Lịch sử chống ngoại xâm - Cơ sở hình thành triết lí yêu nước Việt Nam

Triết lí yêu nước Việt Nam là những tri thức lí luận

chung nhất được đúc kết trong quá trình hình thành và

phát triển đất nước. Đó là những tình cảm sâu sắc, là thái

độ đúng đắn của con người đối với quê hương đất nước;

là những quan điểm nhất quán về lòng trung thành, ý chí

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm hướng tới lợi ích dân

tộc, lợi ích nhân dân. Triết lí yêu nước được hình thành

không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà còn do chịu sự

tác động của nhiều yếu tố khác nhau đến tiến trình đó. Ở

Việt Nam, triết lí yêu nước đã được hình thành trước sự

tác động của những đặc điểm điều kiện tự nhiên, trình độ

KT-XH, văn hóa, tư tưởng, lịch sử đấu tranh chống ngoại

xâm để dựng nước và giữ nước. Trong bài viết này, tác

giả làm rõ nội dung lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại

xâm để giải phóng dân tộc và gìn giữ Tổ quốc.

pdf 5 trang kimcuc 7320
Bạn đang xem tài liệu "Lịch sử chống ngoại xâm - Cơ sở hình thành triết lí yêu nước Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lịch sử chống ngoại xâm - Cơ sở hình thành triết lí yêu nước Việt Nam

