trƣơng Quốc 
Dụng “làm Tả tham tri bộ Binh, sung 
làm Nhật Giảng quan ở Kinh diên kiêm 
coi Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 7: 486)... Việc 
chọn lựa và bổ nhiệm Kiêm quản đại 
thần do hoàng đế trực tiếp tiến hành 
và không có sự ấn định trƣớc. “Quản 
lý đại thần do vua đặc cách chọn bổ, 
không nhất định viên nào” (Nội các 
triều Nguyễn, 1993, tập 15: 444). 
Nhìn một cách tổng thể, do tính chất 
quan trọng của việc quan trắc thiên 
văn và các hiện tƣợng tự nhiên nên 
công việc quản lý cơ quan này gần 
nhƣ đƣợc giao phó cho các đại thần 
có uy tín và có kiến thức về lĩnh vực 
này, tiêu biểu nhƣ Đặng Đức Siêu, Lê 
Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Phạm 
Đăng Hƣng dƣới thời Gia Long; 
Nguyễn Hữu Thận, Hoàng Công 
Dƣơng, Phan Huy Thực, Nguyễn 
Danh Giáp, Nguyễn Đăng Tuân, 
Lƣơng Tiến Tƣờng, Nguyễn Khoa 
Minh, Hoàng Kim Xán, Trƣơng Minh 
Giảng, Lê Đăng Doanh, Trƣơng Đăng 
Quế dƣới thời Minh Mệnh và Thiệu 
Trị; Trƣơng Quốc Dụng, Trần Tiễn 
Thành, Nguyễn Văn Tƣờng dƣới thời 
Tự Đức(2). Và có thể nói tiêu chí hàng 
đầu để đƣợc bổ nhiệm các chức danh 
lãnh đạo Khâm Thiên giám là tài năng, 
đặc biệt là sự am hiểu về lĩnh vực 
thiên văn học và lịch pháp. Điển hình 
nhƣ Gia Long năm thứ 11 (1812), mùa 
xuân, tháng Giêng, nhà vua chọn bổ 
Tham tri Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận làm 
Phó quản lý Khâm Thiên giám, vì 
“Hữu Thận giỏi về sao và lịch, sang sứ 
nƣớc Thanh học đƣợc lịch pháp, thuật 
càng thêm tinh. Vua từng cùng bàn về 
thiên tƣợng, rất khen ngợi” (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 831). 
Hay Minh Mệnh năm thứ 3 (1822), 
mùa đông, tháng 11, hoàng đế truyền 
lệnh lấy Hàn lâm viện Kiểm thảo 
Nguyễn Danh Giáp bổ làm Giám phó 
Khâm Thiên giám, bởi “Giáp từng trình 
bày lịch pháp, xin theo Đại Thanh tinh 
lịch mà làm lịch „thất chính kinh vĩ‟ để 
xét nghiệm hành độ lấn phạm của 
năm vì sao, chép rõ sự thực vào sách 
sử để truyền cho đời sau. Lại xét phép 
cũ ở sách “Hiệp kỷ biện phƣơng” chế 
tạo trâu xuân ban hành trong nƣớc để 
chỉ rõ tiết làm ruộng sớm hay muộn. 
Lại làm theo phép hay của ngƣời xƣa, 
nặn con trâu đất để trừ khí rét. Vua 
khen bằng bổ cho chức ấy” (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 246). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
41 
Điều này cũng thể hiện sự trọng dụng 
nhân tài của triều đình trong lĩnh vực 
thiên văn, lịch pháp. 
Một số vị quan đƣợc bổ nhiệm và tái 
bổ nhiệm các chức danh quản lý 
Khâm Thiên giám không chỉ trong thời 
gian trị vì của một hoàng đế mà còn 
sang đến đời vua khác. Điển hình nhƣ 
trƣờng hợp đại thần Hoàng Công 
Dƣơng, ông đƣợc bổ nhiệm làm Giám 
chính Khâm Thiên giám vào năm Minh 
Mệnh thứ 4 (1823) (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 2: 290), sau 
đó tiếp tục nhiệm vụ này vào năm 
Minh Mệnh thứ 6 (1825) (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 406) 
và đến Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) ông 
lại đƣợc giao trọng trách quản lý công 
việc tại Khâm Thiên giám (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2006, tập 6: 278). 
