Liên kết phát triển du lịch cụm du lịch phía đông đồng bằng sông Cửu Long

Sáu tỉnh thuộc Cụm du lịch liên kết phía đông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Đồng Bằng Sông

Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh là nơi có thể xem là vùng đất đa dạng

sinh học cùng những nét văn hóa đặc trưng Nam Bộ để thu hút khách

du lịch.

Thực hiện theo Quyết định số 194/QĐ - BVHTTDL của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch về “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng

ĐBSCL” và Quyết định số 2227/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ

về “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSCL đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, Cụm du lịch phía Đông hiện đã và

đang tiếp tục phát triển các điểm đến và tiềm năng du lịch của từng địa

phương, chọn sản phẩm du lịch nổi bật và hấp dẫn nằm trên các tuyến,

trục du lịch của từng tỉnh để tạo các tuyến và sản phẩm du lịch liên kết.

Bài viết đánh giá khái quát về các sản phẩm du lịch đặc trưng của

6 tỉnh cũng như tính hiệu quả từ thực trạng liên kết phát triển du lịch

của Cụm liên kết du lịch phía Đông, từ đó đưa ra những kiến nghị cho

việc nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác liên kết và phát triển du lịch

tại địa phương, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa

phương trong toàn Cụm.

pdf 7 trang kimcuc 19480
Bạn đang xem tài liệu "Liên kết phát triển du lịch cụm du lịch phía đông đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên kết phát triển du lịch cụm du lịch phía đông đồng bằng sông Cửu Long

