Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)
Từ năm 1802 đến năm 1883, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan chuyên môn của triều đình, trong đó có Khâm Thiên giám, triều Nguyễn đã hoạch định và triển khai thành công các chính sách phù hợp, thiết thực đối với đội ngũ quan lại. Từ nguồn tư liệu rời rạc, tản mạn trong các bộ sử lớn của triều Nguyễn, qua tổng hợp có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, ba chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, lương bổng và thưởng phạt đã được các hoàng đế triều Nguyễn áp dụng đối với các quan lại Khâm Thiên giám. Nghiên cứu dưới đây góp phần làm sáng tỏ nội dung của từng chính sách.
Bạn đang xem tài liệu "Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên Giám (1802-1883)
37 CHUYÊN MỤC SỬ HỌC-NHÂN HỌC-NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ QUAN LẠI KHÂM THIÊN GIÁM (1802-1883)(1) TRƯƠNG ANH THUẬN* Từ năm 1802 đến năm 1883, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan chuyên môn của triều đình, trong đó có Khâm Thiên giám, triều Nguyễn đã hoạch định và triển khai thành công các chính sách phù hợp, thiết thực đối với đội ngũ quan lại. Từ nguồn tư liệu rời rạc, tản mạn trong các bộ sử lớn của triều Nguyễn, qua tổng hợp có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, ba chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, lương bổng và thưởng phạt đã được các hoàng đế triều Nguyễn áp dụng đối với các quan lại Khâm Thiên giám. Nghiên cứu dưới đây góp phần làm sáng tỏ nội dung của từng chính sách. Từ khóa: Triều Nguyễn; quan lại; Khâm Thiên giám, lƣơng bổng, thƣởng phạt Nhận bài ngày: 29/7/2018; đưa vào biên tập: 6/11/2018; phản biện: 10/12/2018; duyệt đăng: 25/01/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khâm Thiên giám là cơ quan nghiên cứu thiên văn, lịch pháp của vƣơng triều Nguyễn. Cơ quan trực thuộc Khâm Thiên giám có Ty Chiêm hậu (1802-1820)/Ty Kính cẩn (1829)/Ty Khác cẩn (1834), và gồm các chức danh: Giám chính/Chánh ngũ phẩm, Giám phó/Tòng ngũ phẩm, Chiêm hậu/Tòng ngũ phẩm, Linh đài lang/Chánh thất phẩm, Ngũ quan chính/Chức Chiêm hậu/Chánh lục phẩm, Chiêm hậu lại ty thủ hợp/ Chánh thất phẩm, Thƣ lại/Chánh bát phẩm/Chánh cửu phẩm. Khâm Thiên giám có vai trò quan trọng đối với nhiều hoạt động trong cung đình cũng nhƣ hoạt động nông nghiệp ngoài dân gian đƣơng thời. Nhận thức rõ điều này, nên triều Nguyễn ngay từ đầu đã có những chính sách hết sức cụ thể đối với đội ngũ quan lại ở đây, nhằm tăng cƣờng tính hiệu quả trong * Trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Đà Nẵng. TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 38 hoạt động chuyên môn của Khâm Thiên giám. Vậy, trên thực tế, các chính sách của vƣơng triều Nguyễn đối với đội ngũ quan lại Khâm Thiên giám đƣợc thể hiện nhƣ thế nào qua các triều vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức? Trên cơ sở khai thác nguồn tƣ liệu gốc trong hai bộ sử Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Đại Nam thực lục, bài viết tập trung làm rõ các vấn đề này nhằm đƣa ra cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn về cơ quan Khâm Thiên giám triều Nguyễn. 2. CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO TUYỂN CHỌN VÀ BỔ DỤNG QUAN LẠI KHÂM THIÊN GIÁM 2.1. Đào tạo Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc chế tác lịch pháp, nghiên cứu thiên văn, xem phong thủy, báo ngày giờ và yêu cầu cao về độ chính xác của những tính toán, suy đoán do Khâm Thiên giám đƣa ra, nên các hoàng đế triều Nguyễn đã đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ quan lại có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực thiên văn, địa lý làm việc tại Khâm Thiên giám. Trên thực tế, ngoài vai trò là cơ quan đảm trách việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp của triều Nguyễn, Khâm Thiên giám còn là nơi đào tạo và cung cấp nguồn quan lại đảm bảo về chất lƣợng, để bổ dụng vào các chức