Hay trƣờng hợp đại thần Trƣơng 
Đăng Quế, đƣợc giao nhiệm vụ quản 
lý Khâm Thiên giám dƣới thời Minh 
Mệnh (1837) (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2006, tập 5: 135) và đến thời 
Tự Đức vẫn tiếp tục nắm giữ công 
việc này có lẽ đến trƣớc năm 1857 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, 
tập 1: 15, 192, 203) Điều này cho 
thấy sự tin tƣởng của hoàng đế vào 
năng lực cũng nhƣ kinh nghiệm làm 
việc của họ. 
Ngoài việc quan tâm tuyển bổ các 
chức danh lãnh đạo, quản lý Khâm 
Thiên giám, triều đình Nguyễn cũng 
hết sức chú trọng đến việc lựa chọn 
nhân sự làm công tác chuyên môn 
trong Giám. Việc bổ dụng quan sinh 
vào các chức danh chuyên môn khác 
nhau tại Khâm Thiên giám nhƣ Ngũ 
quan chính, Linh đài lang, Vị nhập lƣu 
Thƣ lại, Chánh bát, cửu phẩm Thƣ 
lại... phụ thuộc vào năng lực chuyên 
môn của họ. Các sử liệu của triều 
Nguyễn cho thấy, nhân lực làm việc 
trong Khâm Thiên giám đƣợc tuyển 
chọn qua ba con đƣờng: 
Thứ nhất, lấy từ đội ngũ quan lại đƣợc 
đào tạo, bồi dƣỡng về thiên văn và 
lịch pháp tại Khâm Thiên giám. Sử liệu 
triều Nguyễn không đề cập đến tính 
hiệu quả của biện pháp này cũng nhƣ 
thống kê cụ thể về số lƣợng các quan 
sinh “thành tài” qua các khóa học tại 
Khâm Thiên giám. 
Thứ hai, tìm kiếm, thu hút những 
ngƣời am tƣờng thiên văn, địa lý cũng 
nhƣ cách tính toán, chế tác lịch pháp 
trong dân để đƣa về làm việc trong 
Khâm Thiên giám. Minh Mệnh năm 
thứ 16 (1835), nhà vua ra dụ: “Thiên 
văn vốn là việc huyền diệu, Khâm 
Thiên giám ở Kinh, ngƣời biết tinh 
tƣợng tuy chẳng thiếu, nhƣng ngƣời 
thực thông hiểu cũng ít” (Nội các triều 
Nguyễn, 1993, tập 15: 445). Vì vậy, 
“Cho bộ Lễ thông tƣ các tỉnh Bắc kì 
không cứ quân dân, nhƣ có ngƣời hơi 
biết chiêm nghiệm tinh tƣợng, suy xét 
mƣa gió, cùng thông hiểu lịch Thất 
chính, thì thƣợng ty đều cấp bằng cho 
tới Kinh để liệu bổ dụng” (Nội các triều 
Nguyễn, 1993, tập 15: 446). 
