Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực ngoại ngữ du lịch ở thành phố Đà Nẵng

Du lịch tại thành phố Đà Nẵng đã phát triển nhanh chóng với những thành tựu vượt bậc. Tuy

nhiên, nguồn nhân lực hiện tại của du lịch Đà Nẵng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển của

ngành du lịch thành phố. Việc thiếu kỹ năng chuyên môn và năng lực ngoại ngữ đang là vấn đề

cần được quan tâm, đồng thời đó là rào cản đối với việc thúc đẩy và phát triển du lịch Đà Nẵng.

Do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng là điều kiện tiên quyết để phát triển du lịch Đà Nẵng

trong thời gian đến. Chính vì lý do này mà du lịch Đà Nẵng cần xây dựng các chính sách và chiến

lược phù hợp dựa trên mục tiêu chung là phát triển con người Việt Nam trong du lịch. Trong bài

báo này, các điều kiện thực tế của nguồn nhân lực của thành phố được nghiên cứu để tìm ra những

biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ cho ngành du lịch thành phố

Đà Nẵng.

pdf 8 trang kimcuc 9460
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực ngoại ngữ du lịch ở thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực ngoại ngữ du lịch ở thành phố Đà Nẵng

Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực ngoại ngữ du lịch ở thành phố Đà Nẵng
117KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
DƯƠNG QUỐC CƯỜNG*
*Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng, cuonganh58@gmail.com
Ngày nhận bài: 08/12/2018; ngày sửa chữa: 09/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/02/2019
1. ĐẶT VẤN ĐÊ ̀ 
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam có thế 
mạnh về tài nguyên du lịch tự nhiên. Thành phố Đà 
Nẵng gắn với du lịch biển, tỉnh Quảng Nam gắn 
với hai di sản văn hoá thế giới Hội An và Mỹ Sơn. 
Chính quyền thành phố Đà Nẵng rất quan tâm và 
có định hướng đúng để phát triển du lịch. Đây là 
ngành kinh tế mũi nhọn, động lực chính thúc đẩy 
phát triển kinh tế xã hội. Thành phố Đà Nẵng đã có 
cơ chế huy động nguồn lực hợp lý và có chính sách 
linh hoạt thu hút đầu tư du lịch. Công tác bảo tồn 
và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch tự nhiên 
và di sản được tăng cường; các di sản văn hoá, giá 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN 
NGUỒN NHÂN LỰC NGOẠI NGỮ DU LỊCH 
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TÓM TẮT
Du lịch tại thành phố Đà Nẵng đã phát triển nhanh chóng với những thành tựu vượt bậc. Tuy 
nhiên, nguồn nhân lực hiện tại của du lịch Đà Nẵng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển của 
ngành du lịch thành phố. Việc thiếu kỹ năng chuyên môn và năng lực ngoại ngữ đang là vấn đề 
cần được quan tâm, đồng thời đó là rào cản đối với việc thúc đẩy và phát triển du lịch Đà Nẵng. 
Do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng là điều kiện tiên quyết để phát triển du lịch Đà Nẵng 
trong thời gian đến. Chính vì lý do này mà du lịch Đà Nẵng cần xây dựng các chính sách và chiến 
lược phù hợp dựa trên mục tiêu chung là phát triển con người Việt Nam trong du lịch. Trong bài 
báo này, các điều kiện thực tế của nguồn nhân lực của thành phố được nghiên cứu để tìm ra những 
biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ cho ngành du lịch thành phố 
Đà Nẵng.
Từ khoá: du lịch, Đà Nẵng, nguồn nhân lực, ngoại ngữ 
trị truyền thống được tôn trọng. Chất lượng dịch 
vụ du lịch được nâng cao và từng bước góp phần 
cải thiện diện mạo và sức cạnh tranh của du lịch 
thành phố Đà Nẵng trong khu vực và quốc tế. Kết 
quả phát triển du lịch mang lại thu nhập, chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế của thành phố, tạo việc làm và 
nâng cao đời sống xã hội. Ngành du lịch biển, đảo, 
di sản văn hoá đang từng bước khẳng định vị trí 
quan trọng trong cơ cấu kinh tế xã hội của thành 
phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn 
nhân lực du lịch chưa được đầu tư đúng mức, chưa 
đáp ứng được nguồn nhân lực cho du lịch. Thực 
118 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
trạng nguồn nhân lực du lịch thành phố nói chung 
và nhân lực ngoại ngữ du lịch nói riêng hiện nay 
chưa có tính chuyên nghiệp cao, thiếu lao động có 
tay nghề, trình độ ngoại ngữ Sự phối hợp giữa 
các ngành, các cấp, các đối tượng tham gia chưa 
chặt chẽ, sự gắn kết du lịch biển với không gian 
văn hoá miền biển, các di tích, lễ hội, làng nghề 
chưa nhuần nhuyễn là một vấn đề luôn tồn tại, 
rào cản đối với quá trình phát triển du lịch ở thành 
phố Đà Nẵng.