Lịch sử chống ngoại xâm - Cơ sở hình thành triết lí yêu nước Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 155-158; 226 
155 
Email: dongtuyentt@gmail.com 
LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM 
- CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÍ YÊU NƯỚC VIỆT NAM 
Đồng Thị Tuyền - Trường Đại học Thành Tây 
Ngày nhận bài: 25/05/2018; ngày sửa chữa: 09/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018. 
Abstract: The history of fighting against foreign invasion of our nation is one of the foundations 
for Vietnam’s patriotic philosophy. Clearly, from the birth of the national history, Vietnamese 
people were soon practiced in the sense of building and protecting the country and this sense has 
been maintained up to now. The article reconstructs the picture in the struggle against foreign 
invasion through the ages: The beginning of forming and defending the country; The period of 
more than a thousand years against the northern invaders (179 BC-10th century); The period of 
resistance to reserve of national independence (10th - 19th centuries); The period of struggle for 
national liberation and defense of the early modern and modern (1858 - 1975). In each period, the 
author analyzes the interactions between the objective demands of foreign invasions and the 
perceptions and actions of the leadership and the people in the struggle for national liberation and 
protection. 
Keywords: Foreign invasion, fighting, national foundation, defense, national independence, 
people. 
1. Mở đầu 
Triết lí yêu nước Việt Nam là những tri thức lí luận 
chung nhất được đúc kết trong quá trình hình thành và 
phát triển đất nước. Đó là những tình cảm sâu sắc, là thái 
độ đúng đắn của con người đối với quê hương đất nước; 
là những quan điểm nhất quán về lòng trung thành, ý chí 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm hướng tới lợi ích dân 
tộc, lợi ích nhân dân. Triết lí yêu nước được hình thành 
không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà còn do chịu sự 
tác động của nhiều yếu tố khác nhau đến tiến trình đó. Ở 
Việt Nam, triết lí yêu nước đã được hình thành trước sự 
tác động của những đặc điểm điều kiện tự nhiên, trình độ 
KT-XH, văn hóa, tư tưởng, lịch sử đấu tranh chống ngoại 
xâm để dựng nước và giữ nước. Trong bài viết này, tác 
giả làm rõ nội dung lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại 
xâm để giải phóng dân tộc và gìn giữ Tổ quốc. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Thời kì bắt đầu dựng nước và giữ nước 
Việt Nam có một vị trí rất quan trọng trên các lĩnh 
vực chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế trong mối quan 
hệ giữa các quốc gia trên lục địa châu Á nói chung, khu 
vực Đông Nam Á nói riêng; là một địa bàn chiến lược 
trọng yếu nên qua các thời đại bọn xâm lược đều muốn 
xâm chiếm để thực hiện mưu đồ của chúng. Bởi thế, 
ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc, nhu cầu chống 
ngoại xâm đã trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy sự 
phát triển của xã hội Văn Lang. Con người Việt Nam 
vừa mới gắng sức vươn lên khỏi cuộc sống thiên nhiên 
đầy khắc nghiệt, liền sau đó phải đương đầu với nhiều 
kẻ thù xâm lược như: “giặc Man”, “giặc Ân”, “giặc Hồ 
Tôn”, “giặc Hồ Xương”, “giặc Mũi Đỏ”, “giặc Thục” 
Hiện thực khách quan đó là cái cốt lõi lịch sử của truyền 
thuyết Thánh Gióng đượm màu thần thoại phản ánh và 
ngợi ca tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm của dân 
tộc ta thời bấy giờ. Chính vì vậy, dân tộc Việt Nam sớm 
được tôi luyện trong ý thức dựng nước và giữ nước. Đó 
là hai mặt cơ bản nhất trong nội dung đời sống xã hội 
của nhân dân ta. Cũng là những điều kiện khách quan 
khiến cho nước Văn Lang trình độ phát triển còn thấp 
nhưng đã sớm khắc phục được tình trạng rời rạc, lẻ tẻ, 
mâu thuẫn dẫn đến làm nảy sinh trong nhân dân mầm 
mống ý thức dân tộc, ý thức ấy ngày càng phát triển với 
tiến trình lịch sử dân tộc. 
Thời kì nước Âu Lạc, dân tộc ta phải đấu tranh chống 