Liên kết phát triển du lịch cụm du lịch phía đông đồng bằng sông Cửu Long
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
36 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỤM DU LỊCH
PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Phạm Thị Hồng Cúc
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh 
Email: phamthihongcuc@hcmussh.edu.vn 
Phạm Thị Hồng Dung
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
Email: hongdung.phan@gmail.com
Sáu tỉnh thuộc Cụm du lịch liên kết phía đông Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, 
Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh là nơi có thể xem là vùng đất đa dạng 
sinh học cùng những nét văn hóa đặc trưng Nam Bộ để thu hút khách 
du lịch.
Thực hiện theo Quyết định số 194/QĐ - BVHTTDL của Bộ Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch về “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng 
ĐBSCL” và Quyết định số 2227/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ 
về “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSCL đến 
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, Cụm du lịch phía Đông hiện đã và 
đang tiếp tục phát triển các điểm đến và tiềm năng du lịch của từng địa 
phương, chọn sản phẩm du lịch nổi bật và hấp dẫn nằm trên các tuyến, 
trục du lịch của từng tỉnh để tạo các tuyến và sản phẩm du lịch liên kết.
Bài viết đánh giá khái quát về các sản phẩm du lịch đặc trưng của 
6 tỉnh cũng như tính hiệu quả từ thực trạng liên kết phát triển du lịch 
của Cụm liên kết du lịch phía Đông, từ đó đưa ra những kiến nghị cho 
việc nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác liên kết và phát triển du lịch 
tại địa phương, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa 
phương trong toàn Cụm.
Abstract
Six provinces of the Eastern Tourism Cluster of the Mekong Delta, 
including Long An, Dong Thap, Tien Giang, Ben Tre, Vinh Long 
and Tra Vinh, are considered the place with biodiversity and typical 
cultural features of the South to attract tourists.
According to Decision No.194/QD-BVHTTDL of the Ministry of 
Culture, Sports and Tourism on “Building tourism products in the 
Mekong Delta” and Decision No.2227/QD-TTg of the Prime Minister 
on “Approving the master plan for tourism development in the Mekong 
Delta until 2020, the vision to 2030”, the Eastern Tourism Cluster has 
been continuously developing tourist destinations and potential of 
each locality, selecting attractive tourist products of each province to 
create associated travel products uniquely.
This article provides an overview of the typical tourism products of 
the six provinces as well as the effectiveness of the development linkage 
in tourism of the Eastern Tourism Cluster, which offers suggestions 
for increasing the level of cooperation and tourism development, 
contributing to the socio-economic development of each locality in the 
whole Cluster.
Thông tin chung
Ngày nhận bài: 25/10/2018
Ngày phản biện: 30/10/2018
Ngày duyệt đăng: 9/11/2018
Title
LINKING TOURISM 
DEVELOPMENT TO 
THE EASTERN TOURIST 
CLUSTER OF THE MEKONG 
RIVER DELTA
Từ khóa
Liên kết phát triển du lịch; Sản 
phẩm du lịch đặc thù; Cụm 
phía Đông ĐBSCL; Tuyến, trục 
du lịch
Keywords
Development linkage in 
tourism; Typical tourism 
products; The Eastern Tourism 
Cluster of the Mekong River 
Delta; Tourist routes, Tourist 
axis
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
37Số 24 - Tháng 12 năm 2018
1. Một số lý luận
Du lịch trở thành một ngành công nghiệp góp 
phần phát triển kinh tế địa phương. Là ngành kinh 
tế có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao 
nên hiện nay các địa phương đang có hướng liên kết 
vùng du lịch ở các tỉnh.
Quan điểm về liên kết vùng
Nghiên cứu về phát triển vùng và liên kết vùng 
phát triển trong những năm 1950, nhưng đến tháng 
12/1954 thì nghiên cứu về vùng được xem xét trở 
thành một lĩnh vực nghiên cứu chính thức1. Tuy 
nhiên, chưa có lý thuyết nghiên cứu về liên kết 
vùng du lịch, tác giả dựa trên các lý thuyết về liên 
kết vùng trên nhiều quan điểm khác nhau vì du lịch 
cũng là ngành kinh tế có tính liên ngành cao.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về phân 
định vùng dựa trên các yếu tố khác nhau. Về góc 
độ cấu trúc kinh tế, họ đưa ra quan điểm cực tăng 
trưởng và quan tâm đến tăng trưởng kinh tế của các 
vùng trong quá trình phát triển công nghiệp hóa cho 
khu vực. Tiêu biểu là Perroux (nhà kinh tế học lớn 