Để phát triển ngành du lịch Đà Nẵng nhanh 
chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo tinh 
thần Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thành phố, 
và thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính 
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế 
mũi nhọn, xác định: đến năm 2020, ngành du lịch 
sẽ đóng góp hơn 10% GDP, tạo ra 4 triệu việc làm, 
trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp và Đề án 
của Chính phủ Phát triển du lịch Việt Nam đến 
năm 2020 thành ngành kinh tế mũi nhọn, nhiệm 
vụ quan trọng hàng đầu có tính quyết định là phát 
triển nguồn nhân lực du lịch, trong đó có nhân lực 
ngoại ngữ du lịch. Trong bài viết này, chúng tôi đề 
xuất các biện pháp phát triển nguồn nhân lực ngoại 
ngữ du lịch ở thành phố Đà Nẵng. 
2. THỰC TRẠNG NHU CẦU VÀ ĐỊNH 
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN 
LỰC NGOẠI NGỮ DU LỊCH Ở THÀNH 
PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Vai trò, vị trí của ngành du lịch Việt Nam
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, du lịch đã 
trở thành một nhu cầu tất yếu của xã hội, không 
những là ngành kinh tế mũi nhọn của các quốc 
gia mà còn là cầu nối giao lưu giữa các dân tộc, 
quốc gia và các miền trong cả nước. Đặc biệt quan 
trọng trong thời kỳ hội nhập, du lịch còn là cơ hội 
giao lưu, hội tụ các nền văn minh vật thể và phi vật 
thể toàn cầu, tạo niềm tin, sự hiểu biết, tình đoàn 
kết giữa các dân tộc trên thế giới.
Du lịch là một ngành công nghiệp dịch vụ văn 
hóa cao nhằm phục vụ khách du lịch và các đối 
tượng khách có nhu cầu phục vụ thuộc loại hình 
công nghiệp này. Du lịch ngày nay đã trở thành 
một hoạt động không thể thiếu trong đời sống sinh 
hoạt xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày một 
phong phú, lý thú và bổ ích hơn. Về phương diện 
kinh tế, du lịch đã trở thành một ngành mũi nhọn, 
chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập kinh tế quốc 
dân. Không những vậy, do đặc tính hoạt động, du 
lịch còn góp phần không nhỏ trong phát triển kinh 
tế vùng chậm phát triển, đồng thời giúp xoá đói, 
giảm nghèo ở những vùng sâu vùng xa. Do vậy, 
việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cử nhân 
ngoại ngữ du lịch để đáp ứng được những yêu cầu 
đòi hỏi ngày càng cao trong thị trường quốc tế du 
lịch hiện nay có vai trò rất lớn của ngành du lịch 
thành phố Đà Nẵng nói riêng và ngành du lịch Việt 
Nam nói chung. 
Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Phát triển 
Du lịch Việt Nam, tính đến hết năm 2015, ngành 
du lịch mới có khoảng hơn 2,2 triệu lao động với 
hơn 600.000 lao động trực tiếp. Điều này một 
mặt khẳng định còn khá nhiều tiềm năng để phát 
triển ngành này, nhưng mặt khác cũng bộc lộ lỗ 
hổng lớn về nhân lực của ngành. Theo thống kê 
của Tổng cục Du lịch, mỗi năm, toàn ngành cần 
thêm gần 40.000 lao động; nhưng chỉ có khoảng 
20.000 lao động tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo, 
trong số đó chỉ có khoảng 1.800 sinh viên đại học, 
cao đẳng chuyên nghiệp, 2.100 sinh viên cao đẳng 
nghề du lịch, còn lại là học sinh trung cấp, sơ cấp 
và đào tạo ngắn hạn dưới ba tháng. Các con số này 
cho thấy, nguồn nhân lực không những thiếu về số 
lượng mà còn thiếu trầm trọng đội ngũ được đào 
tạo bài bản.
Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực do các cơ 
sở đào tạo cung cấp cho thị trường chưa đáp ứng 
được yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là nguồn 
nhân lực ngoại ngữ và quản lý. Ngay cả khi tuyển 
đúng người học ngành du lịch, các doanh nghiệp 
vẫn mất thời gian, công sức đào tạo lại. Ngoại ngữ 
được coi là chìa khóa để hội nhập, song đây lại 
là điểm yếu lớn của nguồn nhân lực du lịch Việt 
Nam. Người lao động có khả năng sử dụng thành 
thạo ngoại ngữ chỉ chiếm 15%, và cũng chỉ tập 
119KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
trung chủ yếu ở bộ phận làm hướng dẫn viên du 
lịch, lễ tân khách sạn. Cùng với những yếu kém 
trên thì thực tế cho thấy, kỹ năng mềm, khả năng 
ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của lực lượng lao 
động du lịch cũng chưa được trang bị đầy đủ. Thực 
trạng này cho thấy, số lượng và chất lượng nguồn 
nhân lực du lịch Việt Nam hiện tại chưa thể đáp 
ứng được những yêu cầu phát triển của du lịch 
trong giai đoạn mới. Đây cũng chính là rào cản cho 
sự phát triển của ngành du lịch và là căn cứ cần 
thiết cho các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp, hướng 
tới trong việc đào tạo, tuyển chọn nguồn nhân lực 
đáp ứng quá trình hội nhập của ngành và đất nước. 
2.2. Thực trạng ngành du lịch thành phố Đà Nẵng
Trong mấy năm trở lại đây, thành phố Đà Nẵng 
rất chú trọng phát triển sản phẩm du lịch và các 
hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch đã được triển 
khai có hiệu quả. Hàng loạt sản phẩm du lịch mới 
có sức hấp dẫn và thu hút khách du lịch. Khách 
du lịch đến Đà Nẵng 6 tháng đầu năm 2018 tăng 
29,4% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó, khách 
quốc tế đạt 1,61 triệu lượt khách, tăng 47,1%. 
Đặc biệt khách Hàn Quốc đạt 800.000 lượt, tăng 
101% chiếm tỷ lệ 50% cơ cấu quốc tịch khách; 
khách Trung Quốc đạt 368.000 lượt, tăng 36%, 
chiếm 23% cơ cấu quốc tịch khách. Dự kiến năm 
2018 lượng khách Hàn Quốc đến Đà Nẵng tăng 
60 – 80%, lượng khách Trung Quốc đến Đà Nẵng 
tăng 20 – 30%. Theo thống kê lũy kế 10 tháng đầu 
năm 2018, tổng lượt khách tham quan, du lịch đến 
Đà Nẵng ước đạt hơn 6,83 triệu lượt, tăng 21,5 
% so với cùng kỳ 2017. Trong đó, khách quốc tế 
ước đạt 2.507.414 lượt, tăng 31% so với cùng kỳ 
2017, khách nội địa ước đạt 4.326.477 lượt, tăng 
16,7% so với cùng kỳ 2017. Tổng thu du lịch ước 
đạt 23.661 tỷ đồng, tăng 43,1% so với cùng kỳ 
năm 2017 (https://viettimes.vn/don-68-trieu-luot-
khach-du-lich-trong-10-thang-dau-2018-da-nang-
uoc-thu-23661-ty-dong-306427.html).
Theo kết quả điều tra khảo sát của Phòng Quản 
lý cơ sở lưu trú, Sở Du lịch Đà Nẵng, tính đến 
tháng 12/2017, trên địa bàn thành phố hiện có 
36.082 lao động làm việc trong các lĩnh vực liên 
quan đến du lịch. Cụ thể:
TT Đối tượng
Số lượng
(Lao 
động)
Tỷ lệ
1 Cơ sở lưu trú du lịch 17.334 48,04%
2
Nhà hàng, cơ sở ăn 
uống có phục vụ khách 
du lịch
 7.140 19,79%
3 Đơn vị lữ hành1 1.405 3,89%
4 Khu, điểm du lịch 2.174 6,03%
5
Cơ sở mua sắm có phục 
vụ khách du lịch
 1.402 3,89%
6
Đơn vị vận chuyển du 
lịch (lái xe, phụ xe)
 2.226 6,17%
7 Tàu thuyền du lịch 247 0,68%
8 Hướng dẫn viên2 3.223 8,93%
9 Giảng viên tại các cơ sở 
đào tạo nghề du lịch
 653 1,81%
10
Cơ quan Quản lý Nhà 
nước về du lịch
 278 0,77%
Tổng cộng 36.082 100%
Ước tính đến tháng 9/2018 trên địa bàn thành 
phố hiện nay có 40.153 lao động làm việc trong 
các lĩnh vực du lịch (Phòng Quản lý cơ sở lưu trú, 
Sở Du lịch Đà Nẵng, 2018). 
