Lịch sử phát triển thông tin khoa học xã hội Hàn Quốc

Cũng giống như nhiều nước châu á

khác, KHXH cũng được thừa nhận trong

lịch sử truyền thống của Hàn Quốc. Từ

thế kỷ XV, trong Cung điện Hoàng gia

của vua Sejong và các phủ, điện đều

treo các băng rôn, khẩu hiệu khuyến

khích sự biết đọc, biết viết trong dân

chúng. Thậm chí, các bảng chữ cái mới

của Hàn Quốc (Hangul) còn được dán ở

khắp nơi. Các học giả khoa học của

Hoàng gia rất có trách nhiệm trong các

ấn phẩm xuất bản về kinh tế nông

nghiệp, về việc mô tả địa hình Hàn

Quốc, về việc biên soạn các mã số luật

pháp và lịch sử đất nước. Viện Khoa học

Hoàng gia Hàn Quốc (Chiphyunjon) là

tổ chức phụ trách các Viện nghiên cứu

có tài trợ của Chính phủ và vẫn tồn tại

cho đến ngày nay. Chính phủ Hàn Quốc

khuyến khích hoạt động nghiên cứu

trong rất nhiều lĩnh vực bao gồm cả

KHXH

 

pdf 6 trang kimcuc 10080
Bạn đang xem tài liệu "Lịch sử phát triển thông tin khoa học xã hội Hàn Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lịch sử phát triển thông tin khoa học xã hội Hàn Quốc