danh quản lý và chuyên môn tại Khâm Thiên giám cũng nhƣ tại các ty Chiêm hậu địa phƣơng. Sử liệu triều Nguyễn ở giai đoạn Tự Đức, công việc đào tạo, bồi dƣỡng nguồn quan lại chuyên môn cho cơ quan này đã đƣợc triều đình quy định bằng văn bản và đƣợc tổ chức hết sức chặt chẽ, bài bản. Tự Đức năm thứ 9 (1856), tháng 12, hoàng đế cho “chuẩn định điều lệ khoa học của Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). Trong đó nói rõ tất cả những vấn đề liên quan đến việc đào tạo, bồi dƣỡng quan sinh tại cơ quan này. Cụ thể, phụ trách công tác giảng dạy là các chức danh Giám chính, Giám phó và Ngũ quan chính. Ngƣời học đƣợc chia ra làm hai đối tƣợng, ngoài những ngƣời đang làm việc trong Giám thực hiện việc học tập theo chế độ bắt buộc, thì còn có cả những ngƣời bên ngoài tình nguyện đến học và những ngƣời này đƣợc hƣởng chế độ ƣu đãi của triều đình. “Trừ ra những ngƣời ở Giám sau khi làm việc xong mới học tập thì không kể, ngoài ra có ngƣời nào xin tình nguyện học tập thì mỗi tháng cấp cho tiền 1 quan, gạo một phƣơng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). Chính sách trên nhằm, thu hút, khích lệ mọi nhân tài về thiên văn, địa lý tham gia học tập và làm việc cho Khâm Thiên giám. Về cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ việc giảng dạy và học tập, trong điều lệ khoa học của Khâm Thiên giám, triều đình cũng ban hành một khoản về việc “cấp thêm sách vở” và một khoản khác “làm thêm dãy nhà dài để làm nhà in, lấy nhà sảnh đƣờng của Giám ấy làm chỗ học tập” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 39 Chƣơng trình đào tạo của Khâm Thiên giám đƣợc phân làm hai lĩnh vực: lịch pháp và thiên văn. Ở mỗi lĩnh vực đều quy định cụ thể về tổng thời gian đào tạo cũng nhƣ nội dung học tập qua từng năm. Đối với việc học tập biên soạn lịch pháp, thời gian đào tạo cả khóa là 3 năm. Trong đó, “năm đầu dạy phƣơng pháp suy tính lịch Hiệp kỷ; năm thứ nhì dạy phƣơng pháp lịch Thất chính; năm sau dạy phƣơng pháp suy tính nhật thực, nguyệt thực và ngày nên làm việc gì, ngày nên kiêng việc gì, nên bỏ nên thêm” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). Đối với việc đào tạo thiên văn, thời gian học tập cũng là 3 năm. Trong đó, khác với phƣơng Tây, nghiên cứu rất nhiều vì tinh tú trong vũ trụ, việc giảng dạy thiên văn tại Khâm Thiên giám triều Nguyễn thời bấy giờ chỉ tập trung khảo sát rất kỹ các chòm sao có liên quan và ảnh hƣởng trực tiếp đến cuộc sống con ngƣời cũng nhƣ các hiện tƣợng thiên nhiên nhƣ mƣa, gió, bão... theo các mùa xuân, hạ, thu, đông, để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, “năm đầu dạy về hình thể 28 vì sao (nhị thập bát tú) và những sao đi theo; năm thứ nhì dạy về khu vực của 3 sao Tử vi, Thiên thị, Thái vi; năm sau lấy chỗ đóng của 5 sao, cùng là hình thể của các sao mà bản đồ của Trung và Tây hợp lại vẽ ra và những phần đất thuộc về 28 ngôi sao trên trời cốt đƣợc thuộc làu” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). Nhƣ vậy, từ hai chƣơng trình giảng dạy trên, có thể thấy rằng, trong một thời gian không ngắn, việc học tập chỉ tập trung vào một số nội dung chuyên sâu về chế tác lịch pháp và quan trắc thiên văn. Điều đó cho thấy mục tiêu của triều đình là đào tạo ra những quan lại thực sự tinh thông trong các lĩnh vực này. Ngoài ra, để thúc đẩy và làm cho đội ngũ giảng dạy thiên văn, lịch pháp có trách nhiệm hơn trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài cho Khâm Thiên giám, triều đình cũng ban hành chính sách thƣởng phạt nghiêm minh đối với kết quả đào tạo của họ. Cụ thể, trong ba năm, “dạy đƣợc 1 ngƣời thành tài, thì thƣởng cho kỷ lục 2 thứ và 3 lạng bạc; đƣợc 2 ngƣời thành tài thƣởng cho gấp đôi; không đƣợc ngƣời nào phạt 6 tháng lƣơng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 483). 