lại quân Tần trong suốt 10 năm ròng. Quân Tần bị thất 
bại, buộc chúng phải rút lui về nước. Sự thất bại của quân 
xâm lược Tần đã cho thấy trình độ, khả năng của nhân 
dân ta thời đó đủ sức đối đầu với sự xâm lược có quy mô 
lớn hơn. Đó là sức mạnh của hàng nghìn năm, người Việt 
đã tạo dựng cho mình một cuộc sống nề nếp, một xã hội 
trật tự, nền văn hóa độc đáo. Đó là tinh thần đoàn kết, ý 
thức cộng đồng, ý thức dân tộc trong sự nghiệp dựng và 
giữ nước không ngừng củng cố và phát triển. Nhưng rồi, 
cuộc kháng chiến bị thất bại bởi sự chủ quan, mất cảnh 
giác của An Dương Vương nên đã bị mắc mưu của Triệu 
Đà. Từ năm 179 TCN, nước ta đã rơi vào thảm họa mất 
nước, bị phong kiến phương Bắc đô hộ trong suốt hơn 
một nghìn năm. Đây là thời kì đầy thử thách cam go đối 
với sự sống còn của dân tộc. Nhưng chính trong khoảng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 155-158; 226 
156 
thời gian lâu dài đó nhân dân ta với ý chí độc lập đã nêu 
cao tinh thần quật cường, bất khuất, vượt lên khó khăn, 
bền bỉ đấu tranh giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa 
dân tộc, quyết giành lại được độc lập dân tộc. 
2.2. Thời kì hơn nghìn năm chống Bắc thuộc 
Sang đầu công nguyên, cùng với rất nhiều cuộc đấu 
tranh chống lại chính quyền ở địa phương nhằm vào 
chống sưu cao, thuế nặng, chống lại sự hà khắc của các 
quan cai trị, còn có hàng chục cuộc đấu tranh hướng 
tới mục đích đánh đổ chính quyền đô hộ. 
Cuộc đấu tranh mang tính chất dân tộc rõ nhất thời kì 
này là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40. 
Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng giành được thắng lợi. Nền 
độc lập dân tộc lại được phục hồi. Tuy nền độc lập tồn 
tại ngắn ngủi (3 năm), nhưng tiếng vang của cuộc khởi 
nghĩa đời đời bất diệt. Nó là tia lửa nhen nhóm lên tinh 
thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, ý chí quật cường 
không bao giờ lay chuyển sự quyết tâm giành lại nền độc 
lập dân tộc; nó hun đúc tinh thần bất khuất không chịu 
khuất phục bất cứ kẻ thù nào dù kẻ địch mạnh đến đâu; 
nó là tấm gương ngời sáng cho ý chí chiến đấu vươn lên 
của dân tộc; nó khai phá, mở đường, định hướng cho các 
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tiếp theo với quyết 
tâm: bất kì trong hoàn cảnh nào, nhân dân ta quyết giành 
thắng lợi hoàn toàn. 
Chính sách áp bức, bóc lột hà khắc của kẻ thù về mặt 
khách quan có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển về 
vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Tương quan lực 
lượng giữa ta và địch còn khá chênh lệch. Kẻ thù còn 
mạnh hơn ta về nhiều mặt. Nhưng không vì điều kiện đó 
mà làm lung lạc ý chí, tự lực, tự cường của dân tộc. Trái 
lại, càng hun đúc, tôi luyện ý chí đấu tranh với kẻ thù 
xâm lược. Ý chí đó được thể hiện ở những cuộc khởi 
nghĩa liên tiếp ở các thế kỉ tiếp theo. 
Sang đầu thế kỉ II, phong trào khởi nghĩa lại dần dần 
khôi phục, phát triển đều khắp, có tính liên tục và phổ biến. 
Từ những cuộc khởi nghĩa nhỏ bé, lẻ tẻ đã phát triển thành 
cuộc khởi nghĩa lớn. Tiêu biểu cho phong trào khởi nghĩa 
của nhân dân ta ở thế kỉ II - III là cuộc khởi nghĩa của Bà 
Triệu năm 248. Do lực lượng quá chênh lệch nên cuộc 
khởi nghĩa nhanh chóng bị tiêu diệt. Cuộc khởi nghĩa tuy 
bị dập tắt nhưng quân thù không thể làm lay chuyển được 
con tim, khối óc của nhân dân ta. Vì vậy, sau cuộc khởi 
nghĩa Bà Triệu, phong trào yêu nước của nhân dân ta vẫn 
kiên nhẫn, bền bỉ tiếp diễn lúc công khai, lúc lặng lẽ trong 
suốt thời kì thống trị của phong kiến phương Bắc. 
Thật vậy, các cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày càng nhiều 
với quy mô và kết quả ngày càng lớn. Đó là cuộc khởi 
nghĩa có quy mô lớn nhất và thắng lợi lớn nhất của Lý Bí 
năm 542, đánh tan quân Lương, vào năm 544, Lý Bí 
tuyên bố dựng nước, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lên ngôi 
hoàng đế, tự xưng là Nam Đế; Kháng chiến chống nhà 
Tùy của Lý Phật Tử năm 602; dưới thời thuộc Đường có 