Thứ ba, lựa chọn, điều động những 
ngƣời tài giỏi làm việc tại ty Chiêm 
hậu các địa phƣơng về Kinh để bố trí, 
sắp xếp công việc tại Khâm Thiên 
giám. Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
42 
nhà vua ra lệnh truyền dụ cho Tổng 
đốc tỉnh Hà Nội: “Ty Chiêm hậu tỉnh 
Hà Nội Nguyễn Bá Đĩnh cũng biết tinh 
tƣợng. Vậy cho Tổng đốc tỉnh ấy là 
Đặng Văn Hòa xét ở ty ấy có ngƣời 
nào nhƣ Nguyễn Bá Đĩnh thì cấp bằng 
cả một thể cho đi ngựa trạm vào Kinh, 
đợi Chỉ vua cho cất lên bổ dụng” (Nội 
các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 445-
446). Cùng thời gian, dụ cũng đƣợc 
truyền cho Tuần phủ hai tỉnh Hải 
Dƣơng và Hƣng Yên: “Gần đây nghe 
nói Linh đài lang tỉnh Hải Dƣơng là 
Đinh Huy Thẩm, Linh đài lang tỉnh 
Hƣng Yên là Nguyễn Khắc Đạt cũng 
biết tinh tƣợng. Vậy cho tuần phủ hai 
tỉnh ấy là Nguyễn Công Trứ, Hà Thúc 
Lƣơng đều cấp bằng cho hai ngƣời ấy 
đi ngựa trạm vào Kinh đợi Chỉ cấp 
dùng” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 
15: 446). Năm sau (1835), Vị nhập lƣu 
Thƣ lại ty Chiêm hậu tỉnh Sơn Tây là 
Phùng Danh Cẩm cũng đƣợc điều 
động về Kinh làm việc tại Khâm Thiên 
giám (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 
15: 446). Công việc tuyển chọn ngƣời 
am hiểu lịch pháp, thiên văn tại các ty 
Chiêm hậu địa phƣơng về Kinh sƣ 
đảm nhận công việc trong Khâm Thiên 
giám vẫn tiếp tục đƣợc duy trì dƣới 
các triều vua sau. Điều đó cho thấy, 
đây là một trong những biện pháp chủ 
đạo để bổ sung nguồn nhân lực làm 
việc tại Khâm Thiên giám dƣới triều 
Nguyễn. 
Tuy nhiên, dù đƣợc tuyển chọn từ 
nguồn nào và bằng con đƣờng nào thì 
để đƣợc làm việc tại Khâm Thiên 
giám, các quan lại đƣợc tiến cử hoặc 
điều động từ ty Chiêm hậu các địa 
phƣơng cũng phải trải qua một kỳ sát 
hạch hết sức nghiêm túc và chặt chẽ 
về kiến thức lịch pháp, thiên văn, địa 
lý, khí tƣợng... Sử liệu triều Nguyễn 
còn ghi chép, Minh Mệnh năm thứ 16 
(1834), Linh đài lang tỉnh Hà Nội  ...  tội” (Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 744). 
Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), mùa thu, 
tháng 9, trƣớc việc Lễ bộ nhà Thanh 
có văn bản gửi sang nói rõ từng khắc, 
từng giờ xuất hiện nguyệt thực vào 
ngày 16 tháng 10, trong khi đó, quan 
lại Khâm Thiên giám lại tính toán 
không rõ ràng và cũng không làm tờ 
tấu tâu lên trƣớc, nhà vua truyền chỉ 
quở trách rất nghiêm: “Đặt chức Thái 
sử, là để suy tính lịch tƣợng, phàm độ 
số mặt trời mặt trăng, ngày khí doanh, 
ngày sóc hƣ, từng điều, từng điều suy 
xét cho rõ, tùy việc tâu lên, là đƣợc, 
thế mà phải đợi nhà Thanh tƣ báo rồi 
mới noi theo, thực là bỏ thiếu chức 
vụ!” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2006, tập 6: 533). 
Đến thời Tự Đức, nhân sự kiện ngày 
rằm tháng 7 năm 1859, Khâm Thiên 
giám không biết suy tính để đƣa ra 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
48 
nhận định chính xác và tâu trƣớc về 
nguyệt thực, nhà vua nhắc nhở: 
“Nguyệt thực có độ thƣờng, Giám thần 
nƣớc Thanh đã biết trƣớc. Bọn ngƣơi 
suy tính chƣa tinh, từ sau nên phải cố 
gắng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2006, tập 7: 625). 
