Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam

Trong những năm qua, kinh tế du lịch (KTDL) ở Việt Nam đã phát triển nhanh

chóng và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, những đóng góp của

ngành này còn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước. Trong phạm vi bài

viết này, chúng tôi khái quát kinh nghiệm của một số nước (Trung Quốc, Thailand,

Singapore) về các mặt như: chính sách của nhà nước về phát triển KTDL; kinh nghiệm

đào tạo nhân lực du lịch; xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch; liên kết hợp tác

trong phát triển KTDL. Đây có thể xem là những gợi ý hữu ích nhằm khai thác tốt hơn

tiềm năng và thế mạnh của ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay, thúc đẩy ngành kinh tế

này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.

pdf 7 trang kimcuc 19220
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam

Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số nước và gợi ý cho Việt Nam
 Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch ở một số nước 
và gợi ý cho Việt Nam 
Nguyễn Thị Hồng Lâm(*) 
Nguyễn Kim Anh(**) 
Tóm tắt: Trong những năm qua, kinh tế du lịch (KTDL) ở Việt Nam đã phát triển nhanh 
chóng và đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, những đóng góp của 
ngành này còn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước. Trong phạm vi bài 
viết này, chúng tôi khái quát kinh nghiệm của một số nước (Trung Quốc, Thailand, 
Singapore) về các mặt như: chính sách của nhà nước về phát triển KTDL; kinh nghiệm 
đào tạo nhân lực du lịch; xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch; liên kết hợp tác 
trong phát triển KTDL... Đây có thể xem là những gợi ý hữu ích nhằm khai thác tốt hơn 
tiềm năng và thế mạnh của ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay, thúc đẩy ngành kinh tế 
này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. 
Từ khóa: Kinh tế du lịch, Kinh nghiệm quốc tế, Trung Quốc, Thailand, Singapore, Việt Nam 
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có 
tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa 
cao. Hoạt động của ngành kinh tế này 
không chỉ đáp ứng nhu cầu du lịch ngày 
càng tăng của người dân mà còn đóng vai 
trò quan trọng “xuất khẩu tại chỗ” các sản 
phẩm hàng hóa và dịch vụ. Nhiều nước đã 
coi KTDL là ngành “công nghiệp không 
khói”, mang lại lợi ích vô cùng lớn. 
KTDL không chỉ đóng góp vào tăng 
trưởng kinh tế của đất nước, mà còn tạo 
động lực phát triển các ngành kinh tế 
khác, tạo nhiều cơ hội việc làm và thu 
nhập cho người dân, là phương tiện quảng 
bá hiệu quả hình ảnh đất nước,v.v...(*)(**) 
(*)
 TS., Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 
Email: nguyenhonglam_79@yahoo.com 
(**)
 ThS., Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Trung Quốc, Thailand, Singapore là 
các nước khá thành công trong việc phát 
triển ngành kinh tế này. Qua nghiên cứu 
hoạt động kinh tế du lịch ở các quốc gia 
này, có thể rút ra một số bài học kinh 
nghiệm sau: 
1. Nhà nước quan tâm phát triển kinh tế 
du lịch, coi đây là một ngành công nghiệp 
không khói 
- Xác định đúng vai trò của KTDL 
trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội 
là một trong những yếu tố quan trọng 
hàng đầu để phát triển KTDL 
Ở ba quốc gia Trung Quốc, Thailand, 
Singapore, phát triển KTDL đều được coi 
là một lĩnh vực quan trọng thúc đẩy phát 
triển kinh tế vùng và đất nước. Từ việc 
xác định vai trò của KTDL, cả ba nước 
Kinh nghiệm phŸt triển§ 39 
đều chú trọng hoạch định chính sách về 
KTDL, tạo môi trường chính sách và pháp 
luật đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy 
KTDL phát triển nhằm nâng cao sức cạnh 
tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc 
tế. Các chính sách về KTDL đều dựa trên 
bối cảnh phát triển KTDL quốc tế và trong 
nước, kết quả nghiên cứu thị trường, chính 
sách của đối thủ cạnh tranh và đòi hỏi bức 
thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh 
trong hội nhập kinh tế quốc tế. 
Đặc biệt ở Trung Quốc, Chính phủ 
luôn đóng vai trò trụ cột trong dẫn dắt 
KTDL phát triển. Trong quá trình chuyển 
đổi cơ chế từ kế hoạch hóa quan liêu bao 
cấp sang cơ chế thị trường, nền kinh tế 
Trung Quốc nói chung và KTDL nói riêng 
đều mang đậm dấu ấn của lãnh đạo nhà 
nước. Tư duy mô hình phát triển KTDL 
Trung Quốc được xây dựng từ thấp đến 
cao, từ thuần túy mang ý nghĩa phục vụ 
chính trị sang kinh doanh theo nhu cầu thị 
trường, từ đơn giản, thô ráp sang tinh tế và 
ngày càng chuyên nghiệp. Những bước 
tiến rõ rệt qua từng giai đoạn là kết quả 