2.2. Tuyển chọn và bổ dụng Đối với vấn đề tuyển chọn, bổ dụng quan lại tại Khâm Thiên giám, từ các nguồn sử liệu do Nội các cũng nhƣ Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép, có thể thấy rằng, hệ thống quan lại làm việc tại Khâm Thiên giám lúc bấy giờ về cơ bản đƣợc chia ra làm 2 bộ phận, đó là bộ phận lãnh đạo và bộ phận chuyên môn, giúp việc. Và ở mỗi bộ phận này, việc tuyển bổ quan lại của triều đình cũng có những nét đặc thù. Trên thực tế, công việc tại Khâm Thiên giám đƣơng thời đƣợc vận hành và duy trì dƣới sự điều khiển của hai chức danh lãnh đạo là Giám chính và Giám phó. Nhƣng đứng trên hết và chịu trách nhiệm cao nhất là một quan TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 40 đại thần của triều đình, thƣờng giữ chức vụ chính thuộc một lĩnh vực khác và kiêm quản công việc tại Giám, cho nên sử cũ gọi là Kiêm quản Khâm Thiên giám sự vụ đại thần (兼管欽天監事 务大臣). Tiêu biểu nhƣ “Gia Long năm thứ 11 (1812), mùa thu, tháng 7, lấy Trịnh Hoài Đức làm thƣợng thƣ bộ Lễ, kiêm quản lý công việc Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 842); Minh Mệnh năm thứ 18 (1837), mùa thu, tháng 7, nhà vua truyền “cho Trƣơng Đăng Quế, Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Thƣợng thƣ bộ Binh, kiêm quản Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 135); hay Tự Đức năm thứ 10 (1857), mùa xuân, tháng Giêng, nhà vua chuẩn bổ đại thần Trƣơng Quốc Dụng “làm Tả tham tri bộ Binh, sung làm Nhật Giảng quan ở Kinh diên kiêm coi Khâm Thiên giám” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 486)... Việc chọn lựa và bổ nhiệm Kiêm quản đại thần do hoàng đế trực tiếp tiến hành và không có sự ấn định trƣớc. “Quản lý đại thần do vua đặc cách chọn bổ, không nhất định viên nào” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 444). Nhìn một cách tổng thể, do tính chất quan trọng của việc quan trắc thiên văn và các hiện tƣợng tự nhiên nên công việc quản lý cơ quan này gần nhƣ đƣợc giao phó cho các đại thần có uy tín và có kiến thức về lĩnh vực này, tiêu biểu nhƣ Đặng Đức Siêu, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hƣng dƣới thời Gia Long; Nguyễn Hữu Thận, Hoàng Công Dƣơng, Phan Huy Thực, Nguyễn Danh Giáp, Nguyễn Đăng Tuân, Lƣơng Tiến Tƣờng, Nguyễn Khoa Minh, Hoàng Kim Xán, Trƣơng Minh Giảng, Lê Đăng Doanh, Trƣơng Đăng Quế dƣới thời Minh Mệnh và Thiệu Trị; Trƣơng Quốc Dụng, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tƣờng dƣới thời Tự Đức(2). Và có thể nói tiêu chí hàng đầu để đƣợc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo Khâm Thiên giám là tài năng, đặc biệt là sự am hiểu về lĩnh vực thiên văn học và lịch pháp. Điển hình nhƣ Gia Long năm thứ 11 (1812), mùa xuân, tháng Giêng, nhà vua chọn bổ Tham tri Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận làm Phó quản lý Khâm Thiên giám, vì “Hữu Thận giỏi về sao và lịch, sang sứ nƣớc Thanh học đƣợc lịch pháp, thuật càng thêm tinh. Vua từng cùng bàn về thiên tƣợng, rất khen ngợi” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 831). Hay Minh Mệnh năm thứ 3 (1822), mùa đông, tháng 11, hoàng đế truyền lệnh lấy Hàn lâm viện Kiểm thảo Nguyễn Danh Giáp bổ làm Giám phó Khâm Thiên giám, bởi “Giáp từng trình bày lịch pháp, xin theo Đại Thanh tinh lịch mà làm lịch „thất chính kinh vĩ‟ để xét nghiệm hành độ lấn phạm của năm vì sao, chép rõ sự thực vào sách sử để truyền cho đời sau. Lại xét phép cũ ở sách “Hiệp kỷ biện phƣơng” chế tạo trâu xuân ban hành trong nƣớc để chỉ rõ tiết làm ruộng sớm hay muộn. Lại làm theo phép hay của ngƣời xƣa, nặn con trâu đất để trừ khí rét. Vua khen bằng bổ cho chức ấy” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 246). TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 41 Điều này cũng thể hiện sự trọng dụng nhân tài của triều đình trong lĩnh vực thiên văn, lịch pháp. Một số vị quan đƣợc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm các chức danh quản lý Khâm Thiên giám không chỉ trong thời gian trị vì của một hoàng đế mà còn sang đến đời vua khác. Điển hình nhƣ trƣờng hợp đại thần Hoàng Công Dƣơng, ông đƣợc bổ nhiệm làm Giám chính Khâm Thiên giám