Kết quả nghiên cứu cho phép có các đánh giá 
về chất lượng nguồn nhân lực du lịch thành phố Đà 
Nẵng như sau:
Nhìn chung, trong những năm gần đây, cùng 
với sự phát triển của ngành du lịch, nhận thức của 
xã hội về tầm quan trọng của nguồn nhân lực du 
lịch ngày càng được nâng cao, công tác đào tạo, 
bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực du lịch thành 
phố được quan tâm triển khai thực hiện.
Với sự quan tâm và chú trọng về công tác đào 
tạo bồi dưỡng, nguồn nhân lực du lịch trong thời 
gian qua đã củng cố về số lượng và chất lượng, đáp 
ứng cơ bản các yêu cầu của doanh nghiệp. Kết quả 
khảo sát, đánh giá nguồn nhân lực du lịch 2017, 
dựa trên các tiêu chí về kỹ năng và hiệu quả công 
120 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
việc trên 03 lĩnh vực chính (cơ sở lưu trú du lịch, 
lữ hành và nhà hàng) cho thấy đội ngũ lao động 
làm việc trực tiếp trong lĩnh vực du lịch đáp ứng 
được từ 65% yêu cầu của công việc.
Theo kết quả khảo sát về nguồn lao động, 
69,5% lao động du lịch là người địa phương. Điều 
này cho thấy, lao động tại địa phương phần nào 
đáp ứng như cầu của các doanh nghiệp kinh doanh 
dịch vụ du lịch.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực du lịch Đà Nẵng 
hiện nay vẫn tồn tại một số vấn đề khó khăn do các 
nguyên nhân chủ quan và khách quan, cụ thể:
- Sự gia tăng mạnh về số lượng cơ sở lưu trú 
du lịch trên địa bàn thành phố trong những năm 
qua dẫn đến tình trạng cầu vượt cung về nguồn 
nhân lực khách sạn: mỗi năm tăng từ 3.000-3.500 
phòng. Giai đoạn 2018 - 2020 sắp tới, cùng với 
một loạt căn hộ - khách sạn (condotel) hoàn thành 
và đưa vào hoạt động, mỗi năm ước tăng gần 6.000 
phòng, ước cần khoảng hơn 4.000 nhân sự khách 
sạn mỗi năm.
- Công tác tuyển dụng các vị trí chủ chốt làm 
việc tại các khách sạn 4-5 sao của Đà Nẵng còn 
khó khăn vì tốc độ tăng trưởng mạnh của khối 
khách sạn này, trung bình từ năm 2015 đến nay 
mỗi năm tăng từ 10-15 khách sạn 4-5 sao. Khoảng 
60% các vị trí chủ chốt tại các khách sạn 4-5 sao 
tuyển từ Hội An, Nha Trang, TP.HCM, số còn lại 
là nhân viên địa phương được thăng tiến.
 - Ngoại trừ các khách sạn 4-5 sao, các công 
ty lữ hành quy mô lớn, và một số khách sạn 3 
sao, công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ chưa được 
các doanh nghiệp quan tâm đầu tư, đặc biệt là các 
khách sạn quy mô nhỏ. 
- Nhận thức của các doanh nghiệp du lịch nhỏ 
về tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với 
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chưa 
cao nên chưa mạnh dạn tổ chức đào tạo lại hoặc 
thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, 
ngoại ngữ cho nhân viên. 
- Đối với một số thị trường với phát triển nóng, 
xu hướng hoạt động theo tour du lịch giá rẻ đã ảnh 
hưởng đến nhận thức của đội ngũ hướng dẫn viên 
trong việc chịu khó học tập nâng cao kiến thức, 
ngoại ngữ mà đặt nặng vấn đề kinh tế (Phòng 
Quản lý cơ sở lưu trú, Sở Du lịch Đà Nẵng, 2018).
2.3. Thực trạng nguồn nhân lực ngoại ngữ 
du lịch 
Cùng với sự phát triển nhanh của ngành du 
lịch trong suốt thập niên vừa qua và trong khi Việt 
Nam đang tập trung xây dựng hình ảnh “Điểm đến 
cao cấp” thì việc thiếu nhân lực du lịch có tính 
chuyên nghiệp là điều rất đáng quan ngại. Cho nên 
tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ du 
lịch chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu phát triển 
du lịch của Đà Nẵng là yêu cầu bức thiết.