Thứ hai, giáng chức, cách chức. Tháng 
4 năm 1825, để làm hài lòng vua, 
Khâm Thiên giám đƣa ra suy đoán 
thiếu căn cứ và không chính xác về 
hiện tƣợng sao Chổi xuất hiện trong 
thời gian khá lâu mà chƣa mất(5), Minh 
Mệnh một mặt quở trách các quan lại 
ở đây: “Chức phận Khâm thiên giám là 
chiêm nghiệm tƣợng trời mà từ lâu 
không thấy tâu việc gì, nay lại đặt lời 
nịnh hót nhƣ thế để mong đẹp lòng 
trẫm, chính nhƣ Khổng Tử bảo rằng: 
Ta dối ai? Dối trời ƣ? Trẫm xét kỹ 
sách sử các đời, chƣa thấy nói sao 
Chổi là điềm đƣợc mùa. Nếu cho sao 
Chổi là điềm hay thì sao sáng mây 
lành nên giải thích thế nào? Há cho 
trẫm là có thể nịnh hót trƣớc mặt đƣợc 
ƣ?” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 
2006, tập 2: 445); mặt khác xử phạt 
rất nặng các quan lại trong Giám. 
Theo đó, “Hoàng Công Dƣơng giáng 
làm Giám chính ở Khâm Thiên giám, 
lại cách lƣu (革留 : cách chức lƣu 
nhiệm - TG); Lê Văn Bảo, Lý Văn 
Tuấn đều cách lƣu” (Nội các triều 
Nguyễn, 1993, tập 15: 493). Minh 
Mệnh năm thứ 10 (1829), mùa xuân, 
tháng 3, nhân việc Hƣng miếu và Thế 
miếu sửa chữa xong, vua sai Khâm 
Thiên giám chọn ngày tốt để tiến hành 
lễ an thánh vị, nhƣng xảy ra sai sót về 
thời gian. Vua vô cùng tức giận xuống 
dụ nghiêm trách và giáng phạt quan lại 
trong Giám. Theo đó, đại thần Lê Tiến 
Tƣờng không đƣợc kiêm quản và cho 
Lê Đăng Doanh thay (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 2: 855). Tháng 
8 năm 1839, Giám chính Hoàng Công 
Dƣơng cùng với Tế tửu Lê Văn Luyện 
và Ngoại lang Đỗ Tuấn Đại trong khi đi 
ngắm một thế đất ở xứ Thuận Sơn 
đƣợc cho là “có sa, có thủy kín đáo rất 
đẹp” để vẽ thành bản đồ dâng lên và 
dời nhà vua tới xem, đã phát sinh 
tranh luận, không thống nhất trong 
việc đƣa ra nhận định về địa thế, 
phong thủy của vùng này, nhà vua 
không hài lòng, liền ra dụ quở trách: 
“Việc đó trọng đại biết chừng nào. Bọn 
Luyện, phận là thần tử, nếu biết đích 
là kiểu đất ấy chƣa hợp, sao không 
biện bạch phải trái ngay từ đầu, lại 
đến khi xong việc mới đặt ra những lời 
ngang ngửa. Chẳng biết có phải bọn 
chúng có sở kiến riêng biệt, xuất phát 
từ lòng công trung, một mình bè bác 
mọi ngƣời mà nói nhƣ vậy chăng?” 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 5: 549), đồng thời, hạ lệnh cho 
đình thần truy xét nguồn cơn và cách 
chức. Tân Tỵ, Tự Đức năm thứ 34 
(1881), ngày mồng 1 tháng 11 là tiết 
Đông chí, nhƣng trong lịch Hiệp Kỷ 
của triều Nguyễn lại tính toán không 
giống với lịch nhà Thanh, khi “lịch ta 
nói ngày mồng một là ngày Kỷ Sửu 
vào đầu giờ Tý 3 khắc 4 phân, mà lịch 
nƣớc Thanh nói ngày mồng 2 là ngày 
Canh Dần vào giữa giờ Tý 2 khắc 1 
phân”. Vua bèn cho hỏi Khâm Thiên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
49 
giám, những quan lại trong Giám đều 
tâu rằng cũng không đƣợc rõ vì sao có 
sự sai lệch đó. Trƣớc sự mơ hồ và 
thiếu trách nhiệm của họ, nhà vua truy 
vấn và xử phạt toàn bộ quan lại trong 
Giám: “Việc quan hệ đến tiết hậu điển 
lễ, chuyên giữ chức phận ở chỗ nào? 