vào năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 290), sau đó tiếp tục nhiệm vụ này vào năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 406) và đến Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) ông lại đƣợc giao trọng trách quản lý công việc tại Khâm Thiên giám (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 6: 278). Hay trƣờng hợp đại thần Trƣơng Đăng Quế, đƣợc giao nhiệm vụ quản lý Khâm Thiên giám dƣới thời Minh Mệnh (1837) (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 135) và đến thời Tự Đức vẫn tiếp tục nắm giữ công việc này có lẽ đến trƣớc năm 1857 (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 15, 192, 203) Điều này cho thấy sự tin tƣởng của hoàng đế vào năng lực cũng nhƣ kinh nghiệm làm việc của họ. Ngoài việc quan tâm tuyển bổ các chức danh lãnh đạo, quản lý Khâm Thiên giám, triều đình Nguyễn cũng hết sức chú trọng đến việc lựa chọn nhân sự làm công tác chuyên môn trong Giám. Việc bổ dụng quan sinh vào các chức danh chuyên môn khác nhau tại Khâm Thiên giám nhƣ Ngũ quan chính, Linh đài lang, Vị nhập lƣu Thƣ lại, Chánh bát, cửu phẩm Thƣ lại... phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của họ. Các sử liệu của triều Nguyễn cho thấy, nhân lực làm việc trong Khâm Thiên giám đƣợc tuyển chọn qua ba con đƣờng: Thứ nhất, lấy từ đội ngũ quan lại đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng về thiên văn và lịch pháp tại Khâm Thiên giám. Sử liệu triều Nguyễn không đề cập đến tính hiệu quả của biện pháp này cũng nhƣ thống kê cụ thể về số lƣợng các quan sinh “thành tài” qua các khóa học tại Khâm Thiên giám. Thứ hai, tìm kiếm, thu hút những ngƣời am tƣờng thiên văn, địa lý cũng nhƣ cách tính toán, chế tác lịch pháp trong dân để đƣa về làm việc trong Khâm Thiên giám. Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), nhà vua ra dụ: “Thiên văn vốn là việc huyền diệu, Khâm Thiên giám ở Kinh, ngƣời biết tinh tƣợng tuy chẳng thiếu, nhƣng ngƣời thực thông hiểu cũng ít” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 445). Vì vậy, “Cho bộ Lễ thông tƣ các tỉnh Bắc kì không cứ quân dân, nhƣ có ngƣời hơi biết chiêm nghiệm tinh tƣợng, suy xét mƣa gió, cùng thông hiểu lịch Thất chính, thì thƣợng ty đều cấp bằng cho tới Kinh để liệu bổ dụng” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 446). Thứ ba, lựa chọn, điều động những ngƣời tài giỏi làm việc tại ty Chiêm hậu các địa phƣơng về Kinh để bố trí, sắp xếp công việc tại Khâm Thiên giám. Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 42 nhà vua ra lệnh truyền dụ cho Tổng đốc tỉnh Hà Nội: “Ty Chiêm hậu tỉnh Hà Nội Nguyễn Bá Đĩnh cũng biết tinh tƣợng. Vậy cho Tổng đốc tỉnh ấy là Đặng Văn Hòa xét ở ty ấy có ngƣời nào nhƣ Nguyễn Bá Đĩnh thì cấp bằng cả một thể cho đi ngựa trạm vào Kinh, đợi Chỉ vua cho cất lên bổ dụng” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 445- 446). Cùng thời gian, dụ cũng đƣợc truyền cho Tuần phủ hai tỉnh Hải Dƣơng và Hƣng Yên: “Gần đây nghe nói Linh đài lang tỉnh Hải Dƣơng là Đinh Huy Thẩm, Linh đài lang tỉnh Hƣng Yên là Nguyễn Khắc Đạt cũng biết tinh tƣợng. Vậy cho tuần phủ hai tỉnh ấy là Nguyễn Công Trứ, Hà Thúc Lƣơng đều cấp bằng cho hai ngƣời ấy đi ngựa trạm vào Kinh đợi Chỉ cấp dùng” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 446). Năm sau (1835), Vị nhập lƣu Thƣ lại ty Chiêm hậu tỉnh Sơn Tây là Phùng Danh Cẩm cũng đƣợc điều động về Kinh làm việc tại Khâm Thiên giám (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 446). Công việc tuyển chọn ngƣời am hiểu lịch pháp, thiên văn tại các ty Chiêm hậu địa phƣơng về Kinh sƣ đảm nhận công việc trong Khâm Thiên giám vẫn tiếp tục đƣợc duy trì dƣới các triều vua sau. Điều đó cho thấy, đây là một trong những biện pháp chủ đạo để bổ sung nguồn nhân lực làm việc tại Khâm Thiên giám dƣới triều Nguyễn. Tuy nhiên, dù đƣợc tuyển chọn từ nguồn nào và bằng con đƣờng nào thì để đƣợc làm việc tại Khâm Thiên giám, các quan lại đƣợc tiến cử hoặc điều động từ ty Chiêm hậu các địa phƣơng cũng phải trải qua một kỳ sát hạch hết sức nghiêm túc và chặt chẽ về kiến thức lịch pháp, thiên văn, địa lý, khí tƣợng... Sử liệu triều Nguyễn còn ghi chép, Minh Mệnh năm thứ 16 (1834), Linh đài lang tỉnh Hà Nội ... tội” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 744). Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), mùa thu, tháng 9, trƣớc việc Lễ bộ nhà Thanh có văn bản gửi sang nói rõ từng khắc, từng giờ xuất hiện nguyệt thực vào ngày 16 tháng 10, trong khi đó, quan lại Khâm Thiên giám lại tính toán không rõ ràng và cũng không làm tờ tấu tâu lên trƣớc, nhà vua truyền chỉ quở trách rất nghiêm: “Đặt chức Thái sử, là để suy tính lịch tƣợng, phàm độ số mặt trời mặt trăng, ngày khí doanh, ngày sóc hƣ, từng điều, từng điều suy xét cho rõ, tùy việc tâu lên, là đƣợc, thế mà phải đợi nhà Thanh tƣ báo rồi mới noi theo, thực là bỏ thiếu chức vụ!” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 6: 533). Đến thời Tự Đức, nhân sự kiện ngày rằm tháng 7 năm 1859, Khâm Thiên giám không biết suy tính để đƣa ra TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 48 nhận định chính xác và tâu trƣớc về nguyệt thực, nhà vua nhắc nhở: “Nguyệt thực có độ thƣờng, Giám thần nƣớc Thanh đã biết trƣớc. Bọn ngƣơi suy tính chƣa tinh, từ sau nên phải cố gắng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 625). Thứ hai, giáng chức, cách chức. Tháng 4 năm 1825, để làm hài lòng vua, Khâm Thiên giám đƣa ra suy đoán thiếu căn cứ và không chính xác về hiện tƣợng sao Chổi xuất hiện trong thời gian khá lâu mà chƣa mất(5), Minh Mệnh một mặt quở trách các quan lại ở đây: “Chức phận Khâm thiên giám là chiêm nghiệm tƣợng trời mà từ lâu không thấy tâu việc gì, nay lại đặt lời nịnh hót nhƣ thế để mong đẹp lòng trẫm, chính nhƣ Khổng Tử bảo rằng: Ta dối ai? Dối trời ƣ? Trẫm xét kỹ sách sử các đời, chƣa thấy nói sao Chổi là điềm đƣợc mùa. Nếu cho sao Chổi là điềm hay thì sao sáng mây lành nên giải thích thế nào? Há cho trẫm là có thể nịnh hót trƣớc mặt đƣợc ƣ?” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 445); mặt khác xử phạt rất nặng các quan lại trong Giám. Theo đó, “Hoàng Công Dƣơng giáng làm Giám chính ở Khâm Thiên giám, lại cách lƣu (革留 : cách chức lƣu nhiệm - TG); Lê Văn Bảo, Lý Văn Tuấn đều cách lƣu” (Nội các triều Nguyễn, 1993, tập 15: 493). Minh Mệnh năm thứ 10 (1829), mùa xuân, tháng 3, nhân việc Hƣng miếu và Thế miếu sửa chữa xong, vua sai Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để tiến hành lễ an thánh vị, nhƣng xảy ra sai sót về thời gian. Vua vô cùng tức giận xuống dụ nghiêm trách và giáng phạt quan lại trong Giám. Theo đó, đại thần Lê Tiến Tƣờng không đƣợc kiêm quản và cho Lê Đăng Doanh thay (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 855). Tháng 8 năm 1839, Giám chính Hoàng Công Dƣơng cùng với Tế tửu Lê Văn Luyện và Ngoại lang Đỗ Tuấn Đại trong khi đi ngắm một thế đất ở xứ Thuận Sơn đƣợc cho là “có sa, có thủy kín đáo rất đẹp” để vẽ thành bản đồ dâng lên và dời nhà vua tới xem, đã phát sinh tranh luận, không thống nhất trong việc đƣa ra nhận định về địa thế, phong thủy của vùng này, nhà vua không hài lòng, liền ra dụ quở trách: “Việc đó trọng đại biết chừng nào. Bọn Luyện, phận là thần tử, nếu biết đích là kiểu đất ấy chƣa hợp, sao không biện bạch phải trái ngay từ đầu, lại đến khi xong việc mới đặt ra những lời ngang ngửa. Chẳng biết có phải bọn chúng có sở kiến riêng biệt, xuất phát từ lòng công trung, một mình bè bác mọi ngƣời mà nói nhƣ vậy chăng?” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 549), đồng thời, hạ lệnh cho đình thần truy xét nguồn cơn và cách chức. Tân Tỵ, Tự Đức năm thứ 34 (1881), ngày mồng 1 tháng 11 là tiết Đông chí, nhƣng trong lịch Hiệp Kỷ của triều Nguyễn lại tính toán không giống với lịch nhà Thanh, khi “lịch ta nói ngày mồng một là ngày Kỷ Sửu vào đầu giờ Tý 3 khắc 4 phân, mà lịch nƣớc Thanh nói ngày mồng 2 là ngày Canh Dần vào giữa giờ Tý 2 khắc 1 phân”. Vua bèn cho hỏi Khâm Thiên TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 49 giám, những quan lại trong Giám đều tâu rằng cũng không đƣợc rõ vì sao có sự sai lệch đó. Trƣớc sự mơ hồ và thiếu trách nhiệm của họ, nhà vua truy vấn và xử phạt toàn bộ quan lại trong Giám: “Việc quan hệ đến tiết hậu điển lễ, chuyên giữ chức phận ở chỗ nào? Sai bộ Lễ xét nghĩ, quan ở Giám đều phải giáng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 8: 501). Dƣới thời Tự Đức, việc giáng chức, cách chức quan lại Khâm Thiên giám vẫn đƣợc các sử liệu ghi nhận, chủ yếu xuất phát từ việc suy tính thiếu chính xác, nên không thể dự báo trƣớc các hiện tƣợng nhật thực, nguyệt thực. Điển hình nhƣ ngày 1 tháng 11 năm 1852, nhật thực xuất hiện, nhƣng quan lại Khâm Thiên giám không quan trắc và báo trƣớc nên đều bị xử giáng chức (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 254). Tiếp đó, đến ngày rằm tháng 10 năm 1856 có nguyệt thực, tuy nhiên, Khâm Thiên giám lại không tâu trƣớc, “vua cho là suy tính không tinh, đều phải giáng phạt có thứ bậc khác nhau” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 473). Thứ ba, cắt tiền lƣơng, phạt đánh roi, trƣợng đối với quan lại Khâm Thiên giám. Tháng 4, Minh Mệnh năm thứ 8 (1827), Khâm Thiên giám trong quá trình tính toán thời gian và đo đạc lƣợng mƣa ở Kinh sƣ xảy ra sai sót, nhà vua nổi giận khiển trách và trị tội rất nặng các quan trong Giám: “Trẫm thƣờng xét ngày tạnh so ngày mƣa để nghiệm xét việc làm ruộng. Bọn kia chức trách là chiêm nghiệm khí tiết mà vẫn giữ tính lƣời biếng, không một khắc nào để bụng. Đã nhiều lần dạy bảo, đến nay vẫn chểnh mảng nhƣ thế, tội dẫu nhẹ mà tình là cố ý, nếu cứ rộng tha thì lấy gì mà răn về sau? Bèn sai đóng gông Chiêm hậu ty là Hoàng Văn Thông ở đài Quan Tƣợng, đánh cho 100 côn son; Nguyễn Danh Giáp, Hoàng Công Dƣơng cùng thuộc ty 26 ngƣời đều phân biệt đánh roi, đánh trƣợng. Sai biên những chỉ dụ trƣớc sau đem dán ở Khâm Thiên giám để răn” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 610). Tháng 5 năm 1831, Minh Mệnh theo lệ của ngƣời xƣa, hạ lệnh cho Khâm Thiên giám đo lƣờng bóng mặt trời, cân đất và than để thí nghiệm vào ngày Hạ chí và Đông chí, sau đó đem kết quả tâu lên, nhƣng “bọn Giám chính Hoàng Công Dƣơng và Giám phó Đinh Xƣởng vẫn không tuân hành, nên đều sai phạt trƣợng cả, viên kiêm quản Khâm Thiên giám Nguyễn Khoa Minh thì phạt 6 tháng lƣơng” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 3: 173). Đến tháng 6 cùng năm (1831), trong Kinh thành có mƣa, Minh Mệnh sai Khâm Thiên giám đo đạc lƣợng mƣa nhƣng kết quả không đƣợc rõ ràng, chính xác, vì vậy Giám chính Hoàng Công Dƣơng và Giám phó Đinh Xƣởng mỗi ngƣời lại bị phạt 6 tháng lƣơng (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 3: 186). 5. KẾT LUẬN Khâm Thiên giám, một cơ quan chuyên môn trong bộ máy nhà nƣớc thời Nguyễn, phụ trách việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp, khí tƣợng TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 50 thủy văn đến thế kỷ XIX đã đƣợc xây dựng và tổ chức tƣơng đối bài bản, quy củ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nó, các hoàng đế Nguyễn luôn thể hiện sự quan tâm trên nhiều phƣơng diện đối với cơ quan chuyên môn này. Trong đó, việc đào tạo, bồi dƣỡng, tuyển chọn, bổ dụng quan lại đảm nhận các nhiệm vụ tại đây, cũng nhƣ chế độ lƣơng bổng, thƣởng phạt là những vấn đề đƣợc triều đình đặc biệt chú trọng. Mặc dù chế độ lƣơng bổng đối với các quan lại Khâm Thiên giám đƣơng thời chƣa có tính đột phá hoặc một sự ƣu đãi đặc biệt nào, tuy nhiên, sự tiến bộ trong tƣ tƣởng “dụng nhân”, thể hiện ở việc coi trọng tài năng, trình độ chuyên môn của quan lại và lấy đó làm tiêu chí cao nhất trong việc lựa chọn, bổ nhiệm các chức vụ tại Khâm Thiên giám, cộng với một chế độ thƣởng phạt nghiêm minh đã giúp cho vƣơng triều Nguyễn xây dựng đƣợc một đội ngũ quan lại Khâm Thiên giám khá hoàn chỉnh. Trên thực