Lịch sử phát triển thông tin khoa học xã hội Hàn Quốc
LịCH Sử PHáT TRIểN THÔNG TIN KHOA HọC 
Xã HộI HàN QUốC 
 Phạm Thị Thanh Bình (*) 
àn Quốc có hoàn cảnh lịch sử khá 
đặc biệt nh−ng đã v−ơn lên từ 
một n−ớc nghèo (GDP/đầu ng−ời khoảng 
90,9 USD năm 1962) trở thành một quốc 
gia có nền kinh tế hùng hậu đứng thứ 11 
trên thế giới với GDP/đầu ng−ời đạt 
29.791 USD (năm 2010). Bí quyết của 
Hàn Quốc là dựa vào phát triển nguồn 
nhân lực thông qua phát triển khoa học. 
Chính sách phát triển khoa học của Hàn 
Quốc (bao gồm cả khoa học xã hội - 
KHXH) luôn đ−ợc xây dựng phù hợp với 
yêu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế. 
I. Thực trạng phát triển thông tin KHXH ở Hàn Quốc 
1. Lịch sử của thông tin KHXH 
Cũng giống nh− nhiều n−ớc châu á 
khác, KHXH cũng đ−ợc thừa nhận trong 
lịch sử truyền thống của Hàn Quốc. Từ 
thế kỷ XV, trong Cung điện Hoàng gia 
của vua Sejong và các phủ, điện đều 
treo các băng rôn, khẩu hiệu khuyến 
khích sự biết đọc, biết viết trong dân 
chúng. Thậm chí, các bảng chữ cái mới 
của Hàn Quốc (Hangul) còn đ−ợc dán ở 
khắp nơi. Các học giả khoa học của 
Hoàng gia rất có trách nhiệm trong các 
ấn phẩm xuất bản về kinh tế nông 
nghiệp, về việc mô tả địa hình Hàn 
Quốc, về việc biên soạn các mã số luật 
pháp và lịch sử đất n−ớc. Viện Khoa học 
Hoàng gia Hàn Quốc (Chiphyunjon) là 
tổ chức phụ trách các Viện nghiên cứu 
có tài trợ của Chính phủ và vẫn tồn tại 
cho đến ngày nay. Chính phủ Hàn Quốc 
khuyến khích hoạt động nghiên cứu 
trong rất nhiều lĩnh vực bao gồm cả 
KHXH (xem thêm: 1).∗ 
Truyền thống của Chính phủ Hàn 
Quốc (cũng nh− nhiều n−ớc châu á 
khác) là tiếp tục tài trợ cho các hoạt 
động nghiên cứu. Chính phủ Hàn Quốc 
rất chú trọng khuyến khích hoạt động 
của nghiên cứu KHXH cũng nh− phát 
triển các nguồn thông tin cho KHXH. 
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, do 
những kiến thức trong khoa học tự 
nhiên và khoa học kỹ thuật cũng nh− kỹ 
năng quản lý công nghiệp giành đ−ợc sự 
−u tiên cao hơn nên nghiên cứu KHXH 
ở Hàn Quốc không có đ−ợc đặc quyền 
lớn và đ−ợc cấp kinh phí thấp hơn nhiều 
so với khoa học kỹ thuật và khoa học tự 
nhiên. Nh−ng, thành công trong khoa 
học tự nhiên giúp cho tăng tr−ởng kinh 
tế nhanh đã khuyến khích nghiên cứu 
KHXH. 
Năm 1945, cùng với sự thiết lập của 
Nhà n−ớc, việc thiết lập hệ thống giáo 
dục hiện đại đ−ợc đ−a lên hàng đầu. 
Trong hệ thống giáo dục, ngoài bậc 
(∗)
 PGS. TS., Viện Kinh tế và Chính trị thế giới. 
H 
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2011 
Mầm non thì bậc Tiểu học (chodeung-
hakgyo) gồm từ lớp 1 đến lớp 6 (8 đến 13 
tuổi), bậc Trung học gồm từ lớp 7 đến 
lớp 12 (14 tuổi đến 19) bao gồm cấp II 
(jung-hakgyo) – lớp 7, 8, 9 và cấp III 
(godeung- hakgyo) - lớp 10,11,12. Cấp 
III có phân ban khá sâu (Khoa học, 
Công nghệ, Nông nghiệp, Tài chính, 
Ngoại ngữ, Nghệ thuật). Tỷ lệ tốt 
nghiệp phổ thông trung học ở Hàn Quốc 