các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687; 
của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) năm 722, của Phùng 
Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 766-791, của Dương 
Thanh (815-820) Đặc biệt, Khúc Thừa Dụ đã tập hợp 
dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền đô hộ của nhà 
Đường năm 905. Đến đây cuộc đấu tranh giành độc lập 
của nước ta về cơ bản đã thành công. Tiếp đến Dương 
Đình Nghệ đã đánh tan quân Nam Hán năm 931 và tiếp 
tục công cuộc tự chủ của họ Khúc, củng cố chính quyền 
phát triển lực lượng. Cuối cùng là chiến thắng oanh liệt 
của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng năm 938 dưới 
sự chỉ huy của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Đây 
là mốc son chói lọi của lịch sử Việt Nam. Nó kết thúc 
hoàn toàn thời kì thống trị kéo dài hơn 1000 năm của 
phong kiến phương Bắc. Dân tộc ta đã giành được quyền 
làm chủ đất nước. Mở ra thời kì mới - thời kì độc lập lâu 
dài của dân tộc. 
Những thắng lợi trên đã minh chứng cho sự trưởng 
thành, phát triển của ý thức dân tộc, của tinh thần quyết 
chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. 
Lịch sử đã kiểm chứng trong hơn nghìn năm Bắc 
thuộc, nhân dân ta mất nước nhưng làng không mất. 
Làng vẫn giữ vững, phục hồi, tái lập trên khắp đất nước. 
Cái gì đã làm cho làng có sức mạnh bền vững và dẻo dai 
như thế, đó là văn hóa làng. Bám vào làng xã, người Việt 
đã đoàn kết đùm bọc lấy nhau đấu tranh có hiệu quả 
chống lại chính sách nô dịch và đồng hóa của người Hán. 
Trong làng xã nhân dân ta vẫn giữ được sự ngưng kết 
đậm đặc những biểu hiện trong lối sống, phong tục tập 
quán, kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng - tôn giáo, 
không chỉ bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống, mà 
còn tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại nhập 
phù hợp với cuộc sống của mình và liên kết nhau trong 
cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc. Chính 
quyền đô hộ không với tới được vào cuộc sống làng xã. 
Chính vì vậy, dựa vào tổ chức làng xã, nhân dân ta vẫn 
duy trì và phát triển sản xuất. Những thành quả trên các 
lĩnh vực kinh tế, văn hóa làm tăng thêm sức mạnh góp 
phần tích cực trong cuộc đấu tranh đánh đổ ách thống trị 
của chính quyền đô hộ giành lại chủ quyền dân tộc. 
Chính điều đó thể hiện sức sinh tồn của dân tộc, là một 
trong những cơ sở quan trọng hình thành triết lí yêu nước 
Việt Nam. 
2.3. Các cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc 
từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX 
Từ đầu thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX là kỉ nguyên phát 
triển của quốc gia phong kiến độc lập và lớn lên nhanh 
chóng của dân tộc Việt Nam - thời kì xây dựng và bảo vệ 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 155-158; 226 
157 
nền độc lập dân tộc. Dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê 
nhà nước trung ương tập quyền được xác lập. Đinh Bộ Lĩnh 
sau khi dẹp “loạn 12 sứ quân” đã thống nhất đất nước, đặt 
quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Sau thắng lợi của cuộc kháng 
chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất năm 981, đất 
nước bước vào thời kì phục hưng và phát triển dưới các 
vương triều Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ, với tên nước là Đại Việt. 
Ngay từ thời Lý, công cuộc xây dựng đất nước được tiến 
hành trên phạm vi quy mô lớn. Nước Đại Việt dưới các 
vương triều nêu trên là một trong những thời kì phát triển 
rực rỡ nhất của đất nước và là một trong những quốc gia 
thịnh vượng ở châu Á thời bấy giờ. Vì thế được lịch sử 
mệnh danh là Kỉ nguyên văn minh Đại Việt. 
Trên bước đường xây dựng quốc gia vững mạnh thì nạn 
ngoại xâm vẫn thường xuyên đe dọa tới nền độc lập dân tộc. 
Nên việc xây dựng đất nước luôn phải gắn liền với bảo vệ 
đất nước. Thật vậy, từ thế kỉ X đến thế kỉ XV không có thế 
kỉ nào dân tộc ta không phải chống giặc ngoại xâm. Đó là 
hai lần chống quân Tống dưới thời Tiền Lê và thời Lí, ba 
lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thời Trần; đó là cuộc 
kháng chiến chống quân Minh dưới triều Hồ; là cuộc khởi 
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo đánh đổ 
ách thống trị của nhà Minh, hoàn thành sự nghiệp giải phóng 
dân tộc. Kỉ nguyên Đại Việt đã trải qua nhiều bước thăng 
trầm bên cạnh những chiến công chói lọi, có lúc thất bại tạm 
thời, nhưng khi có giặc ngoại xâm thì nhân dân ta đều đồng 
lòng, kiên quyết đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập 
dân tộc. Kỉ nguyên Đại Việt đã để lại những thành tựu rực 
rỡ trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là những trang sử 
đẹp mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm của nhân dân ta. 
Từ thế kỉ XVI, nguy cơ ngoại xâm đã bị đẩy lùi về 
phía sau, khi quyền thống trị đã được củng cố, nhưng do 
hạn chế về giai cấp, chế độ phong kiến quan liêu đã bộc 
lộ sự yếu kém, lạc hậu và bắt đầu suy thoái. Đại Việt lâm 
vào tình trạng nội chiến Lê-Mạc (1543-1592), tiếp đến 
Trịnh - Nguyễn (1627-1672). Chiến tranh đã làm mờ 
nhạt ý thức của nhân dân đối với đất nước. Chiến tranh 
chấm dứt, đất nước lại lâm vào tình trạng biệt lập Đằng 
Trong, Đằng Ngoài. Thực trạng đó, đã đưa đến bao đổi 
thay trong ý thức về đất nước của nhân dân ta, đặc biệt 
đối với nông dân nghèo; phá vỡ cố kết cộng đồng trong 
suốt hai thế kỉ. Hậu quả chiến tranh và chia cắt đất nước 
đã kìm hãm sự phát triển đất nước và gây tai hại lớn đến 
đời sống nhân dân. Bởi thế, dẫn đến mâu thuẫn xã hội 
ngày càng gay gắt, tất yếu phong trào nông dân sẽ bùng 
nổ. Phong trào nông dân Tây Sơn giữa thế kỉ XVIII 
không nằm ngoài sự đòi hỏi tất yếu đó. Dưới sự lãnh đạo 
của Nguyễn Huệ, từ cuộc khởi nghĩa nông dân, phong 
trào Tây Sơn đã phát triển thành một phong trào dân tộc 
rộng lớn, dẫn đến kết quả chấm dứt tình trạng chia cắt lâu 
dài, thiết lập lại nền thống nhất đất nước và đã tiến hành 
thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống quân Xiêm ở 
phía Nam và quân Thanh ở phía Bắc. 
2.4. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chiến 
tranh bảo vệ Tổ quốc thời cận, hiện đại (1858-1975) 
Khác với các triều đại trước thường được thiết lập trên 
cơ sở chiến thắng của những cuộc chiến tranh giải phóng 
dân tộc, hoặc sau khi hoàn thành những nhiệm vụ chống 
ngoại xâm, bảo vệ độc lập, củng cố đất nước; ngược lại, triều 
Nguyễn - vương triều cuối cùng lại được dựng lên bằng một 
cuộc nội chiến mà kẻ chiến thắng đã dựa một phần vào thế 
lực bên ngoài. Điều đó về khách quan triều Nguyễn đã đi 
ngược lại nguyện vọng và quyền lợi của dân tộc. 
Với bản chất phản động của triều Nguyễn, khi thực 
dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, triều đình nhà 
Nguyễn bạc nhược không kiên trì lãnh đạo nhân dân 
chiến đấu đến cùng mà từng bước đầu hàng quân xâm 
lược. Với việc kí kết Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), đến đây 
chế độ phong kiến Việt Nam với ý nghĩa là một vương 
triều độc lập đã sụp đổ. Việt Nam từ một nước phong 
kiến độc lập đã trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. 
Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng đế quốc, 
nhưng với truyền thống yêu nước, nhân dân ta không 
chịu khuất phục trước sự xâm lược của thực dân Pháp, 
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo các khuynh 
hướng phong kiến, tư sản diễn ra rất mạnh mẽ. Những 
phong trào tiêu biểu cuối thế kỉ XIX như phong trào Cần 
Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đều không thành công. 
Điều đó chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều 
kiện để lãnh đạo phong trào thắng lợi. 
Sang đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng 
của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi như: phong trào 
Đông Du, phong trào Duy Tân. Ngoài ra, thời kì này còn có 
nhiều phong trào đấu tranh khác: phong trào Đông Kinh 
Nghĩa Thục, phong trào “tẩy chay khách trú”, phong trào 
chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn 