Sai bộ Lễ xét nghĩ, quan ở Giám đều 
phải giáng” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2006, tập 8: 501). Dƣới thời 
Tự Đức, việc giáng chức, cách chức 
quan lại Khâm Thiên giám vẫn đƣợc 
các sử liệu ghi nhận, chủ yếu xuất 
phát từ việc suy tính thiếu chính xác, 
nên không thể dự báo trƣớc các hiện 
tƣợng nhật thực, nguyệt thực. Điển 
hình nhƣ ngày 1 tháng 11 năm 1852, 
nhật thực xuất hiện, nhƣng quan lại 
Khâm Thiên giám không quan trắc và 
báo trƣớc nên đều bị xử giáng chức 
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 7: 254). Tiếp đó, đến ngày rằm 
tháng 10 năm 1856 có nguyệt thực, 
tuy nhiên, Khâm Thiên giám lại không 
tâu trƣớc, “vua cho là suy tính không 
tinh, đều phải giáng phạt có thứ bậc 
khác nhau” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2006, tập 7: 473). 
Thứ ba, cắt tiền lƣơng, phạt đánh roi, 
trƣợng đối với quan lại Khâm Thiên 
giám. Tháng 4, Minh Mệnh năm thứ 8 
(1827), Khâm Thiên giám trong quá 
trình tính toán thời gian và đo đạc 
lƣợng mƣa ở Kinh sƣ xảy ra sai sót, 
nhà vua nổi giận khiển trách và trị tội 
rất nặng các quan trong Giám: “Trẫm 
thƣờng xét ngày tạnh so ngày mƣa để 
nghiệm xét việc làm ruộng. Bọn kia 
chức trách là chiêm nghiệm khí tiết mà 
vẫn giữ tính lƣời biếng, không một 
khắc nào để bụng. Đã nhiều lần dạy 
bảo, đến nay vẫn chểnh mảng nhƣ 
thế, tội dẫu nhẹ mà tình là cố ý, nếu 
cứ rộng tha thì lấy gì mà răn về sau? 
Bèn sai đóng gông Chiêm hậu ty là 
Hoàng Văn Thông ở đài Quan Tƣợng, 
đánh cho 100 côn son; Nguyễn Danh 
Giáp, Hoàng Công Dƣơng cùng thuộc 
 ty 26 ngƣời đều phân biệt đánh roi, 
đánh trƣợng. Sai biên những chỉ dụ 
trƣớc sau đem dán ở Khâm Thiên 
giám để răn” (Quốc sử quán triều 
Nguyễn, 2006, tập 2: 610). Tháng 5 
năm 1831, Minh Mệnh theo lệ của 
ngƣời xƣa, hạ lệnh cho Khâm Thiên 
giám đo lƣờng bóng mặt trời, cân đất 
và than để thí nghiệm vào ngày Hạ chí 
và Đông chí, sau đó đem kết quả tâu 
lên, nhƣng “bọn Giám chính Hoàng 
Công Dƣơng và Giám phó Đinh 
Xƣởng vẫn không tuân hành, nên đều 
sai phạt trƣợng cả, viên kiêm quản 
Khâm Thiên giám Nguyễn Khoa Minh 
thì phạt 6 tháng lƣơng” (Quốc sử quán 
triều Nguyễn, 2006, tập 3: 173). Đến 
tháng 6 cùng năm (1831), trong Kinh 
thành có mƣa, Minh Mệnh sai Khâm 
Thiên giám đo đạc lƣợng mƣa nhƣng 
kết quả không đƣợc rõ ràng, chính 
xác, vì vậy Giám chính Hoàng Công 
Dƣơng và Giám phó Đinh Xƣởng mỗi 
ngƣời lại bị phạt 6 tháng lƣơng (Quốc 
sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 3: 
186). 