th−ờng cao tới 97%, thuộc loại cao nhất 
thế giới. 
Năm 1953, nhờ Chính phủ thực hiện 
chế độ giáo dục nghĩa vụ nên tất cả quốc 
dân đều đ−ợc h−ởng miễn phí thời gian 
giáo dục cấp I (6 năm). Ngày nay Hàn 
Quốc tự hào là n−ớc có tỷ lệ mù chữ thấp 
nhất thế giới. Có thể nói đó chính là 
nguồn nhân lực −u tú đ−ợc nền giáo dục 
đào tạo nên đã trở thành nguồn động lực 
cho sự tăng tr−ởng cao tốc mà Hàn Quốc 
đã đạt đ−ợc trong suốt hơn 40 năm qua. 
2. Thực trạng phát triển của thông 
tin KHXH 
Số l−ợng các ấn phẩm xuất bản 
thuộc ngành KHXH của Chính phủ Hàn 
Quốc, của các tổ chức thuộc Chính phủ 
bao gồm các doanh nghiệp có đầu t− của 
Chính phủ và các cơ quan liên quan đến 
Chính phủ tăng rất nhanh. Theo thống 
kê, các ấn phẩm của Chính phủ đ−ợc 
xuất bản năm 1996 có tất cả 4.697 đầu 
sách, trong đó hơn 3000 đầu sách, tạp 
chí (chiếm khoảng 66%) thuộc các 
ngành KHXH, tăng 6% so với năm 1993 
vế số l−ợng tạp chí KHXH của Chính 
phủ đ−ợc xuất bản (2). 
Thời kỳ Hàn Quốc bắt đầu mở rộng 
phát triển kinh tế vào đầu những năm 
1960 cũng đánh dấu sự tăng tr−ởng 
mạnh các ấn phẩm chính thức thuộc các 
cơ quan chính phủ, thể hiện không chỉ ở 
số l−ợng đầu sách xuất bản mà còn ở 
việc nâng cao chất l−ợng bài viết. Ví dụ, 
các số liệu thống kê năm 1960 đã 
chuyển đổi từ ứng dụng các số liệu 
thống kê nhân khẩu học cơ bản sang 
phân tích các thông tin đa chiều về đặc 
tr−ng của kinh tế xã hội áp dụng cơ sở 
dữ liệu máy tính. Hoạt động này nhằm 
thu đ−ợc những số liệu thích hợp cho 
mỗi một lĩnh vực. 
Thành công khác nữa của KHXH 
Hàn Quốc là tất cả các ấn phẩm của các 
tổ chức chính phủ đều chuyển đổi từ 
hình thức in ấn thông th−ờng sang in 
ấn điện tử. Các cơ quan chính phủ đều 
sử dụng Internet và trang web đều đ−ợc 
viết bằng cả tiếng Hàn lẫn tiếng Anh. 
Nội dung và chất l−ợng các địa chỉ trang 
chủ này khác nhau giữa các tổ chức cơ 
quan chính phủ. Ví dụ, một số cơ quan 
chính phủ xuất bản cả danh mục các tài 
liệu liên quan, một số cơ quan khác lại 
đứng tên địa chỉ homepage là ủy ban 
Biên soạn lịch sử quốc gia NHCC 
(National Historical Compilation 
Commmittee); Tòa án tối cao (the 
Supreme Court); Cục thống kê quốc gia 
(National Statistical Office); Th− viện 
quốc gia (the National Library) và Th− 
viện quốc hội (National Assembly 
Library). Cơ quan thống kê quốc gia 
NSC bắt đầu xây dựng các cơ sở dữ liệu. 
Ngày nay các dữ liệu này đang trở 
thành nguồn trích dẫn quan trọng của 
nghiên cứu KHXH. Các nguồn thông tin 
điện tử mà Chính phủ Hàn Quốc cung 
cấp trên mạng Internet chắc chắn sẽ 
nâng cao số l−ợng và chất l−ợng của các 
thông tin KHXH toàn cầu. 
3. Các thể loại xuất bản của thông 
tin KHXH 
Nguồn thông tin KHXH có 3 thể 
loại, đ−ợc phát hành bởi các chi nhánh 
của Chính phủ. Các dạng ấn phẩm này 
bao gồm; 1) báo cáo thống kê hàng năm; 
2) báo cáo hàng năm và sách xuất bản 
Lịch sử phát triển 
27 
hàng năm; 3) sách trắng. Cả 3 dạng ấn 