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp 
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cho thấy con đường cứu 
nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản 
đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam đang lâm vào tình trạng 
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chính trong hoàn 
cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm 
đường cứu nước và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin 
tìm thấy con đường cứu nước mới - con đường cách 
mạng vô sản. Sau khi trở thành người chiến sĩ cộng sản, 
Người đã tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ 
chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua 15 năm đấu tranh, 
nhân dân ta đã giành được thắng lợi của cuộc Cách mạng 
Tháng Tám 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 155-158; 226 
158 
hòa, nước Việt Nam đã trở thành nước độc lập, tự do. 
Thắng lợi đó, là thắng lợi của tinh thần, ý chí, trí tuệ của 
con người Việt Nam, của truyền thống yêu nước và văn 
hóa Việt Nam. Nó kết tinh những truyền thống đấu tranh 
kiên cường bất khuất của dân tộc có lịch sử hàng ngàn 
năm chống ngoại xâm. Truyền thống yêu nước đó được 
nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. 
Nền độc lập của đất nước chưa được bao lâu, thực 
dân Pháp quay lại chiếm nước ta một lần nữa. Tổ quốc 
lại lâm nguy! Với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết 
sinh” phát huy truyền thống yêu nước, cả nước lại nhất 
tề đứng lên bước vào cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc 
lập dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua 9 năm 
kháng chiến đầy hi sinh, gian khổ, nhưng với tinh thần 
dũng cảm, ý chí kiên cường bất khuất, nhân dân ta đã 
giành được thắng lợi. 
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 
là thắng lợi của tinh thần yêu nước; của khối đoàn kết 
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; của ý chí 
“Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, 
nhất định không chịu làm nô lệ”[1; tr 480]. 
Trước thử thách lớn lao đối với cả dân tộc, lại phải 
đương đầu với kẻ thù mới - đế quốc Mĩ xâm lược, dưới sự 
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta lại bước 
vào cuộc kháng chiến vô cùng gay go quyết liệt. Với ý chí 
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, trải qua 21 năm chiến 
đấu, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhân dân ta đã 
thu được thắng lợi hoàn toàn; đất nước hòa bình, độc lập, 
thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của 
dân tộc ta lại ghi thêm những trang sử mới, minh chứng 
sức mạnh của lòng yêu nước, khối đại đoàn kết dân tộc, 
chung sức, chung lòng, quyết chiến, quyết thắng trong 
hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm ròng vì độc lập thống 
nhất Tổ quốc. Chưa bao giờ nhân dân ta, dân tộc ta đoàn 
kết thống nhất và tạo nên sức mạnh to lớn như trong hai 
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. 
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của Việt Nam, hầu 
như thời kì nào, triều đại nào nhâ`n dân ta cũng đều phải 
đứng lên đánh giặc giữ nước. Hiếm có một dân tộc nào trên 
thế giới buộc phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh yêu 
nước và khởi nghĩa chống ngoại xâm như nước ta. Kể từ 
cuộc kháng chiến chống quân Tần thế kỉ III TCN đến cuộc 
kháng chiến chống đế quốc Mĩ thế kỉ XX, trong thời gian 
22 thế kỉ thì có tới 12 thế kỉ nhân dân ta phải tiến hành hàng 
trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, hàng chục 
cuộc chiến tranh giữ nước. Điều khác so với các nước trên 
thế giới là độ dài thời gian, tần số xuất hiện, số lượng các 
cuộc khởi nghĩa. Hơn nữa, dân tộc ta đối đầu chống ngoại 
xâm trong điều kiện kẻ thù dân tộc là những đế chế đang 
trong thời kì cực thịnh, có kẻ thù đang tung hoành trên các 
lục địa Á - Âu và đang gây ra biết bao đau thương, tàn phá 
nhiều dân tộc như đế quốc Mông - Nguyên ở thế kỉ XIII, 