5. KẾT LUẬN 
Khâm Thiên giám, một cơ quan 
chuyên môn trong bộ máy nhà nƣớc 
thời Nguyễn, phụ trách việc nghiên 
cứu thiên văn, lịch pháp, khí tƣợng 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
50 
thủy văn đến thế kỷ XIX đã đƣợc 
xây dựng và tổ chức tƣơng đối bài 
bản, quy củ. Nhận thức rõ tầm quan 
trọng của nó, các hoàng đế Nguyễn 
luôn thể hiện sự quan tâm trên nhiều 
phƣơng diện đối với cơ quan chuyên 
môn này. Trong đó, việc đào tạo, bồi 
dƣỡng, tuyển chọn, bổ dụng quan lại 
đảm nhận các nhiệm vụ tại đây, cũng 
nhƣ chế độ lƣơng bổng, thƣởng phạt 
là những vấn đề đƣợc triều đình đặc 
biệt chú trọng. Mặc dù chế độ lƣơng 
bổng đối với các quan lại Khâm Thiên 
giám đƣơng thời chƣa có tính đột phá 
hoặc một sự ƣu đãi đặc biệt nào, tuy 
nhiên, sự tiến bộ trong tƣ tƣởng “dụng 
nhân”, thể hiện ở việc coi trọng tài 
năng, trình độ chuyên môn của quan 
lại và lấy đó làm tiêu chí cao nhất 
trong việc lựa chọn, bổ nhiệm các 
chức vụ tại Khâm Thiên giám, cộng 
với một chế độ thƣởng phạt nghiêm 
minh đã giúp cho vƣơng triều Nguyễn 
xây dựng đƣợc một đội ngũ quan lại 
Khâm Thiên giám khá hoàn chỉnh. 
Trên thực tế, những chính sách đó 
không chỉ giúp triều Nguyễn quy tụ và 
sử dụng “hiền tài” về lĩnh vực thiên 
văn, lịch pháp thời bấy giờ, góp phần 
nâng cao hiệu quả công việc quan trắc 
tại Khâm Thiên giám, mà công tác 
tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng nhân 
tài từng đƣợc đặc biệt quan tâm trong 
xã hội phong kiến triều Nguyễn.  
CHÚ THÍCH
Nghiên cứu này đƣợc tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng 
trong đề tài mã số B2017-ĐN03-19. 
(1) 
Khâm Thiên giám tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử triều Nguyễn (1802-1945). Tuy nhiên, 
chỉ trong giai đoạn trị vì của Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, cơ quan này mới 
đƣợc xây dựng, tổ chức một cách bài bản, quy củ, nhận đƣợc sự quan tâm sâu sắc của các 
hoàng đế và thể hiện đƣợc vai trò to lớn đối với các hoạt động trong triều đình cũng nhƣ 
ngoài dân gian. Còn từ năm 1884 trở đi, khi triều đình Nguyễn nằm dƣới sự bảo hộ của 
ngƣời Pháp, đặc biệt đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi kiến thức thiên văn, lịch pháp, 
khí tƣợng thủy văn phƣơng Tây du nhập mạnh mẽ vào nƣớc ta cùng với công cuộc khai thác 
thuộc địa, thì chức năng của Khâm Thiên giám lúc này cũng chỉ còn gói gọn một số công 
việc nhƣ xem ngày giờ, hƣớng đất, sự quan tâm của triều đình đến những hoạt động tại 
đây cũng dần dần suy giảm. Trong khi đó, tƣ liệu triều Nguyễn ghi chép về Khâm Thiên giám 
từ sau năm 1884 cũng không còn phong phú nhƣ trƣớc. Chính vì điều này nên chúng tôi đã 
chọn nghiên cứu cơ quan này trong giai đoạn 1802-1883, khoảng thời gian nó đƣợc phát 
triển hoàn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức, chức năng cũng nhƣ vai trò của mình. 
(2) 
Trƣơng Anh Thuận, 2018, tổng hợp từ Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 699, 784, 
842, 940, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 184, 290, 465, 740, 777, 825, Quốc sử 
quán triều Nguyễn, 2006, tập 3: 20, 192, 244, 599, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 
135, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 486, 778, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, 
tập 9: 23. 