Kết quả khảo sát về loại hình và bậc học nghiệp 
vụ du lịch đáp ứng cho đội ngũ hướng dẫn viên du 
lịch và cán bộ quản lý nhà hàng khách sạn, cơ quan 
quản lý nhà nước về du lịch cho thấy: Đào tạo cấp 
tốc: 97%; Vừa làm vừa học: 64%; Bậc cao đẳng: 
33%; Bậc đại học: 12%. Điều này khẳng định, để 
đáp ứng yêu cầu về nghiệp vụ du lịch, hình thức 
đào tạo cấp tốc thuận lợi hơn đối với các hình thức 
đào tạo khác. (Tổng cục Du lịch, 2018).
Để phục vụ khách nước ngoài thì trình độ ngoại 
ngữ của nhân viên là quan trọng nhất. Vì thế, trong 
thời gian tới ngành du lịch thành phố Đà Nẵng cần 
chú trọng hơn việc đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ 
cho nhân viên. Trong giao tiếp với khách nước 
ngoài, rào cản lớn nhất là ngoại ngữ, đặc biệt là kỹ 
năng nghe và nói của lao động ngành du lịch còn 
yếu. Hiện nay số lao động có trình độ ngoại ngữ 
chiếm 52,6%. (Sở Du lịch Đà Nẵng, 2018).
Khả năng lao động trong ngành du lịch đáp 
ứng được về trình độ ngoại ngữ chỉ chiếm khoảng 
từ 8% đến 12% trong tổng số lao động của ngành 
du lịch. Riêng tiếng Nga, tiếng Hàn, tiếng Nhật rất 
hạn chế chỉ chiếm khoảng từ 5% đến 7%. Đặc biệt 
tiếng Anh là ngoại ngữ thông dụng nhất, nhưng 
121KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
số lao động thành thạo ngoại ngữ này chỉ chiếm 
khoảng 18%, biết đủ để sử dụng giao tiếp 30%, số 
lượng còn lại hầu như rất hạn chế về ngôn ngữ này 
(Tổng cục Du lịch, 2011).
Nguyên nhân khách quan và chủ quan của 
thực trạng trên là: đào tạo tại các trường dạy về du 
lịch trên địa bàn thành phố chưa thật sát với yêu 
cầu của công việc, sinh viên ra trường thiếu kinh 
nghiệm thực tế làm việc, thời gian thực tập còn ít 
và tập trung vào một thời gian nhất định trong năm 
(thông thường từ tháng 2 đến tháng 5), chưa đảm 
bảo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp nhận sinh 
viên thực tập. 
Chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, 
thời gian sinh viên đi thực tế còn quá ít. Cơ sở vật 
chất kỹ thuật cho thực hành còn thiếu. Nhận thức 
của một số doanh nghiệp trong việc tuyển dụng, 
đào tạo còn coi trọng về mặt kinh nghiệm, ít quan 
tâm đến bằng cấp và hệ đào tạo. Nguồn nhân lực 
không những thiếu lại còn yếu kém về: kiến thức 
nghề nghiệp, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ...
Về dự báo nhu cầu nhân lực trực tiếp, theo dự 
báo của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, đến 
năm 2017 ngành du lịch cần tới 800.000 lao động 
trực tiếp trong tổng số 2,3 triệu việc làm do du lịch 
tạo ra và đến 2020 sẽ cần 870.000 lao động trực 
tiếp trong tổng số 3 triệu việc làm do du lịch tạo ra 
(Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2011). 
Với nguồn tài nguyên du lịch đa dạng, phong 
phú và với các chính sách thúc đẩy phát triển du 
lịch, du lịch Đà Nẵng đang đạt được tốc độ tăng 
trưởng khá nhanh, theo đó, nguồn nhân lực du lịch 
cũng có những bước tăng trưởng đột phá. 
2.4. Các biện pháp nhằm nâng cao chất 
lượng đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ du lịch 
2.4.1. Xác định rõ định hướng và mục tiêu 
đào tạo cử nhân ngoại ngữ du lịch 
Để đáp ứng nhu cầu xã hội và được sự đồng ý 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Đà Nẵng, 
bắt đầu từ năm học 2009-2010 Trường Đại học 
Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng đã bắt đầu đào tạo ở 
bậc đại học các chuyên ngành ngoại ngữ du lịch: 
tiếng Anh du lịch, tiếng Pháp du lịch, tiếng Nga du 
lịch và tiếng Trung du lịch. Đến nay số lượng sinh 
viên học các chuyên ngành ngoại ngữ du lịch của 
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng đã 
lên tới gần 800 sinh viên.