tế, những chính sách đó không chỉ giúp triều Nguyễn quy tụ và sử dụng “hiền tài” về lĩnh vực thiên văn, lịch pháp thời bấy giờ, góp phần nâng cao hiệu quả công việc quan trắc tại Khâm Thiên giám, mà công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng nhân tài từng đƣợc đặc biệt quan tâm trong xã hội phong kiến triều Nguyễn. CHÚ THÍCH Nghiên cứu này đƣợc tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng trong đề tài mã số B2017-ĐN03-19. (1) Khâm Thiên giám tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử triều Nguyễn (1802-1945). Tuy nhiên, chỉ trong giai đoạn trị vì của Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, cơ quan này mới đƣợc xây dựng, tổ chức một cách bài bản, quy củ, nhận đƣợc sự quan tâm sâu sắc của các hoàng đế và thể hiện đƣợc vai trò to lớn đối với các hoạt động trong triều đình cũng nhƣ ngoài dân gian. Còn từ năm 1884 trở đi, khi triều đình Nguyễn nằm dƣới sự bảo hộ của ngƣời Pháp, đặc biệt đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi kiến thức thiên văn, lịch pháp, khí tƣợng thủy văn phƣơng Tây du nhập mạnh mẽ vào nƣớc ta cùng với công cuộc khai thác thuộc địa, thì chức năng của Khâm Thiên giám lúc này cũng chỉ còn gói gọn một số công việc nhƣ xem ngày giờ, hƣớng đất, sự quan tâm của triều đình đến những hoạt động tại đây cũng dần dần suy giảm. Trong khi đó, tƣ liệu triều Nguyễn ghi chép về Khâm Thiên giám từ sau năm 1884 cũng không còn phong phú nhƣ trƣớc. Chính vì điều này nên chúng tôi đã chọn nghiên cứu cơ quan này trong giai đoạn 1802-1883, khoảng thời gian nó đƣợc phát triển hoàn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức, chức năng cũng nhƣ vai trò của mình. (2) Trƣơng Anh Thuận, 2018, tổng hợp từ Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 699, 784, 842, 940, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 184, 290, 465, 740, 777, 825, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 3: 20, 192, 244, 599, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 135, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 7: 486, 778, Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 9: 23. (3) “Chánh nhất phẩm, hằng năm tiền 600 quan, gạo 600 phƣơng, đồ mặc mùa xuân 70 quan; Tòng nhất phẩm, tiền gạo đều 360, đồ mặc mùa xuân 60 quan; Chánh nhị phẩm, tiền gạo đều 300, đồ mặc mùa xuân 50 quan; Tòng nhị phẩm, tiền gạo đều 150, đồ mặc mùa xuân 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 51 quan; Chánh tam phẩm, tiền gạo đều 120, đồ mặc mùa xuân 20 quan; Tòng tam phẩm, tiền gạo đều 90, đồ mặc mùa xuân 16 quan; Chánh tứ phẩm, tiền gạo đều 60, đồ mặc mùa xuân 10 quan; Tòng tứ phẩm, tiền gạo đều 50, đồ mặc mùa xuân 10 quan; Chánh ngũ phẩm, tiền gạo đều 35, đồ mặc mùa xuân 9 quan; Tòng ngũ phẩm, tiền gạo đều 30, đồ mặc mùa xuân 8 quan; Chánh lục phẩm, tiền gạo đều 25, đồ mặc mùa xuân 7 quan; Tòng lục phẩm, tiền gạo đều 22, đồ mặc mùa xuân 6 quan; Chánh tòng thất phẩm, tiền gạo đều 20, đồ mặc mùa xuân 5 quan; Chánh tòng bát phẩm, tiền gạo đều 18, đồ mặc mùa xuân 4 quan; Chánh tòng cửu phẩm, tiền gạo đều 16, đồ mặc mùa xuân 4 quan” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 963-964). (4) Minh Mệnh năm thứ 20 (1839), vua định lƣơng bổng đồng niên và tiền xuân phục cho các quan viên nhƣ sau: “Chánh nhất phẩm: lệ trƣớc 600 quan tiền, 600 phƣơng gạo, nay định là 400 quan tiền, 300 phƣơng gạo; Tòng nhất phẩm: lệ cũ 360 quan tiền, 300 phƣơng gạo, nay định là 300 quan tiền, 250 phƣơng gạo; Chánh nhị phẩm: lệ trƣớc 300 quan tiền, 360 phƣơng gạo, nay định là 250 quan tiền, 200 phƣơng gạo; Tòng nhị phẩm: lệ trƣớc là 156 quan tiền, 156 phƣơng gạo, nay định là 180 quan tiền, 150 phƣơng gạo; Chánh tam phẩm: lệ trƣớc 120 quan tiền, 120 phƣơng gạo, nay định là 150 quan tiền, 120 phƣơng gạo; Tòng tam phẩm: lệ trƣớc 90 quan tiền, 90 phƣơng gạo, nay định là 120 quan tiền, 90 phƣơng gạo; Chánh tứ phẩm: lệ trƣớc 60 quan tiền, 60 phƣơng gạo, nay định đổi là 80 quan tiền, 