của Pháp). Theo đó, cực tăng trưởng tập trung phát 
triển ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành bổ 
trợ, các hoạt động dịch vụ phục vụ cho phát triển về 
công nghiệp. Cực tăng trưởng này có sức lan tỏa và 
sức hút về hàng hóa nguyên liệu và lao động trong 
các khu vực khác.
GS Hirschman - GS.TS về kinh tế học - tiếp 
cận liên kết kinh tế vùng theo nghiên cứu liên kết 
ngược và liên kết xuôi để nghiên cứu các mối quan 
hệ ngành và liên ngành. Theo ông, liên kết ngược 
được tạo ra khi các doanh nghiệp và hộ gia đình có 
nhu cầu được cung cấp đầu vào như nguyên liệu, 
sản phẩm trung gian. Liên kết xuôi được tạo ra khi 
các doanh nghiệp và hộ gia đình bán sản phẩm.
Tiếp cận theo hướng địa chính trị, vùng kinh tế 
là đặc trưng của các nhóm xã hội có liên quan đến 
các quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh tế. 
Bên cạnh đó, về góc độ xã hội, họ quan tâm đến 
khía cạnh các lợi ích thông qua phân chia lợi nhuận 
của các nhóm.
Dù theo hướng tiếp cận nào thì liên kết vùng 
theo nhóm tác giả là chuỗi các hoạt động hợp tác, 
liên kết giữa các địa phương về các mặt kinh tế, xã 
hội và văn hóa khác nhau trong một khoảng không 
gian xác định bao gồm không gian địa lý, không 
gian văn hóa, không gian phát triển kinh tế nhằm 
mục đích cùng nhau phát triển. Việc liên kết này 
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi thông 
qua kí kết giữa các bên tham gia trong khuôn khổ 
cho phép của Nhà nước và Pháp luật.
Mục tiêu của liên kết là tạo ra mối quan hệ ổn 
định thông qua các cơ chế hoạt động để phân công 
chuyên môn hóa, khai thác tốt tiềm năng của từng 
1. Nguyễn Văn Huân, Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn, Kỷ yếu diễn đàn 
kinh tế mùa thu 2012, Viện Kinh tế Việt Nam.
đơn vị tham gia liên kết nhắm tạo thị trường chung 
cho việc phát triển
Các điều kiện liên kết vùng: (1) Lợi thế so sánh 
vùng hình thành hệ thống phân công lao động và 
chuyên môn hóa, (2) Lợi thế quy mô nhờ chuyên 
môn hóa, (3) Sự đồng thuận về thể chế và các nhóm 
xã hội chia sẽ lợi ích chung trong đó có lợi ích phát 
triển riêng của địa phương, (4) Sự đồng bộ về cơ 
chế chính sách, quản trị vùng, (5) Hệ thống hạ tầng 
phát triển đồng bộ và hiện đại với các loại hạ tầng 
khác nhau.
Các hình thức liên kết vùng: (1) Liên kết giữa 
các chủ thể vĩ mô: theo hướng liên kết dọc (phân 
cấp Trung ương, chính quyền địa phương, Bộ với 
các sở chuyên ngành; liên kết quản lý ngành và 
quản lý lãnh thổ theo địa phương và hướng liên 
kết ngang (cán bộ chuyên ngành liên kết và các địa 
phương với nhau), (2) Liên kết giữa các chủ thể vi 
mô: là liên kết giữa các doanh nghiệp với doanh 
nghiệp và hộ gia đình, liên kết giữa doanh nghiệp 
với Nhà trường, Viện trong việc chuyển giao khoa 
học kỹ thuật, (3)Liên kết mang tính chất lãnh thổ: 
liên kết các cực hay trung tâm phát triển với các 
vùng, chiến lược cực tăng trưởng được vận dụng 
vào đây, (4) Liên kết cụm hay mạng lưới vùng, liên 
kết nông thôn đô thị: Liên kết này giải quyết được 
sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.2
Các nguyên tắc phát triển du lịch dựa trên liên 
kết vùng: Có nhiều tác giả đưa ra nhiều nguyên tắc 
liên kết theo hướng tiếp cận khác nhau. Theo tác giả 
Lê Anh Vũ thì nguyên tắc liên kết gồm: (1) Đảm 
bảo hiệu quả toàn cục trên cơ sở tận dụng, phát huy 
lợi thế so sánh, thực hiện phân công hóa, (2) Gắn 
với chủ thể trong xã hội và đảm bảo bình đẳng trong 
hoạt động của các chủ thể tham gia, (3) Đảm bảo 
thực hiện hợp tác hài hòa trong các hoạt động phát 
triển.3
Liên kết vùng là một hoạt động hợp tác quan 
trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở 
các nước trên thế giới và Việt Nam. Hiện tại, các 
nhà quản lý cấp Nhà nước cùng các nhà khoa học 
định hướng liên kết kinh tế vùng, trong đó chú trọng 
phát triển liên kết du lịch như Tây Bắc (Lào Cai, 
Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái) 
hay Nam Trung Bộ (Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam) 
và ĐBCSL là vùng trọng tâm được Bộ Văn hóa - 
Thể thao và Du lịch triển khai thực hiện Quyết định 
sô 194/QĐ-BVHTTDL ngày 23/1/2015 với đề án 
“Xây dựng sản phẩm thù vùng ĐBSCL”, theo đó 
vùng này liên kết phát triển du lịch theo 2 hướng 
Tây và hướng Đông.
2. Thực trạng liên kết phát triển du lịch của 
cụm phía Đông đồng bằng sông Cửu Long
2. Nguyễn Văn Huân, Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn, Kỷ yếu diễn đàn 
kinh tế mùa thu 2012, Viện Kinh tế Việt Nam.
3. Một số vấn đề lý luận cơ bản về liên kết vùng, Kỷ yếu hội thảo Khoa học 