phẩm này hợp thành nguồn trích dẫn 
quan trọng cho các nhà KHXH. Các ấn 
phẩm của Chính phủ Hàn Quốc rất giàu 
các báo cáo số liệu thống kê. Việc xuất 
bản các báo cáo này đ−ợc thực hiện theo 
Luật Thống kê của Chính phủ, đ−ợc các 
bộ, ngành của Chính phủ theo dõi, phân 
tích hàng năm. Sách thống kê xuất bản 
hàng năm (Tonnggye Yongam) đ−ợc 
phát hành bởi các tổ chức của Chính 
phủ là những đầu sách nổi tiếng trong 
lĩnh vực này. Tên đầu sách và các giáo 
trình sách thống kê hàng năm đều đ−ợc 
trình bày d−ới dạng song ngữ (tiếng 
Hàn và tiếng Anh) và đều có các số liệu 
thống kê quốc tế để nhằm mục đích so 
sánh. Trong số các ấn phẩm xuất bản 
của Chính phủ, các báo cáo thống kê 
hàng năm (chiếm khoảng 35% ấn phẩm) 
đ−ợc bán rất chạy (xem bảng 1). 
Nguồn: SCImago Research Group, 
Copyright 2007-2010. Data Source of Korea 
Academy of Social Sciences. KOSSDA 
(Korea Social Science Data Archives). 
Sách trắng đ−ợc xuất bản ở Hàn 
Quốc với tiêu đề Baiksuh và đ−ợc hầu 
hết các bộ phát hành. Các báo cáo này 
của Chính phủ chủ yếu giải quyết các 
vấn đề thời sự quốc gia. Hình thức báo 
cáo này có từ năm 1948. Rất nhiều các 
ấn phẩm kinh tế, chính trị, xã hội đ−ợc 
các Bộ chuyên ngành phân tích. Khác 
với báo cáo thống kê, sách trắng của 
Hàn Quốc hầu nh− chỉ đ−ợc viết bằng 
tiếng Hàn. 
4. Cách kiểm soát th− mục và công 
cụ tiếp cận 
Mặc dù Hàn Quốc đã nổi danh trong 
hoạt động từ “bắt ch−ớc sang sáng tạo” ở 
cả những vấn đề kinh tế và kỹ thuật, 
song một số thông tin về các kết quả 
sáng tạo của Hàn Quốc cũng nằm trong 
diện Chính phủ bảo mật thông tin, công 
chúng khó mà có thể tiếp cận. Cách tiếp 
cận duy nhất tới các ấn phẩm của Chính 
phủ là thông qua các chỉ số và catalog 
chuyên ngành đ−ợc phát hành bởi chính 
các tổ chức đó. Hai trong số các ban 
ngành xuất bản nhiều nhất là Cục 
thống kê quốc gia (NSO - National 
Statistical Office) và Bộ Thống nhất 
(Ministry of Unification). Th− viện quốc 
gia (National Library) và Th− viện quốc 
hội (National Assembly Library) rất tích 
cực phổ biến các thông tin KHXH thông 
qua các dự án th− viện số hóa. 
Hai công cụ tiếp cận chính tới 
các ấn phẩm của Chính phủ Hàn 
Quốc là Bảng danh mục phát hành 
của Chính phủ (Catalog of 
Government Publications) đ−ợc 
phát hành hàng năm bởi Văn 
phòng phát hành của Chính phủ 
(GPO - Government Publishing Office) 
và bộ phận in ấn của Chính phủ trong 
Th− mục quốc gia Hàn Quốc (KNB - 
Korean National Bibliography) đ−ợc 
Th− viện quốc gia phát hành. 
Trung tâm dữ liệu KHXH Hàn Quốc 
(KSDC - Korean Social Science Data 
Center) đ−ợc thành lập nhằm mục tiêu 
quản lý và l−u giữ các số liệu, tập hợp 
các số liệu nhằm phát triển bộ môn 
KHXH trong thời đại toàn cầu hóa và 
thông tin. Các số liệu quốc tế và quốc 
gia liên quan đến KHXH đ−ợc l−u giữ 
d−ới dạng song ngữ (cả tiếng Hàn và 
tiếng Anh). 
28 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2011 
II. Mức chi phí cho hoạt động thông tin KHXH 