60 phƣơng gạo; Tòng tứ phẩm: lệ trƣớc 50 quan tiền, 50 phƣơng gạo, nay định là 60 quan tiền, 50 phƣơng gạo; Chánh ngũ phẩm: lệ trƣớc 35 quan tiền, 31 phƣơng gạo, nay định là 40 quan tiền, 35 phƣơng gạo; Tòng ngũ phẩm: lệ trƣớc 30 quan tiền, 30 phƣơng gạo, nay định là 35 tiền, 30 phƣơng gạo; Chánh lục phẩm: lệ trƣớc 25 quan tiền, 25 phƣơng gạo, nay định là 30 quan tiền, 25 phƣơng gạo; Tòng lục phẩm: lệ trƣớc 22 quan tiền, 22 phƣơng gạo, nay định là 25 quan tiền, 22 phƣơng gạo; Chánh thất phẩm và Tòng thất phẩm: lệ trƣớc 20 quan tiền, 20 phƣơng gạo, nay định là 22 quan tiền, 20 phƣơng gạo; Chánh bát và Tòng bát phẩm: lệ trƣớc 18 quan tiền, 18 phƣơng gạo, nay định là 20 quan tiền, 18 phƣơng gạo; Chánh cửu, Tòng cửu phẩm: lệ trƣớc 16 quan tiền, 16 phƣơng gạo, nay định là 18 quan tiền, 18 phƣơng gạo” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 610-611). (5) Đại Nam thực lục ghi chép về sự kiện này nhƣ sau: “Ất Dậu, năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), mùa xuân, tháng 4, sao Chổi mọc lâu chƣa hết. Vua rất nghĩ về việc trời răn, bèn lánh nơi chính điện, giảm bớt đồ ăn, bỏ âm nhạc, sắc cho bộ Lễ tƣ đi các địa phƣơng khiến xét thấy việc gì thì cứ thực bỏ phong bì tâu lên. Một đêm vua đứng ở sân điện Võ Hiển xem sao mãi đến nửa canh một, nhƣng mây che không trông thấy, vua mới vào trong cung. Đến sớm vua ngự Tiện điện, triệu đình thần bảo rằng: “Trời xuống tai ƣơng, mình trẫm nên phải đƣơng lấy, chớ để trăm họ mắc phải vạ ấy. Trẫm thấy ngƣời xƣa gặp có thiên tai thì hay xuống chiếu cầu lời nói phải, nhân nghĩ rằng nhƣ trẫm có lỗi thì ngƣời đều thấy cả, mà bầy tôi hằng ngày ở tả hữu giúp trẫm đừng làm điều trái, vua tôi nhƣ ngƣời một nhà, không phải xuống chiếu làm gì. Vậy các quan lớn nhỏ đều nên đem những điều đã thấy nói hết chớ giấu, để giúp trẫm những điều chƣa nghĩ tới”. Vừa Khâm Thiên giám Hoàng Công Dƣơng dâng sớ nói: “Sách xƣa có nói: Sao Chổi mọc ở khoảng sao Vỵ sao Mão là có tai ƣơng. Lại nói: Mọc ở đông nam trở sang tây bắc thì trong nƣớc đƣợc mùa lớn. Xem lời nói phân vân, không lấy gì làm tin lắm”. Vua xem sớ, dụ rằng: “Tháng này sao Chổi mọc, sau khi trẫm trông thấy thì ăn ngủ không ngon; ở trong cung thì bớt đồ ăn, bỏ âm nhạc, ngày ra Tiện điện vời hỏi đại thần, nghĩ sâu về đạo sửa mình để ngăn tai vạ mà vẫn chƣa đƣợc. Vả trời đã tỏ ra tƣợng ấy, chính là để răn bảo ngƣời làm vua. Vậy ngƣời làm vua phải nên lo gắng sức thêm lên, sửa TRƢƠNG ANH THUẬN – MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN 52 đức để cảm động đến trời, mà ngƣời làm tôi cũng nên đem hết những điều mắt thấy tai nghe nói hết. Chức phận Khâm Thiên giám là chiêm nghiệm tƣợng trời mà từ lâu không thấy tâu việc gì, nay lại đặt lời nịnh hót nhƣ thế để mong đẹp lòng trẫm, chính nhƣ Khổng Tử bảo rằng: “Ta dối ai? Dối trời ƣ?”. Trẫm xét kỹ sách sử các đời, chƣa thấy nói sao Chổi là điềm đƣợc mùa. Nếu cho sao Chổi là điềm hay thì sao sáng mây lành nên giải thích thế nào? Há cho trẫm là có thể nịnh hót trƣớc mặt đƣợc ƣ?”. Bèn giao cho bộ Lại bàn xử. Bộ xin xử tội đồ. Đặc biệt giáng làm Giám chính Khâm Thiên giám, vẫn mang tội cách lƣu để làm việc. Thƣợng thƣ Nguyễn Hữu Thận cũng vì là quản lý Khâm Thiên giám mà bị phạt. Rồi sao Chổi dần dần mờ đi, đến đầu tháng 11 thì hết” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006, tập 2: 444-445) TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Lê Thị Thanh Hòa. 1997. Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1884. Luận án tiến sĩ Sử học, Viện sử học. Hà Nội. 2. Nội các triều Nguyễn. 1993. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 15. Huế: Nxb. Thuận Hóa. 3. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục, tập 1. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 4. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam thực lục, tập 2 - 8. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- mot_so_chinh_sach_cua_trieu_nguyen_doi_voi_doi_ngu_quan_lai.pdf