và công nghệ thúc đẩy liên kết và phát triển vùng Tây Bắc.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
38 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
a. Sản phẩm du lịch đặc thù tại các địa phương
Hiện nay, định hướng khai thác các sản phẩm du 
lịch đặc thù tại cụm liên kết du lịch phía Đông chính 
là lấy du lịch sông nước, miệt vườn; tham quan làng 
nghề truyền thống, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng 
đặc dụng ngập nước; các di tích lịch sử cách mạng 
và lưu trú tại nhà dân (homestay) làm chủ đạo 
nhằm xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của cụm 
một cách hợp lý về không gian, thời gian và điều 
kiện tiếp cận. 
Long An: So với các tỉnh trong cụm phía Đông, 
Long An là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh 
(TPHCM) với các tỉnh trong vùng ĐBSCL có điều 
kiện về cơ sở hạ tầng phát triển. Về tài nguyên du 
lịch, Long An có cảnh quan sinh thái Đồng Tháp 
Mười, sông Vàm Cỏ, các di tích lịch sử - văn hóa, 
văn hóa tâm linh với các điểm nổi tiếng như Làng 
nổi Tân Lập (huyện Mộc Hóa), Cổ Sơn tự (huyện 
Vĩnh Hưng), khu bảo tồn đất ngập nước Làng Sen 
với một số đặc sản địa phương như rượu đế Long 
An, gạo nàng thơm chợ Đào, đậu phộng Đức Hòa 
Trên cơ sở đó, Long An xác định rõ loại hình du lịch 
thế mạnh của tỉnh mang tính đặc thù và được chia ra 
làm 3 nhóm: sản phẩm du lịch đặc thù (du lịch sinh 
thái điển hình vùng Đồng Tháp Mười), sản phẩm du 
lịch chính (du lịch cuối tuần, lễ, tết), sản phẩm du 
lịch bổ trợ (tham quan các di tích lịch sử - văn hóa).
Đồng Tháp: Đồng Tháp hiện đang tập trung 
khai thác 2 loại hình: du lịch tham quan, trải nghiệm 
cuộc sống của cộng đồng gắn với những giá trị cảnh 
quan sông nước và văn hóa bản địa gắn với hoạt 
động tham quan thiên nhiên mùa nước nổi ở Đồng 
Tháp Mười tại Vườn quốc gia Tràm Chim gắn với 
sinh hoạt cộng đồng; phát triển sản phẩm du lịch 
tìm hiểu về sinh kế của người dân (xây dựng mô 
hình du lịch cộng đồng ở làng hoa kiểng Sa Đéc), 
tìm hiểu đời sống sinh hoạt truyền thống, thưởng 
thức các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống địa 
phương (du lịch homestay). Loại hình thứ 2 là phát 
triển sản phẩm du lịch sinh thái gồm sinh cảnh rừng 
tràm ngập nước với các hoạt động tham quan cảnh 
quan hoang sơ, tìm hiểu các giá trị di tích - lịch sử, 
văn hóa tại khu di tích Xẻo Quýt và khu du lịch Gáo 
Giồng với chương trình “trải nghiệm một ngày làm 
nông dân”. 
Tiền Giang: Với lợi thế về vị trí địa lý và tài 
nguyên du lịch nổi tiếng cùng chợ nổi và làng nhà 
cổ Cái Bè, cù lao Thới Sơn, cù lao Tân Phong, bãi 
biển Tân Thành, di tích Rạch Gầm-Xoài Mút, di 
tích Ấp Bắc, chùa Vĩnh Tràng, trại rắn Đồng Tâm 
Tiền Giang xây dựng sản phẩm du lịch theo hướng 
du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch cộng 
đồng, tập trung vào phát triển tại 3 vùng sinh thái 
chính: (1) Vùng sinh thái nước ngọt: Phát triển chủ 
yếu ở Thành phố Mỹ Tho, cù lao Thới Sơn với các 
hoạt động gắn liền dịch vụ đa dạng có sự tham gia 
của cộng đồng như du thuyền trên sông, đờn ca tài 
tử, tát mương bắt cá, ẩm thực địa phương gắn liền 
với di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút, chùa Vĩnh 
Tràng và phát triển mạnh sản phẩm du lịch chợ nổi 
Cái Bè với các làng nghề truyền thống với các hoạt 
động du thuyền trên sông, tham quan các vườn cây 
ăn trái của địa phương, tìm hiểu về homestay; (2) 
Vùng sinh thái ngập nước: Khu bảo tồn sinh thái 
Đồng Tháp Mười thuộc huyện Tân Phước gắn với 
khu du lịch tâm linh Thiền viện Trúc Lâm Chánh 
giác; (3) Vùng sinh thái ngập mặn: Vùng sinh thái 
này gắn với khu du lịch biển Gò Công như khu du 
lịch biển Tân Thành, khu du lịch Cồn Ngang cùng 
các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, các làng 
nghề truyền thống tại thị xã Gò Công.
Bến Tre: Được mệnh danh là “Xứ dừa” với trên 
63.000 ha dừa và “vương quốc hoa kiểng” Cái Mơn 
- Chợ Lách; là một trong những nơi phát triển lâu 
đời về cây ăn quả và cây giống của vùng đất Nam 
bộ. Nhiều di tích lịch sử như nhà truyền thống Đồng 
khởi, đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam, khu 
tưởng niệm và mộ phần các danh nhân Võ Trường 
Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản 
Tỉnh cũng đã định vị thương hiệu “du lịch xứ dừa” 
gắn với những thế mạnh về điều kiện tự nhiên và 
văn hóa của tỉnh. Có 8 nhóm sản phẩm du lịch chính 
tại Bến Tre bao gồm: du lịch sinh thái sông nước 