hay đế quốc Mĩ đầu sỏ ở thế kỉ XX; trong sự so sánh 
tương quan lực lượng khá chênh lệch như: “Nhà Tống trong 
cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai (1075-1077) đã huy động 
hơn 30 vạn quân các loại, khi ấy số dân Đại Việt có khoảng 
4 triệu người, quân thường trực nhà Lý có chừng 5-7 vạn 
người. Đế chế Nguyên trong hai cuộc xâm chiếm Đại Việt 
1285, 1288 đã huy động tới gần 1 triệu quân: cuộc xâm lược 
năm 1285 là 50 vạn quân, cuộc xâm lược năm 1288 trên 30 
vạn quân. Khi đó quân thường trực nhà Trần lúc cao nhất 
chỉ có khoảng 30 vạn người. Cuối thế kỉ XVIII, nhà Thanh 
đã huy động tới 29 vạn quân, còn quân đội của Nguyễn Huệ 
có chừng 10 vạn” [2; tr 35-36]. 
Trong thế kỉ XX, nhân dân ta phải thực hiện hai cuộc 
chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ có vũ khí 
tối tân và mức độ tàn phá nặng nề. Như “trong kháng chiến 
chống thực dân Pháp, về vũ khí giữa ta và Pháp khá chênh 
lệch, tính đến tháng 3/1954, pháo binh địch có tới 594 khẩu, 
ta có 80 khẩu; máy bay địch 580 chiếc, ta không có; tàu 
chiến, địch có 391 chiếc, ta không có” [3; tr 487]. Trong 
chiến tranh xâm lược Việt Nam “chỉ tính trong năm 1972, 
Mĩ đã sử dụng tới 2710 chiếc máy bay chiến đấu chiến thuật 
và 476 chiếc máy bay B52. Ngoài ra còn có 740 chiếc của 
quân Ngụy Nam Việt Nam” [4; tr 509]. “Khối lượng bom 
của không quân, hải quân Mĩ ném thả trong chiến tranh xâm 
lược Việt Nam 1965-1972, đối với miền Bắc là 937300 tấn, 
miền Nam là 4.444.700 tấn, tổng cộng cả hai miền lên tới 
5.382.000 tấn” [4; tr 541]. 
Chặng đường dài đấu tranh chống quân xâm lược nói 
trên là những trang sử vàng tô thắm lịch sử oai hùng của dân 
tộc. Trong từng thời kì, mỗi cuộc chiến tranh đều khắc sâu 
những dấu ấn riêng, đó là những bài học kinh nghiệm vô giá 
lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ví như: Cuộc 
kháng chiến chống Tống lần thứ hai, triều Lý đã biết chủ 
động tiến công địch trước. Cuộc kháng chiến chống Mông 
- Nguyên của triều Trần đã coi trọng, tập hợp khối đoàn kết 
cả nước, dựa vào dân để tiến hành chiến tranh nhân dân 
chống lại kẻ thù lớn mạnh, hung hãn nhất lúc bấy giờ. Nó 
trở thành kế sách giữ nước, như lời căn dặn vua Trần của 
Trần Quốc Tuấn trước lúc từ trần: “Vả lại, khoan thư sức 
dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước” 
[5; tr 80]. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thời Lê Lợi - 
Nguyễn Trãi từ khởi nghĩa địa phương phát triển thành 
chiến tranh giải phóng cả nước. Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã 
biết tạo thế thông qua việc tổ chức xây dựng lực lượng, kết 
hợp nhiều hình thức đấu tranh, các lĩnh vực đấu tranh. 
Trong chiến tranh giữ nước chống quân xâm lược nhà 
Thanh, Quang Trung - Nguyễn Huệ đã để lại thế trận dũng 
mãnh, thần tốc, táo bạo, bất ngờ. 
(Xem tiếp trang 226)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 222-226 
226 
biểu diễn; phân tích những ưu, khuyết điểm của họ để rút 
kinh nghiệm cho bản thân mình. Một trong những điểm 
quan trọng là giao tiếp bằng mắt, điều đó sẽ đem lại sự 
kết nối về cảm xúc giữa người hát và người nghe. Thông 
qua đó, người hát cũng sẽ biết được tâm trạng của khán 
giả, có thể tác động để họ cùng hòa mình vào tác phẩm. 
Phong cách tự tin, làm chủ sân khấu phải được rèn 
luyện thường xuyên. Yếu tố cần thiết để tạo nên sự tự tin 
đó là phải có sự chuẩn bị đầy đủ các kĩ năng biểu diễn, 
tạo bản lĩnh cho mình. Trên sân khấu, người ca sĩ có thể 
nhập vai, thoát khỏi đời sống thường nhật, kiểm soát 
được hành động diễn và đối diện với đám đông một cách 
tự tin, vững vàng. Luyện tập sẽ giúp cho SV khám phá 
khả năng thực sự của mình, giúp cho bản thân tự tin hơn, 
từ đó các em sẽ tạo được sự tin cậy từ khán giả cũng như 
tăng sự tự tin trong cho bản thân. 
3. Kết luận 
Nhận diện được một số điểm còn hạn chế trong dạy 
hát nhóm cho SV Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật 
Quân đội, việc bổ sung các ca khúc tập thể vào chương 
trình rất quan trọng, một mặt giúp cho tài liệu giảng dạy 