1. Sự phân loại các ấn phẩm của 
ngành KHXH 
Mặc dù, trên thực tế có sự ràng buộc 
chặt chẽ giữa tăng tr−ởng kinh tế và 
phát triển nguồn thông tin KHXH, song 
rõ ràng đây không phải là mối liên hệ 
duy nhất. Nhiều năm sau Chiến tranh 
thế giới lần thứ Hai, các thế hệ ng−ời 
Hàn Quốc đã lao động hết mình d−ới các 
chính quyền. Tr−ớc năm 1992, các 
nguồn thông tin KHXH mà Chính phủ 
tuyên truyền đ−ợc xem nh− ít có tác 
dụng thông tin. Nhờ có sự xuất hiện của 
nền dân chủ, chất l−ợng và số l−ợng các 
ấn phẩm của Chính phủ tăng lên rõ rệt, 
đặc biệt là các vấn đề liên quan đến 
KHXH. Tầm quan trọng của môi tr−ờng 
chính trị mở cửa sẽ là điều lôi cuốn nhất 
bởi nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc 
xuất bản, phổ biến và ứng dụng nguồn 
thông tin KHXH. 
Trong khi số l−ợng các ấn phẩm của 
Chính phủ do các tổ chức khác nhau 
phát hành ngày càng tăng nhanh trong 
những năm gần đây (trên thực tế đã 
tăng gấp đôi trong giai đoạn 1992 – 
1997, từ 2.680 tài liệu lên 4.697 tài liệu) 
(1), thì ph−ơng pháp phân loại một cách 
có hệ thống và tập trung vẫn ch−a có, 
đặc biệt ph−ơng pháp thiết kế để tiếp 
cận đ−ợc tới đông đảo dân chúng. Trong 
khi đa số các ấn phẩm của Chính phủ 
đ−ợc biên soạn và biên tập thống nhất 
bởi các tổ chức chính phủ thì các tổ chức 
in ấn của t− nhân phát hành rất khác 
nhau. Các thể loại tài liệu này đ−ợc phân 
loại hoặc là theo tổ chức phát hành, 
hoặc là theo giá cả sách thông qua sự 
thiết kế của các trung tâm mua bán. 
Th− viện Quốc hội, Th− viện quốc 
gia, Dịch vụ l−u trữ Quốc gia (National 
Archives and Records Services) và Th− 
viện văn phòng phát hành chính phủ 
(Library of the Government Publishing 
Office) là những th− viện kho chứa theo 
đúng nghĩa của pháp luật. Tất cả các cơ 
quan chính phủ, bao gồm các doanh 
nghiệp có đầu t− của chính phủ và các 
tổ chức liên quan đến chính phủ, họăc 
của quốc gia hoặc của địa ph−ơng theo 
luật pháp đều phải để lại ấn phẩm của 
mình trong các th− viện kho chứa (th− 
viện ký gửi - depository library). 
Mặc dù từ “Nappon Tosohkwan” 
đ−ợc dịch là th− viện kho chứa, tuy 
nhiên về ngữ nghĩa nó khác nhau khi 
đ−ợc sử dụng trong các ấn phẩm của 
Chính phủ Mỹ. ở Mỹ, các ấn phẩm 
thuộc cơ quan chính phủ liên bang Mỹ 
đều đ−ợc ký gửi trong các th− viện của 
Chính phủ nhằm mục đích phân phát 
tới công chúng và để công chúng có thể 
tiếp cận đ−ợc. ở Hàn Quốc, khái niệm 
“th− viện ký gửi” hay “ký gửi” là của các 
nhà xuất bản (bao gồm các tổ chức của 
Chính phủ) trong các th− viện đã đ−ợc 
chọn lựa (th−ờng là các th− viện của 
Chính phủ) nhằm mục đích giữ gìn bảo 
tồn di sản văn hóa, bảo đảm quyền tác 
giả, trao đổi quốc tế và cuối cùng là tiếp 
cận đến công chúng. 
Hệ thống ký gửi theo luật pháp lần 
đầu tiên đ−ợc đ−a ra năm 1963 theo 
Luật Th− viện (Library Laws). Tr−ớc 
thời gian này, năm 1961 tất cả các nhà 
xuất bản đều yêu cầu phải nộp 2 bản 