miệt vườn, du lịch tham quan nghiên cứu lịch sử, du 
lịch tâm linh, du lịch cộng đồng gắn vợi tham quan 
làng nghề, du lịch biển gắn với hệ sinh thái rừng 
ngập mặn, du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí, 
du lịch MICE, thưởng thức văn hóa ẩm thực xứ dừa.
Vĩnh Long: Với vị trí nằm giữa 2 dòng sông 
Hậu và sông Tiền, Vĩnh Long xác định du lịch sông 
nước miệt vườn, du lịch homestay là sản phẩm du 
lịch đặc trưng của tỉnh. Bên cạnh đó, là một trong 
những tỉnh phát triển mô hình homestay sớm trên cả 
nước, hiện nay tỉnh Vĩnh Long có khoảng 35 điểm 
du lịch homestay đạt chuẩn. Vĩnh Long có nhiều 
di tích lịch sử văn hóa như Văn Thánh Miếu - một 
trong ba Văn Thánh miếu của cả nước, khu lưu niệm 
cố Chủ tịch Phạm Hùng, khu lưu niệm Thủ tướng 
chính phủ Võ Văn Kiệt, các làng nghề làm gốm 
truyền thống Vĩnh Long phát triển mạnh chương 
trình “Vĩnh Long - homestay trải nghiệm của bạn 
ở ĐBSCL” với các loại hình du lịch sinh thái, sông 
nước miệt vườn, tham quan di tích văn hóa, lịch sử, 
làng nghề, phát triển du lịch cộng đồng với các dịch 
vụ vui chơi giải trí gắn liền với sông nước.
Trà Vinh: Với 65 km tiếp giáp biển Đông, Trà 
Vinh có tiềm năng phát triển du lịch với mạng lưới 
sông ngòi chằng chịt cùng với hệ thống cù lao như 
Long Trị, Long Hòa, Hòa Minh, Tân Quy cùng với 
rừng ngập mặn có hệ động thực vật phong phú. Trà 
Vinh còn có di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ 
thuật động đáo cùng lễ hội truyền thống của 3 dân 
tộc Kinh, Khmer và Hoa như lễ hội Ok Om Bok, lễ 
Chol Chnam Thmay của Khmer, lễ Vu Lan Thắng 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
39Số 24 - Tháng 12 năm 2018
Hội của người Hoa. Nét đặc trưng và điểm nhấn của Trà Vinh là du lịch tâm linh với hệ thống chùa Khmer 
và văn hóa lễ hội đặc trưng của người Khmer. Với điều kiện đó, Trà Vinh tập trung phát triển du lịch với 
sản phẩm đặc thù là du lịch xanh tại khu du lịch biển Ba Động với các cù lao và du lịch văn hóa với điểm 
nhấn là văn hóa dân tộc Khmer.
Sơ đồ: Không gian du lịch phía Đông - ĐBSCL4
b. Hiện trạng phát triển du lịch Cụm liên kết phía Đông ĐBSCL
Về kinh doanh du lịch
Bảng 1: Tổng lượt khách năm 20175
STT Đơn vị ĐVT Tổng lượ ... ch của các tỉnh trong năm 2017 đều tăng trưởng so với cùng kỳ. Tổng lượt khách đạt 
trên 9,5 triệu lượt, trong đó khách quốc tế 1.692.021 lượt, chiếm 17,77% tổng lượng khách. Trong 6 tỉnh 
thành thuộc cụm du lịch phía Đông, tính tại thời điểm năm 2017, Đồng Tháp là địa phương thu hút được 
lượt khách du lịch đến nhiều nhất chiếm tỉ lệ 34.67% trên tổng lượng khách du lịch toàn cụm nhờ vào việc 
Ðồng Tháp tạo đột phá bằng các mô hình du lịch sinh thái, du lịch vườn trái cây tạo sự gần gũi cho du 
khách. Trong khi đó, Trà Vinh lại là địa phương thu hút lượt khách du lịch ít nhất với 652.000 lượt khách, 
chiếm tỉ lệ 6.85% trên tổng lượng khách toàn cụm. 
Bảng 2: Doanh thu du lịch của các cụm du lịch phía Đông ĐBSCL6
STT Đơn vị ĐVT Tổng doanh năm 2017 So cùng kỳ (%)
1 Bến Tre Tỷ đồng 1.057 +23,00
2 Đồng Tháp nt 650 +33,26
3 Long An nt 485 +18,00
4 Tiền Giang nt 786 +25,38
5 Trà Vinh nt 210 +33,97
6 Vĩnh Long nt 312 +11,00
Tổng cộng 3.500
4. Theo Trần Duy Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
5. Báo cáo Tổng kết Chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch Cụm phía Đông ĐBSCL và Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017
7. Báo cáo Tổng kết Chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch cụm phía Đông ĐBSCL và Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
40 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
Trong 6 tháng đầu năm 2018 khách du lịch nội 
địa là hơn 5,5 triệu lượt khách, tăng 15% so với 
cùng kỳ; khách quốc tế hơn 900 lượt khách tăng 6% 
so với cùng kỳ7.
Cũng giống với tổng lượt khách, doanh thu từ 
hoạt động du lịch của các tỉnh trong năm 2017 cũng 
có sự tăng trưởng khá tốt so với cùng kỳ. Tổng 
doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch đạt 3.500 
tỷ đồng. Trong đó, Bến Tre là địa phương có doanh 
thu từ hoạt động du lịch vượt trội nhất là 1.057 tỷ 
đồng, chiếm tỉ lệ 30.2% trên tổng số doanh thu toàn 
cụm. Tuy Trà Vinh là tỉnh có doanh thu tăng trưởng 
đạt 33.97% so với cùng kỳ nhưng doanh thu chỉ đạt 
được 210 tỷ, chiếm tỉ lệ 6% trên tổng số doanh thu 
toàn cụm.
Tính đến thời điểm 6 tháng đầu năm 2018, doanh 
thu từ hoạt động du lịch đạt hơn 2.200 tỷ đồng, tăng 
27% so với cùng kỳ8.
Về chính sách liên kết và quảng bá
Chính sách liên kết