Với mục tiêu cung cấp cho sinh viên các kiến 
thức khoa học cơ bản và các kiến thức chuyên 
ngành ngoại ngữ du lịch để sau khi tốt nghiệp họ 
có thể dễ dàng nhập cuộc và nhanh chóng hòa mình 
vào đời sống xã hội, sử dụng kiến thức đã tích lũy 
để làm việc. Do đó, mục tiêu đào tạo là đào tạo 
cử nhân ngoại ngữ chuyên ngành du lịch, ngoài 
chuyên môn sâu về chuyên ngành ngoại ngữ du 
lịch, còn có các kỹ năng chuyên sâu về du lịch. Để 
giúp cho người học có thể tiếp thu các kiến thức 
cơ bản, các kiến thức thực tế nghề nghiệp và đáp 
ứng nhu cầu xã hội, chương trình đào tạo ngành 
du lịch ở bậc đại học tại Trường Đại học Ngoại 
ngữ đã được thiết kế theo hệ thống đào tạo tín 
chỉ, gồm hai phần: kiến thức giáo dục đại cương 
và kiến thức chuyên nghiệp. Ngoài các kiến thức 
đại cương và phần kiến thức chuyên ngành được 
phân nhỏ thành kiến thức chuyên ngành chung và 
kiến thức chuyên nghiệp - nghiệp vụ. Sinh viên 
theo học chuyên ngành ngoại ngữ du lịch được lựa 
chọn các tín chỉ đi sâu vào các lĩnh vực: nghiệp vụ 
hướng dẫn viên du lịch, tổ chức tour, địa lý du lịch, 
tuyến điểm du lịch, tổng quan kinh doanh lữ hành, 
tổng quan cơ sở lưu trú, tổ chức các sự kiện, Bên 
cạnh đó, một số cơ sở đào tạo khác cũng đã từng 
bước thay đổi chương trình đào tạo: đặc biệt áp 
dụng khung chương trình đào tạo VTOS (Vietnam 
Tourism Occupational Standards), khung chương 
trình ASEAN, tăng cường thời gian thực tập và 
kiểm tra về chất lượng thực tập để làm cơ sở xét 
tốt nghiệp đối với sinh viên các ngành học trung 
cấp, cao đẳng, đại học quản lý khách sạn. Mời 
các trưởng bộ phận, đặc biệt trưởng bộ phận nhân 
sự các resort 5 sao, các giám đốc lữ hành, hướng 
dẫn viên có kinh nghiệm để chia sẻ thông tin về 
122 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
ngành du lịch, môi trường làm việc với sinh viên, 
tăng cường tổ chức các chương trình ngoại khoá 
tham quan thực tế tại các khách sạn, resort, lữ hành 
nổi tiếng để tạo động lực nghề cho sinh viên. Các 
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố cũng 
đã chủ động trong công tác đào tạo nhân lực như 
tự tổ chức đào tạo theo tiêu chuẩn của tập đoàn; 
các trưởng bộ phận là Đào tạo viên VTCB (Viet-
nam Tourism Certification Board) cũng tổ chức 
tập huấn cho các nhân viên các bộ phận; việc ký 
kết hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch với các 
cơ sở đào tạo cũng được đẩy mạnh.
2.4.2. Phối hợp giữa các tác nhân của ngành 
du lịch
Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh ngày 
càng khốc liệt, đòi hỏi không ngừng nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực của ngành du lịch để đáp 
ứng nhu cầu du khách nhằm nâng cao mức độ hài 
lòng của khách du lịch là rất quan trọng. Dựa trên 
cơ sở đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngoại 
ngữ du lịch và nguồn cung lao động du lịch, thành 
phố Đà Nẵng cần có sự phối hợp giữa các tác nhân 
trong ngành du lịch: 
- Trong phạm vi quyền hạn của mình, Sở Du 
lịch cần thường xuyên tổ chức các cuộc họp, đối 
thoại 3 bên cơ sở đào tạo – cơ quan quản lý nhà 
nước – doanh nghiệp du lịch nhằm tìm ra các giải 
pháp tháo gỡ khó khăn và định hướng phát triển 
nguồn nhân lực du lịch, phối hợp hỗ trợ kết nối 
các trường và doanh nghiệp du lịch, tổ chức ngày 
hội hướng nghiệp nghề du lịch dành cho học sinh-
sinh viên, các lớp đào tạo ngắn hạn cho các doanh 
nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố
- Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng cần phối hợp 
chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch trên địa 
bàn để tiến hành đánh giá chất lượng nguồn nhân 
lực ngoại ngữ du lịch thông qua ý kiến của khách 
du lịch nhằm đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết 
thực, kịp thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của du khách. 