photocopy nội dung xuất bản cho Bộ 
Giáo dục, sau đó Bộ sẽ chuyển cho Th− 
viện quốc gia. Năm 1963, Luật Hội đồng 
quốc gia (National Assembly Law) số 
1424 yêu cầu tất cả các cơ quan chính 
phủ phải ký gửi 3 bản photocopy nội 
dung xuất bản cho Th− viện hội đồng 
quốc gia. Từ năm 1991, 3 bản photocopy 
nội dung xuất bản này đ−ợc chuyển tới 
các chi nhánh hành chính thực hiện của 
Lịch sử phát triển 
29 
Chính phủ theo tỉnh, thành và ủy ban 
giáo dục tỉnh, thành, đồng thời cũng 
đ−ợc ký gửi trong Dịch vụ l−u trữ và 
thu băng của Chính phủ. Từ năm 1996, 
Th− viện của cơ quan xuất bản chính 
phủ cũng đ−ợc tiếp nhận ký gửi 3 bản 
nội dung xuất bản đó. 
2. Mức chi phí của ngành 
KHXH 
Học phí đại học đã bắt đầu 
tăng với tốc độ nhanh hơn sau 
khi Chính phủ Hàn Quốc cấp 
quyền tự chủ hành chính, trong 
đó bao gồm cả việc đ−ợc tăng học 
phí cho các tr−ờng đại học t− thục (năm 
1989) cũng nh− các tr−ờng đại học công 
lập (năm 2003). 
Dù các môn học đều đ−ợc chú trọng 
nh− nhau, nh−ng có thể nhận thấy, các 
môn KHXH trong ch−ơng trình giáo dục 
của Hàn Quốc rất phong phú, bao gồm 
lịch sử, chính trị, xã hội, kinh tế, văn 
hóa Hàn Quốc và thế giới... Tất cả đều 
đ−ợc Bộ Giáo dục quản lý thống nhất 
trên toàn quốc. Hệ ch−ơng trình KHXH 
này đ−ợc thay đổi 10 năm/lần. Năm 
2000 là lần thay đổi thứ bảy với tiêu chí 
mới: Phát triển dân chủ công dân. 
 Hàn Quốc cùng sự lớn mạnh thần 
tốc về khoa học kỹ thuật, kinh tế và văn 
hóa, đã trở thành một “đại gia” mới nổi 
trong làng giáo dục quốc tế. Đây cũng là 
quốc gia có mức đầu t− vào giáo dục cao 
nhất châu á và xếp vào nhóm đứng đầu 
thế giới. Hàn Quốc có các tr−ờng đại học 
và Viện nghiên cứu đ−ợc xếp hạng cao 
trên thế giới nh− đại học Quốc gia 
Seoul, Yonsei, Hanyang, Viện KIST, 
Viện KAIST 
 Năm 2010, học phí của các tr−ờng 
đại học ở Hàn Quốc đã tăng 1,29% so với 
năm 2009, với mức tăng trung bình 6, 
85 triệu won mỗi năm. Theo các ngành 
học, các tr−ờng đại học mỹ thuật và giáo 
dục thể chất thu học phí khoảng 8,11 
triệu Won/năm, các ngành y khoa thu 
8,08 triệu Won, ngành kỹ s− thu 7,39 
triệu Won, các ngành khoa học tự nhiên 
thu 6,66 triệu Won, các ngành KHXH thu 
6,2 triệu Won, các ngành học về con ng−ời 
thu 6,11 triệu Won và thấp nhất là các 
ngành s− phạm thu 5,88 triệu Won (bảng 
2, xem: 1). 
Đại học Hongilk ở Chochiwon có 
mức thu học phí cao nhất cho các ngành 
học về con ng−ời, Đại học Yonsei thu 
học phí cao nhất cho các ngành KHXH, 
Đại học Hallym là ngành giáo dục học, 
Đại học Hàn Quốc là các ngành kỹ s−, 
Đại học Seokyeong là các ngành y d−ợc 
trong khi học phí các ngành mỹ thuật 
và giáo dục thể chất của Đại học Hanseo 
thu học phí cao nhất. 
Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, giáo 
dục Hàn Quốc đạt đ−ợc nhiều thành 
tích một phần là nhờ phát triển của 
khoa học xã hội. Năm 2006 tham gia 
vào Ch−ơng trình đánh giá học sinh 
quốc tế (PISA), Hàn Quốc đã đạt kết 
quả rất cao, chỉ đứng sau Phần Lan, xếp 