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch các tỉnh trong 
cụm thường xuyên liên hệ trao đổi thông tin, kinh 
nghiệm trong công tác quản lý nhà nước về xây 
dựng cơ chế chính sách, quản lý chất lượng dịch 
vụ... góp phần thúc đẩy du lịch cụm. Cụm tạo điều 
kiện để các doanh nghiệp kinh doanh du lịch các 
tỉnh giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, kết nối tuyến 
du lịch góp phần phát triển hoạt động du lịch trong 
khu vực. 
Tại thời điểm năm 2013, trong khuôn khổ “Tuần 
lễ văn hóa - Du lịch tỉnh Bến Tre lần thứ I”, Sở 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh Bến Tre, 
Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh đã tiến hành ký 
kết việc liên kết phát triển tuyến, điểm du lịch cụm 
duyên hải phía Đông vùng đồng bằng sông Cửu 
Long9. Sau đó, năm 2014 và năm 2015 lần lượt 2 
tỉnh Long An và Đồng Tháp cũng đã gia nhập vào 
cụm liên kết phát triển du lịch này. Từ việc Bến Tre 
được bỏ phiếu làm cụm trưởng ở những giai đoạn 
đầu tiên của sự liên kết cụm, đến nay các tỉnh thay 
phiên nhau làm cụm trưởng lần lượt là Vĩnh Long, 
Tiền Giang, Trà Vinh, Long An và đến năm 2019 là 
Đồng Tháp.
Từ năm 2014 đến nay, cụm du lịch phía Đông 
đã ký kết hợp tác phát triển du lịch giữa các tỉnh, 
theo đề án xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng 
ĐBSCL nhằm thu hút khách. Các tỉnh đã đưa ra sản 
phẩm du lịch đặc thù của từng tỉnh. Bên cạnh đó, 
cụm đã phối hợp triển khai lập quy hoạch, dự án 
xây dựng các khu, điểm du lịch quốc gia theo Quyết 
6. Báo cáo sơ kết thực hiện Chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch 
cụm phía Đông ĐBSCL 06 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 06 
tháng cuối năm 2018
8. Báo cáo sơ kết thực hiện Chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch 
cụm phía Đông ĐBSCL 06 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 06 
tháng cuối năm 2018
9. Theo 
ket-du-lich-cum-phia-dong-3859.html
định số 2227/QĐ-TTg như khu du lịch quốc gia cù 
lao Thới Sơn (cụm Long, Lân, Quy, Phụng của Tiền 
Giang và Bến Tre), khu du lịch quốc gia Tràm Chim 
- Láng Sen (Đồng Tháp - Long An); các điểm du 
lịch quốc gia “Xứ sở hạnh phúc” (Long An); điểm 
du lịch quốc gia “Văn Thánh Miếu” (Vĩnh Long) và 
làng văn hóa du lịch Khmer và điểm du lịch quốc 
gia Ao Bà Om (Trà Vinh). 
Ngoài ra, đối với liên kết ngoài, Cụm với 
TPHCM đã ký kết hợp tác hỗ trợ trao đổi thông 
tin về công tác quản lý về du lịch, tổ chức Hội thảo 
“Định hướng phát triển ngành du lịch Bến Tre gắn 
với du lịch ĐBSCL”. Và vào khoảng thời gian cuối 
năm 2017, ba tỉnh thuộc tiểu vùng Ðồng Tháp Mười 
là: Ðồng Tháp, Tiền Giang và Long An vừa ký hợp 
tác cùng TP Hồ Chí Minh để cùng nhau phát triển 
du lịch. Theo đó, tour du lịch mới “Một hành trình 
ba điểm đến” lấy điểm xuất phát từ TP Hồ Chí Minh 
đi qua các tỉnh Long An, Tiền Giang và Ðồng Tháp 
bằng đường thủy và đường bộ. Du khách sẽ được 
ghé thăm các địa điểm nổi tiếng của các địa phương 
như: Khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập, khu 
bảo tồn sinh thái Ðồng Tháp Mười; khu di tích lịch 
sử văn hóa khảo cổ quốc gia đặc biệt Gò Tháp; 
vườn quốc gia Tràm Chim
Quảng bá
Về xúc tiến và quảng bá du lịch, cụm cũng đã 
tích cực tham gia các hoạt động do các Bộ, ngành 
Trung ương và các tỉnh, thành tổ chức để thể hiện 
được tiếng nói chung. Thông qua nhiều hoạt động 
hợp tác như các diễn đàn hợp tác, các hội chợ, hội 
nghị, hội thảo xúc tiến du lịch đã tăng cường được 
sự gắn kết, thúc đẩy du lịch từng địa phương phát 
triển mà trọng tâm là du lịch cụm, vùng. 
Cụm cũng đã có một số hoạt động quảng bá nổi 
bật như tham gia Hội chợ du lịch quốc tế (Hội chợ 
du lịch quốc tế Hà Nội (VITM 2014); Hội chợ Du 
lịch quốc tế Hồ Chí Minh (ITE HCMC); Hội chợ 
Du lịch quốc tế Đà Nẵng 2016...); các trung tâm 
xúc tiến du lịch đã phối hợp với báo, đài, tạp chí 
của Tổng cục Du lịch và nhiểu diễn đàn trên toàn 
quốc để giới thiệu hình ảnh, tiềm năng và thế mạnh 
về du lịch của cụm liên kết; thực hiện các ấn chung 
(phim ngắn, brochure, bản đồ du lịch...) cũng đã và 
đang góp phần nâng cao và phát triển hình ảnh du 
lịch cụm du lịch phía Đông đến với du khách trong 
và ngoài nước.
Những hoạt động khác mang tính tập trung hơn 
như trung tâm thông tin xúc tiến du lịch tỉnh Long 
An, Trà Vinh cũng có những hoạt động như phối 
hợp tham gia “Chương trình phát động thị trường 
du lịch tại Campuchia” để giới thiệu, quảng bá du 
lịch của mỗi địa phương; doanh nghiệp du lịch 3 
tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh tổ chức ký kết 
hợp đồng nguyên tắc ưu tiên sử dụng sản phẩm 
dịch vụ của nhau nhằm giúp các doanh nghiệp liên 
minh cũng làm nâng cao hình ảnh và năng lực về 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
41Số 24 - Tháng 12 năm 2018
sự hợp tác và liên kết trong cụm.
Việc liên kết phát triển du lịch của các tỉnh trong 
vùng phía Đông ĐBSCL đến nay có những mặt tích 
cực:
 Cụm du lịch phía Đông đã tích cực tham gia 
từng bước xây dựng hình ảnh du lịch đặc thù của 
Cụm được Hiệp hội du lịch Đồng bằng sông Cửu 
Long và Tổng cục Du lịch ghi nhận, đánh giá cao 
trong công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch. 
Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm 
xúc tiến các tỉnh trong cụm có sự đồng thuận, phối 
hợp hỗ trợ đồng hành thực hiện các công việc trong 
chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch từ 
việc lập quy hoạch, thông tin xúc tiến, liên kết tuyến 
điểm, hỗ trợ cung cấp thông tin, liên kết xúc tiến 
mời gọi đầu tư. Cụm đã tiến hành khảo sát, nghiên 
cứu và đánh giá nhu cầu nhân lực trong ngành du 
lịch để có hướng đào tạo nghề hay định hướng nghề 
nhằm xây dựng một đội ngũ những người làm du 
lịch có chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực phục 
vụ trong ngành du lịch trên toàn cụm.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc liên kết phát triển 
du lịch của cụm còn gặp một số hạn chế sau đây:
Các tỉnh đã xây dựng được sản phẩm đặc thù của 
địa phương mình nhưng khi đưa vào khai thác còn 
mang tính trùng lắp và khá đơn điệu. Du lịch sông 
nước miệt vườn, kết hợp tham quan chợ nổi, di tích 
lịch sử văn hóa cùng với các hoạt động khác như tát 
mương bắt cá, một ngày làm nông dân, tham quan 
vườn cây ăn trái... tạo nên sự trùng lắp và đơn điệu 
trong việc khai thác các sản phẩm du lịch tại các 
địa phương trong cụm. Cách khai thác tiềm năng 
của các tỉnh ĐBSCL như nhau, chẳng hạn đến Tiền 
Giang là chương trình du lịch “Về với ĐBSCL”, 
sang Bến Tre là “Du thuyền trên sông Mê Kông”, 
đến Vĩnh Long là chủ đề về “Về cùng văn minh 
sông nước miệt vườn” và trải qua các năm, các hoạt 
động du lịch đó ít thay đổi10. Ngoài ra, các tuyến 
liên kết du lịch xuyên suốt trên 6 tỉnh còn chưa đầu 
tư phát triển, chỉ dừng lại ở các tuyến liên kết du 
lịch tại các địa phương có vị trí lân cận với nhau 
như Vĩnh Long - Bến Tre, Tiền Giang - Bến Tre và 
Long An - Đồng Tháp. Thêm vào đó, tài nguyên 
biển cũng là một ưu thế của cụm nhưng chưa được 
tập trung khai thác và đưa vào sản phẩm du lịch.
Liên kết quản lý nhà nước về du lịch còn hạn 
chế. Công tác này chỉ dừng lại mức trao đổi, chia sẽ 
kinh nghiệm mà chưa thực hiện công tác toàn diện 
các mặt theo chương trình hợp tác, liên kết phát 
triển du lịch đã đề ra. Các tỉnh trong cụm chưa luân 
phiên tổ chức sự kiện chung để tạo điểm nhấn trong 
công tác quảng bá, xúc tiến du lịch. Công tác này 
chưa thật sự đi vào chiều sâu, chưa xây dựng được 
hình ảnh chung để quảng bá, xúc tiến du lịch; cụm 
chưa có website hay Fanpage riêng để chia sẻ thông 
10. 
long-trong-cho-san-pham-du-lich-dac-trung-hap-dan-du-khach.htm
tin du lịch của các tỉnh hay của toàn cụm. Có đến 
95% lượng khách đến ĐBSCL do các doanh nghiệp 
ngoài vùng đưa đến. Cụm du lịch phía Đông cũng 
chịu sự chi phối tương tự. Lực lượng kinh doanh 
lữ hành của cụm còn ít và thiếu chuyên nghiệp là 
lý do chính làm giảm đi khả năng thu hút trực tiếp 
khách du lịch của doanh nghiệp lữ hành trong và 
ngoài cụm.
3. Kết luận và kiến nghị
Tiềm năng du lịch cụm du lịch cụm liên kết phía 
Đông ĐBSCL là rất lớn và khả năng còn phát triển 
đa dạng, phong phú hơn. Các cơ quan quản lý nhà 
nước và các đơn vị kinh doanh du lịch của 6 tỉnh 
cần tiếp tục quy hoạch, liên kết, đầu tư phát triển 
để tạo nhiều sản phẩm du lịch độc đáo và khác biệt 
để thu hút khách; từng bước đầu tư và củng cố hệ 
thống cơ sở vật chất; nâng cao chất lượng dịch vụ, 
đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách để phát triển 
du lịch tương xứng với tiềm năng của cụm liên kết 
phát triển du lịch phía Đông Đồng bằng sông Cửu 
Long. Để làm được điều này, nhóm nghiên cứu đưa 
ra một số kiến nghị cho sự liên kết phát triển du lịch 
của cụm như sau: 
- Xây dựng và phát triển phong trào “Một làng 
- một sản phẩm” (Viết tắt tiếng Anh: OVOP từ One 
Village One product) tại mỗi địa phương trên toàn 
Cụm. Mỗi tỉnh, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ 
thể của mình, lựa chọn ra một làng nghề, một sản 