thêm phong phú, góp phần nâng cao chất lượng trong quá 
trình dạy học thanh nhạc; mặt khác sẽ giúp cho các em 
cảm nhận tốt hơn những giá trị văn hóa và tinh thần của 
cha ông để lại. Để phù hợp với dạy học trong thời kì mới, 
bên cạnh giờ học chính khóa, cần phải quan tâm đến các 
sinh hoạt ngoại khóa, đặc biệt là các giờ học nhóm, khai 
thác khả năng phối hợp dàn nhạc cho SV. Đó là một 
trong những yêu cầu cấp thiết, giúp các em sau khi ra 
trường có thể làm việc và cống hiến một cách tốt nhất 
cho nhu cầu hiện nay của xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Trung Kiên (2006). Chương trình chuyên 
ngành thanh nhạc Đại học. NXB Âm nhạc. 
[2] Hồ Mộ La (2008). Phương pháp dạy thanh nhạc. 
NXB Từ điển bách khoa. 
[3] Trần Ngọc Lan (2011). Phương pháp hát tốt tiếng Việt 
trong nghệ thuật ca hát. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[4] Vũ Tự Lân - Lê Thế Hào (1998). Phương pháp hát 
và chỉ huy dàn dựng hát tập thể. NXB Giáo dục. 
[5] Lại Thế Luyện (2012). Kĩ năng làm việc đồng đội. 
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 
[6] Ngô Thị Nam (1994). Âm nhạc và phương pháp 
giáo dục âm nhạc, tập I. NXB Hà Nội. 
[7] Tú Ngọc (chủ biên, 2000). Âm nhạc mới Việt Nam: 
Tiến trình và thành tựu. NXB Viện Âm nhạc. 
LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM... 
(Tiếp theo trang 158) 
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế 
quốc Mĩ nói chung, chống đế quốc Mĩ nói riêng cũng đã để 
lại những dấu ấn đậm nét, những bài học kinh nghiệm quý 
báu, đó là: “Toàn dân đánh Mĩ, cả nước đánh Mĩ, đồng thời 
tiến hành hai chiến lược cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu 
giải phóng miền Nam; chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn 
diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh; lựa chọn 
phương thức chiến tranh thích hợp; ba tầng mặt trận thống 
nhất chống Mĩ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và 
trên thế giới; không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu 
lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh” [6; tr 331]. 
Những bài học trong kháng chiến chống giặc ngoại 
xâm của dân tộc vẫn còn giữ nguyên giá trị trong công 
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa ngày nay. 
3. Kết luận 
Triết lí yêu nước Việt Nam không phải là cái gì đó ngẫu 
nhiên. Sự hình thành và phát triển của triết lí đó là do sự tác 
động của những đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. Lịch sử 
chống giặc ngoại xâm là một trong những cơ sở hình thành 
và phát triển triết lí đó. Trong quá trình dựng nước và giữ 
nước, triết lí yêu nước Việt Nam không ngừng phát triển. 
Nó rèn luyện tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất, 
tạo nên khí phách kiên cường, sẵn sàng chịu đựng mọi hy 
sinh gian khổ, biến thành sức mạnh nội sinh trong mỗi 
con người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng (1995). Toàn tập 
(tập 1). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[2] Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ 
Chính trị (2000). Chiến tranh cách mạng Việt Nam 
1945- 1975: Thắng lợi và bài học. NXB Chính trị 
Quốc gia - Sự thật. 
[3] Hậu phương chiến tranh nhân dân 1945-1975 
(1997). NXB Quân đội nhân dân. 
[4] Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại 
của đế quốc Mĩ (1982). NXB Quân đội nhân dân. 
[5] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn 
thư (1967) (tập 2: Ngoại kỉ; bản chữ Hán in đời Lê, 
quyển 5, quyển 2 bản dịch). NXB Khoa học xã hội. 
[6] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình 
quốc gia các Bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh (2001). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng 
sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[7] Lê Văn Hưu - Phan Phu Tiên - Ngô Sĩ Liên (1272 - 
1697). Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch). NXB Khoa 
học xã hội. 

File đính kèm:

  • pdflich_su_chong_ngoai_xam_co_so_hinh_thanh_triet_li_yeu_nuoc_v.pdf