Thường xuyên tổ chức khảo sát, đánh giá chất 
lượng nguồn nhân lực du lịch của ngành, từ đó đề 
xuất kế hoạch, chương trình hành động cụ thể cho 
từng giai đoạn, nhằm nâng cao năng lực cho lao 
động của ngành phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
- Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng cần phối hợp 
chặt chẽ với các trường và các khoa đào tạo đặt 
hàng các cuộc khảo sát đánh giá chất lượng nguồn 
nhân lực, đặt hàng đào tạo theo kết quả khảo sát để 
công tác đào tạo đội ngũ cán bộ đúng nhu cầu, sát 
thực tế, phù hợp với điều kiện hội nhập.
- Sự phối hợp giữa trường và các khoa với các 
doanh nghiệp du lịch nhằm nâng cao chất lượng 
đào tạo cho các cơ sở đào tạo, đồng thời đảm bảo 
nguồn cung du lịch chất lượng cao cho ngành du 
lịch Đà Nẵng: 
+ Nhà trường gửi giảng viên và sinh viên đến 
thực tập, thực tế tại các doanh nghiệp du lịch nhằm 
nâng cao kiến thức và kỹ năng thực tế cho giảng 
viên và sinh viên; 
+ Nhà trường thoả thuận hợp tác cung ứng 
nguồn nhân lực ngoại ngữ cho các doanh nghiệp 
du lịch trên địa bàn Đà Nẵng đảm bảo cho đầu 
ra sản phẩm đào tạo vừa đảm bảo chất lượng lao 
động cho các doanh nghiệp du lịch. Nâng cao nhận 
thức của doanh nghiệp cũng như toàn xã hội đối 
với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ 
du lịch chất lượng cao. Doanh nghiệp cần xem 
đóng góp của họ trong quá trình đào tạo nguồn 
nhân lực ngoại ngữ du lịch vừa là nhiệm vụ vừa là 
trách nhiệm đối với xã hội
2.4.3. Liên kết giữa nhà trường với doanh 
nghiệp du lịch
Để tạo được lợi thế cạnh tranh, về phía doanh 
nghiệp cần phải nâng cao được năng lực cạnh tranh 
cốt lõi là vốn nhân lực của doanh nghiệp. Điều này 
buộc các doanh nghiệp phải xây dựng mối quan hệ 
gắn bó với các trường đại học và các khoa đào tạo 
trên các khía cạnh: 
- Doanh nghiệp đặt ra yêu cầu về số lượng, 
chất lượng nguồn nhân lực ngoại ngữ cho nhà 
trường và doanh nghiệp;
123KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
TRAO ĐỔI v
- Chủ động tham gia sâu hơn nữa trong quá 
trình đào tạo, từ việc xây dựng chương trình đào 
tạo, đến việc trực tiếp tham gia giảng dạy, hướng 
dẫn thực tập – thực tế và các tăng cường các kỹ 
năng cần thiết cho sinh viên; 
Việc hỗ trợ giữa nhà trường với doanh nghiệp 
chính là việc thực hiện hiệu quả mối quan hệ giữa 
trường và doanh nghiệp một cách biện chứng trong 
suốt quá trình tồn tại và phát triển của cả hai phía. 
Điều này tạo ra cơ hội tiếp cận và nội dung chương 
trình học, về vai trò người dạy và quan hệ của họ 
với người lao động, người sử dụng lao động, cũng 
như vai trò của doanh nghiệp trong việc cung cấp 
các cơ hội và mô hình học tập trong quá trình học 
tập, không ngừng hoàn thiện kỹ năng của người 
lao động đáp ứng sự phát triển chung của doanh 
nghiệp và xã hội.
Quan hệ và hợp tác giữa trường, khoa và doanh 
nghiệp mang lại những lợi ích hết sức cơ bản cho 
các bên liên quan:
Thứ nhất, về phía nhà trường, khoa sẽ nâng 
cao chất lượng đào tạo, sinh viên ngày càng đáp 
ứng nhu cầu của thị trường và nhiều cơ hội nghề 
nghiệp hơn.
Thứ hai, về phía sinh viên, việc học lý thuyết 
sẽ đi đôi với thực hành. Các kỹ năng sống và kỹ 
năng cơ bản về ngành và chuyên ngành sẽ ngày 
một thuần thục hơn. Sinh viên cũng có cơ hội hơn 
về việc tìm kiếm học bổng của doanh nghiệp, cơ 
hội việc làm bán thời gian để tích luỹ kinh nghiệm 
và tăng thu nhập;
Thứ ba, về phía doanh nghiệp sẽ có nguồn 
nhân lực dồi dào đảm bảo chất lượng. Thậm chí 
nếu doanh nghiệp có trách nhiệm sâu hơn trong 
quá trình đào tạo như: trao nhiều học bổng, tham 
gia vào quá trình soạn thảo chương trình đào tạo 
chuyên ngành, giảng dạy, hướng dẫn sinh viên, 
thì có thể tuyển chọn cho mình những sinh viên 
giỏi đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp sau 
khi ra trường.