phẩm hay một thương hiệu độc đáo, mang đậm nét 
đặc trưng của địa phương để phát triển và ứng dụng 
vào các hoạt động du lịch.
- Cụm cần xây dựng kế hoạch phối hợp liên kết 
và phát triển du lịch cho các địa phương trong thời 
gian từ 2 đến 4 năm để việc phân khúc thời gian 
thực hiện tốt hơn; cần thực hiện tuyên truyền chéo 
để thông tin lẫn nhau, đồng thời cũng nắm được 
thông tin chung cho toàn cụm.
- Trong hoạt động truyền thông, quảng bá cần 
tiến hành xây dựng phim tư liệu, video quảng bá 
du lịch hay cổng thông tin điện tử trong đó nhấn 
mạnh thế mạnh riêng của từng địa phương. Trong 
quá trình tham gia các triển lãm du lịch ở các khu 
vực khác, nên xem xét và tiếp tục xây dựng gian 
hàng triển lãm chung của Cụm. Bên cạnh đó, Cụm 
cần nhất quán và lựa chọn một mô hình tổ chức sự 
kiện (Tuần lễ văn hóa - du lịch; festival, lễ hội du 
lịch; carnival hay roadshow...) mang đặc thù của 6 
tỉnh, luân phiên tổ chức hàng năm hoặc 2 năm một 
lần, nhằm tạo nên sức hút và sự khác biệt giữa Cụm 
và các điểm đến khác.
- Cụm cần đầu tư hơn nữa việc liên kết giữa các 
địa phương trong Cụm tạo thành chuỗi sản phẩm du 
lịch đặc trưng, gắn với du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái 
và tìm hiểu các giá trị văn hóa dân tộc địa phương. 
Bên cạnh đó, mở rộng và khuyến khích các doanh 
nghiệp lữ hành để các doanh nghiệp này chủ động 
hơn trong việc liên kết nhằm khai thác tối đa thế 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
42 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
mạnh của từng địa phương, đưa ra chương trình cụ 
thể, để từ đó tạo ra các sản phẩm du lịch có chất 
lượng cao nhằm thu hút các đối tượng du khách đến 
từ các thị trường du lịch trọng điểm.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Văn Huân, Liên kết vùng từ lý luận đến 
thực tiễn, Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu 
2012, Viện Kinh tế Việt Nam.
Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thị Quỳnh Anh, 
(2017), Liên kết vùng tiểu vùng trong phát 
triển du lịch vùng Tây Bắc: Từ lý luận đến 
thực tiễn, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc 
gia Hà Nội, tháng 10.
Phạm Trung Lương, (2007), Phát triển sản phẩm 
du lịch đặc thù, nâng cao sức cạnh tranh của 
du lịch Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam.
Nguyễn Minh Tuệ, (2013), Địa lý du lịch Việt 
Nam, NXB. Giáo Dục.
Bùi Tất Thắng, (2017), Liên kết với các vùng và 
địa phương pháp triển kinh tế xã hội, Tạp chí 
Xây dựng và Đô thị, số 55.
Tổng cục Du lịch Việt Nam, (2012), Chiến lược 
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, 
tầm nhìn đến năm 2030.
Ngân hàng Thế giới, (2009), Tái định dạng địa 
kinh tế, NXB. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2227/
QĐ-TTg ngày 18/11/2016 về “Phê duyệt 
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng 
ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030”.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Quyết định số 
803/QĐ - BVHTTDL ngày 9/3/2012 về “Đề 
án phát triển du lịch ĐBSCL”.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Quyết định số 
194/QĐ - BVHTTDL ngày 23/1/2015 về phê 
duyệt đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc 
thù vùng ĐBSCL”.
UBND tỉnh Long An, Sở Văn hóa, Thể thao và 
Du lịch Long An, Báo cáo sơ kết thực hiện 
Chương trình hợp tác, liên kết phát triển du 
lịch cụm phía Đông ĐBSCL 06 tháng đầu 
năm và phương hướng nhiệm vụ 06 tháng 
cuối năm 2018, ngày 19 tháng 7 năm 2018.
UBND tỉnh Long An, Sở Văn hóa, Thể thao và 
Du lịch Long An, Biên bản Hội nghị sơ kết 
thực hiện hợp tác, liên kết phát triển du lịch 
cụm phía Đông ĐBSCL 06 tháng đầu năm và 
phương hướng nhiệm vụ 06 tháng cuối năm 
2018, ngày 19 tháng 7 năm 2018.
UBND tỉnh Trà Vinh, Sở Văn hóa, Thể thao và 
Du lịch Trà Vinh, Báo cáo tổng kết Chương 
trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch Cụm 
phía Đông ĐBSCL và Thành phố Hồ Chí 
Minh năm 2017, ngày 29 tháng 12 năm 2017.
lich-5-tinh-lien-ket-cum-phia-dong-dong-
bang-song-cuu-long.html.
cum-phia-Dong-DBSCL-Nhieu-nhung-da-
manh-03-8969.html.
du-lich-ben-tre-va-cum-lien.html.
vu/201511/cum-du-lich-phia-dong-dbscl-
thuc-hien-ban-do-du-lich-nam-dia-phuong-
mot-diem-den-2639485/#.W9u69h8XrIU.
https://www.dulichtravinh.com.vn/index.php/
tin-tuc/tin-tuc-tong-hop/280-lien-ket-du-
lich-4-tinh-cum-phia-dong-dbscl-tra-vinh-
voi-bai-toan-lien-ket.

File đính kèm:

  • pdflien_ket_phat_trien_du_lich_cum_du_lich_phia_dong_dong_bang.pdf