hạng thứ 1 về năng lực đọc-hiểu, thứ 2 
về Toán và thứ 7 về khoa học trong số 
30 nền kinh tế thành viên của tổ chức 
OECD. Thành tựu trên tr−ớc hết là nhờ 
Hàn Quốc có một nền tảng cơ sở vật 
chất kinh tế - xã hội phát triển hết sức 
mạnh mẽ. Thêm vào đó là việc đề cao vị 
trí đặc biệt của giáo dục đối với xã hội, 
30 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2011 
cộng với tinh thần hiếu học và nhu cầu 
giáo dục càng cao của ng−ời dân đã góp 
phần thúc đẩy giáo dục Hàn Quốc phát 
triển mạnh mẽ. Thành tích này có sự 
đóng góp không nhỏ của công tác nghiên 
cứu, giảng dạy KHXH của Hàn Quốc. 
Tài liệu tham khảo chính 
1. Myoung C. Wilson. Evolution of 
Social Science Information Sources in 
Asia: the South Korean Case. Annual 
Conference. Rutgers The State 
University of New Jersey, 2000. 
2. Myoung C. Wilson. Introduction to 
Korean Government Publications, 
Lanham, Maryland, Scarecrow 
Press, 2009. 
3. Agrawal, S.P. Appropriation of 
National Social Science Information 
Resources, 1977. INSPEL 26, No.4, 
pages 247-262. 
4. Chongbu Kanhaengmul Mongnok. 
The Catalog of Government 
Publications. 1977, Seoul, Chongbu 
Kanhaengmul Jaejakso, p.764. 
5. Lianjie Wang. Research on Early 
Korean Independence Movement 
and the Patriotic again Japan in 
Northeast China. Asian Social 
Science, 2010, Vol. 6, No.3, March. 
Liaoning Academy of Social Science. 
6. "Chuẩn bị cho t−ơng lai của Hàn 
Quốc thông qua học suốt đời". Bắc 
Kinh, ngày 19/6/2007. 
(tiếp theo trang 24) 
Có thể nói, quan niệm địa chính trị 
về không gian sinh tồn là một quan 
niệm rất nguy hại. Nó mang tính chất 
của chủ nghĩa sôvanh n−ớc lớn và một 
thời gian dài đã ngự trị trong t− t−ởng 
chính trị của các c−ờng quốc, gây ra 
những cuộc xâm l−ợc chiếm đất làm 
thuộc địa và tranh giành quyền lợi địa 
chính trị giữa các c−ờng quốc. Ngày nay, 
học thuyết này không còn đ−ợc công 
khai thừa nhận, nh−ng tham vọng bành 
tr−ớng lãnh thổ của nhiều n−ớc trên thế 
giới vẫn ch−a mất hẳn. Tuy nhiên, 
phong trào thế giới đấu tranh ủng hộ sự 
độc lập của các dân tộc đã khiến các 
n−ớc lớn phải thay đổi quan điểm, từ 
quan điểm bành tr−ớng sinh học sang 
quan điểm mở rộng tầm ảnh h−ởng để 
thống trị thế giới. 
Ngày nay, với việc Hoa Kỳ đang có 
tham vọng điều khiển toàn thế giới, 
cũng nh− với việc các c−ờng quốc khác 
nh− Nga, Trung Quốc, ấn Độ cũng 
không che giấu tham vọng cạnh tranh 
với Mỹ, thì xu h−ớng địa chính trị hợp 
nhất vẫn là một xu h−ớng chủ chốt 
trong đ−ờng lối chiến l−ợc phát triển 
quốc gia của các n−ớc lớn mà chúng ta 
cần quan tâm để có đối sách thoả đáng. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nayyar Shamsi. Encyclopaedia of 
Political Geography. 
d =DJCnZlJVf9oC&dq... 
2. Francis P. Sempa. “Mackinder’s 
World”.  
diplomat/AD_Issues/ 
amdipl_14/sempa_mac1.html 

File đính kèm:

  • pdflich_su_phat_trien_thong_tin_khoa_hoc_xa_hoi_han_quoc.pdf