(3) 
“Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 600 quan, gạo 600 phƣơng, đồ mặc mùa xuân 70 quan; 
Tòng nhất phẩm, tiền gạo đều 360, đồ mặc mùa xuân 60 quan; Chánh nhị phẩm, tiền gạo 
đều 300, đồ mặc mùa xuân 50 quan; Tòng nhị phẩm, tiền gạo đều 150, đồ mặc mùa xuân 30 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
51 
quan; Chánh tam phẩm, tiền gạo đều 120, đồ mặc mùa xuân 20 quan; Tòng tam phẩm, tiền 
gạo đều 90, đồ mặc mùa xuân 16 quan; Chánh tứ phẩm, tiền gạo đều 60, đồ mặc mùa xuân 
10 quan; Tòng tứ phẩm, tiền gạo đều 50, đồ mặc mùa xuân 10 quan; Chánh ngũ phẩm, tiền 
gạo đều 35, đồ mặc mùa xuân 9 quan; Tòng ngũ phẩm, tiền gạo đều 30, đồ mặc mùa xuân 8 
quan; Chánh lục phẩm, tiền gạo đều 25, đồ mặc mùa xuân 7 quan; Tòng lục phẩm, tiền gạo 
đều 22, đồ mặc mùa xuân 6 quan; Chánh tòng thất phẩm, tiền gạo đều 20, đồ mặc mùa xuân 
5 quan; Chánh tòng bát phẩm, tiền gạo đều 18, đồ mặc mùa xuân 4 quan; Chánh tòng cửu 
phẩm, tiền gạo đều 16, đồ mặc mùa xuân 4 quan” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 
963-964). 
(4)
 Minh Mệnh năm thứ 20 (1839), vua định lƣơng bổng đồng niên và tiền xuân phục cho các 
quan viên nhƣ sau: “Chánh nhất phẩm: lệ trƣớc 600 quan tiền, 600 phƣơng gạo, nay định là 
400 quan tiền, 300 phƣơng gạo; Tòng nhất phẩm: lệ cũ 360 quan tiền, 300 phƣơng gạo, nay 
định là 300 quan tiền, 250 phƣơng gạo; Chánh nhị phẩm: lệ trƣớc 300 quan tiền, 360 
phƣơng gạo, nay định là 250 quan tiền, 200 phƣơng gạo; Tòng nhị phẩm: lệ trƣớc là 156 
quan tiền, 156 phƣơng gạo, nay định là 180 quan tiền, 150 phƣơng gạo; Chánh tam phẩm: 
lệ trƣớc 120 quan tiền, 120 phƣơng gạo, nay định là 150 quan tiền, 120 phƣơng gạo; Tòng 
tam phẩm: lệ trƣớc 90 quan tiền, 90 phƣơng gạo, nay định là 120 quan tiền, 90 phƣơng gạo; 
Chánh tứ phẩm: lệ trƣớc 60 quan tiền, 60 phƣơng gạo, nay định đổi là 80 quan tiền, 60 
phƣơng gạo; Tòng tứ phẩm: lệ trƣớc 50 quan tiền, 50 phƣơng gạo, nay định là 60 quan tiền, 
50 phƣơng gạo; Chánh ngũ phẩm: lệ trƣớc 35 quan tiền, 31 phƣơng gạo, nay định là 40 
quan tiền, 35 phƣơng gạo; Tòng ngũ phẩm: lệ trƣớc 30 quan tiền, 30 phƣơng gạo, nay định 
là 35 tiền, 30 phƣơng gạo; Chánh lục phẩm: lệ trƣớc 25 quan tiền, 25 phƣơng gạo, nay định 
là 30 quan tiền, 25 phƣơng gạo; Tòng lục phẩm: lệ trƣớc 22 quan tiền, 22 phƣơng gạo, nay 
định là 25 quan tiền, 22 phƣơng gạo; Chánh thất phẩm và Tòng thất phẩm: lệ trƣớc 20 quan 
tiền, 20 phƣơng gạo, nay định là 22 quan tiền, 20 phƣơng gạo; Chánh bát và Tòng bát phẩm: 
lệ trƣớc 18 quan tiền, 18 phƣơng gạo, nay định là 20 quan tiền, 18 phƣơng gạo; Chánh cửu, 
Tòng cửu phẩm: lệ trƣớc 16 quan tiền, 16 phƣơng gạo, nay định là 18 quan tiền, 18 phƣơng 
gạo” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 610-611). 