3. KẾT LUẬN
Việc huy động một cách tối ưu các nguồn lực 
hiện có và khai thác các quan hệ với các doanh 
nghiệp du lịch trong đào tạo nguồn nhân lực ngoại 
ngữ du lịch là cách tiếp cận nhanh nhất và hiệu quả 
nhất để giải quyết những khó khăn trước mắt và 
nâng cao chất lượng đào tạo. Có thể nói, đào tạo 
nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực 
ngoại ngữ du lịch hiện nay ở thành phố Đà Nẵng 
đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách 
thức. Chính vì vậy, việc đổi mới nội dung chương 
trình đào tạo, mở thêm các chuyên ngành ngoại 
ngữ du lịch và tăng cường hợp tác liên kết giữa 
nhà trường và doanh nghiệp là yếu tố quan trọng 
quyết định đến việc cung cấp nguồn nhân lực và 
nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân ngoại ngữ du 
lịch, góp phần đưa ngành du lịch ngày càng phát 
triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của ngành 
du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở 
thành phố Đà Nẵng./.
Chú thích:
1. Không bao gồm hướng dẫn viên thuộc quản lý của 
các đơn vị lữ hành
2. Dựa vào số lượng hướng dẫn viên quốc tế và nội địa 
thực tế được Sở Du lịch cấp thẻ (bao gồm hướng 
dẫn viên tự do và hướng dẫn viên thuộc quản lý của 
các đơn vị lữ hành)
Tài liệu tham khảo:
Đề án Phát triển Dịch vụ thành phố Đà Nẵng đến năm 
2015, tầm nhìn đến năm 2020, UBND Thành phố 
Đà Nẵng, Quyết định số 2550/QĐ-UBND ngày 
5/4/2012.
Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng (2017), Báo cáo kết quả 
điều tra nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn thành 
phố Đà nẵng, ngày 23/10/2018.
Bùi Thị Tám (2012), Thực trạng nhu cầu và định hướng 
liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho vùng duyên 
hải miền Trung, Hội thảo khoa học “Liên kết đào 
tạo nguồn nhân lực các tỉnh duyên hải miền Trung”.
Tổng cục Du lịch (2015 - 6/2018), Thống kê số lượng 
khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa.
124 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v TRAO ĐỔI
SUGGESTED SOLUTIONS TO THE DEVELOPMENT OF FOREIGN LANGUAGES 
HUMAN RESOURCES FOR TOURISM INDUSTRY IN DANANG CITY
DUONG QUOC CUONG
Abstract: Da Nang Tourism has grown rapidly with remarkable achievements. However, the current 
human resources of Da Nang tourism have not really met the requirements of the city’s development 
in tourism industry. The lack of professional skills and foreign language skills is an issue that needs 
paying attention to and, at the same time, a barrier to the promotion and the development of Da Nang 
tourism. Therefore, the development of qualified human resources is a prerequisite for enhancing 
Da Nang tourism in the time to come. It is for this reason that Da Nang tourism needs developing 
appropriate policies and strategies based on the common goal of developing Vietnamese people in 
tourism industry. The paper investigates the actual conditions of the city’s human resources with an 
aim to find out solutions to improve the quality of training foreign language human resources for the 
tourism industry of Da Nang city.
Keywords: tourism, Danang, human resources, foreign languages 
Received: 08/12/2018; Revised: 09/01/2019; Accepted for publication: 25/02/2019
Tổng cục Du lịch (2011), Dự thảo chiến lược phát triển 
du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 
năm 2030.
Bùi Văn Trịnh (2010), Một số giải pháp mâmg cao chất 
lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch, kỷ yếu Hội 
nghị khoa học toàn quốc.
Viện nghiên cứu phát triển du lịch: Báo cáo từ năm 
2006 đến năm 2011; Dự báo nhu cầu nhân lực trực 
tiếp du lịch đến năm 2020. 
Https://viettimes.vn/don-68-trieu-luot-khach-du-lich-
trong-10-thang-dau-2018-da-nang-uoc-thu-23661-
ty-dong-306427.html

File đính kèm:

  • pdfmot_so_bien_phap_phat_trien_nguon_nhan_luc_ngoai_ngu_du_lich.pdf