(5) 
Đại Nam thực lục ghi chép về sự kiện này nhƣ sau: “Ất Dậu, năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), 
mùa xuân, tháng 4, sao Chổi mọc lâu chƣa hết. Vua rất nghĩ về việc trời răn, bèn lánh nơi 
chính điện, giảm bớt đồ ăn, bỏ âm nhạc, sắc cho bộ Lễ tƣ đi các địa phƣơng khiến xét thấy 
việc gì thì cứ thực bỏ phong bì tâu lên. Một đêm vua đứng ở sân điện Võ Hiển xem sao mãi 
đến nửa canh một, nhƣng mây che không trông thấy, vua mới vào trong cung. Đến sớm vua 
ngự Tiện điện, triệu đình thần bảo rằng: “Trời xuống tai ƣơng, mình trẫm nên phải đƣơng lấy, 
chớ để trăm họ mắc phải vạ ấy. Trẫm thấy ngƣời xƣa gặp có thiên tai thì hay xuống chiếu 
cầu lời nói phải, nhân nghĩ rằng nhƣ trẫm có lỗi thì ngƣời đều thấy cả, mà bầy tôi hằng ngày 
ở tả hữu giúp trẫm đừng làm điều trái, vua tôi nhƣ ngƣời một nhà, không phải xuống chiếu 
làm gì. Vậy các quan lớn nhỏ đều nên đem những điều đã thấy nói hết chớ giấu, để giúp 
trẫm những điều chƣa nghĩ tới”. Vừa Khâm Thiên giám Hoàng Công Dƣơng dâng sớ nói: 
“Sách xƣa có nói: Sao Chổi mọc ở khoảng sao Vỵ sao Mão là có tai ƣơng. Lại nói: Mọc ở 
đông nam trở sang tây bắc thì trong nƣớc đƣợc mùa lớn. Xem lời nói phân vân, không lấy gì 
làm tin lắm”. Vua xem sớ, dụ rằng: “Tháng này sao Chổi mọc, sau khi trẫm trông thấy thì ăn 
ngủ không ngon; ở trong cung thì bớt đồ ăn, bỏ âm nhạc, ngày ra Tiện điện vời hỏi đại thần, 
nghĩ sâu về đạo sửa mình để ngăn tai vạ mà vẫn chƣa đƣợc. Vả trời đã tỏ ra tƣợng ấy, 
chính là để răn bảo ngƣời làm vua. Vậy ngƣời làm vua phải nên lo gắng sức thêm lên, sửa 
TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 
52 
đức để cảm động đến trời, mà ngƣời làm tôi cũng nên đem hết những điều mắt thấy tai nghe 
nói hết. Chức phận Khâm Thiên giám là chiêm nghiệm tƣợng trời mà từ lâu không thấy tâu 
việc gì, nay lại đặt lời nịnh hót nhƣ thế để mong đẹp lòng trẫm, chính nhƣ Khổng Tử bảo 
rằng: “Ta dối ai? Dối trời ƣ?”. Trẫm xét kỹ sách sử các đời, chƣa thấy nói sao Chổi là điềm 
đƣợc mùa. Nếu cho sao Chổi là điềm hay thì sao sáng mây lành nên giải thích thế nào? Há 
cho trẫm là có thể nịnh hót trƣớc mặt đƣợc ƣ?”. Bèn giao cho bộ Lại bàn xử. Bộ xin xử tội đồ. 
Đặc biệt giáng làm Giám chính Khâm Thiên giám, vẫn mang tội cách lƣu để làm việc. 
Thƣợng thƣ Nguyễn Hữu Thận cũng vì là quản lý Khâm Thiên giám mà bị phạt. Rồi sao Chổi 
dần dần mờ đi, đến đầu tháng 11 thì hết” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 444-445) 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Lê Thị Thanh Hòa. 1997. Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 
1802 đến 1884. Luận án tiến sĩ Sử học, Viện sử học. Hà Nội. 
2. Nội các triều Nguyễn. 1993. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 15. Huế: Nxb. 
Thuận Hóa. 
3. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục, tập 1. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
4. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam thực lục, tập 2 - 8. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_chinh_sach_cua_trieu_nguyen_doi_voi_doi_ngu_quan_lai.pdf