của việc cải thiện môi trường chính sách, 
tháo bỏ rào cản, giải phóng sức sản xuất 
và trả lại tự do kinh doanh cho xã hội. Nhà 
nước đã không chỉ quản lý vĩ mô mà còn 
tham gia quản lý vi mô (thông qua doanh 
nghiệp du lịch nhà nước), đề cao tính 
đồng bộ với tinh thần trách nhiệm rất cao, 
giải quyết nhanh những nút thắt cản trở 
hoạt động kinh doanh du lịch. Chính phủ 
nước này luôn tạo điều kiện tài chính cho 
đầu tư cơ sở vật chất - hạ tầng, cũng như 
cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch, 
nhằm hiện đại hóa cho KTDL để đảm bảo 
được những điều kiện vật chất nhất định 
nhằm phục vụ tốt nhất cho du khách, giữ 
chân du khách lưu trú dài hơn trong 
chuyến đi của họ, từ đó KTDL có thu 
nhập nhiều hơn và sẽ sớm hoàn thành các 
mục tiêu đề ra. 
Về chiến lược cạnh tranh điểm đến, cả 
ba quốc gia đều xây dựng khá toàn diện. 
Nội dung kế hoạch nhằm nâng cao năng 
lực cạnh tranh trong từng giai đoạn, phù 
hợp với định hướng thị trường và yêu cầu 
thực tiễn phát triển KTDL. Trong bối cảnh 
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cuộc 
khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ cuối năm 
2008 đến nay, KTDL rất dễ bị tổn thương 
do những biến đổi về kinh tế, chính trị, xã 
hội và môi trường. Hơn nữa, nhu cầu và 
xu hướng đi du lịch của khách du lịch rất 
đa dạng và luôn thay đổi, nên việc xây 
dựng chiến lược cạnh tranh và có kế hoạch 
cụ thể, linh hoạt trong từng giai đoạn là rất 
cần thiết nhằm thích ứng kịp thời với diễn 
biến mới trên thị trường thế giới. 
- Chính phủ có chính sách quốc gia 
xuyên suốt cho phát triển KTDL và coi 
trọng chiến lược KTDL 
Để hỗ trợ thực hiện hiệu quả các chiến 
dịch phát triển KTDL tổng thể, chính phủ 
các nước này đã cung cấp các khoản đầu 
tư lớn từ nguồn ngân sách cho các hoạt 
động xúc tiến, quảng bá điểm đến, phát 
triển cơ sở hạ tầng du lịch, kết hợp với các 
biện pháp tạo thuận lợi cho khách du lịch 
như miễn giảm thuế giá trị gia tăng, miễn 
thị thực. Cụ thể: 
 Ở Thailand, Chính phủ có chính sách 
quốc gia xuyên suốt để hỗ trợ cho KTDL. 
Thực chất chính sách này không cần quan 
tâm KTDL đóng góp bao nhiêu vào GDP, 
mà chỉ quan tâm du khách đến Thailand 
đã chi bao nhiêu tiền vào các hàng hóa, 
dịch vụ để góp phần phát triển kinh tế-xã 
hội cho Thailand. Thailand luôn đặt mục 
tiêu thu nhập từ khách du lịch nói chung 
và hiệu quả kinh tế-xã hội của cả nước lên 
hàng đầu. Vì thế, chính sách quốc gia của 
họ là các ngành phải hỗ trợ cho KTDL 
phát triển để thực hiện xuất khẩu tại chỗ. 
Chẳng hạn, Chính phủ Thailand đã áp 
40 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 12.2016 
dụng chính sách hàng không giá rẻ để thu 
hút khách du lịch. Ngành hàng không sẵn 
sàng hỗ trợ cho KTDL bằng cách giảm giá 
vé, từ đó góp phần giảm giá cho các 
chương trình du lịch đến Thailand. Điều 
đó đã giải thích nguyên nhân tại sao giá 
các chương trình du lịch đến Thailand rất 
hợp lý để thu hút khách quốc tế, từ đó 
đem lại nguồn thu lớn cho đất nước 
Thailand, hỗ trợ cho các ngành kinh tế 
khác cùng phát triển. 
Với Singapore, Chính phủ cũng rất 
coi trọng chiến lược, kế hoạch và các 
chính sách thúc đẩy phát triển KTDL. Các 
nhà hoạch định chính sách ở quốc gia này 
đều nhận thức rằng, muốn phát triển 
KTDL trở thành một trong những ngành 
kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong 
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của 
quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển 
KTDL này phải thông qua một hệ thống 
cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm huy 
động mọi nguồn lực để thực hiện, đưa 
KTDL phát triển với tốc độ cao và vững 
chắc. Hệ thống cơ chế chính sách phải 
xuất phát từ những đặc trưng của du lịch 
là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên 
ngành, liên vùng, xã hội hóa cao, mang 
tính toàn cầu hóa, khu vực hóa. KTDL 
càng phát triển thì tính chất xã hội hóa của 
nó càng cao, sự liên ngành và phạm vi 
hoạt động càng rộng rãi. Ngoài ra, cơ chế 
và các chính sách phát triển KTDL phải 
thích ứng với điều kiện thực tế, tận dụng 
được thời cơ và vận hội ở từng thời điểm. 
2. Lập chương trình xúc tiến, quảng bá 
du lịch 
- Làm tốt chiến lược maketing, tổ 
chức xúc tiến sản phẩm và điểm đến du 
lịch, xem đây là kênh giới thiệu sản phẩm 
du lịch đến với du khách 
Việc thực hiện chiến lược xúc tiến, 
quảng bá thương hiệu điểm đến của Trung 
Quốc, Thailand và Singapore luôn được 
xây dựng, tổ chức công phu, kịch bản chặt 
chẽ và khoa học. Nội dung quảng bá, xúc 
tiến thường tập trung vào một hoặc hai sản 
phẩm cụ thể chứ không dàn trải ra nhiều 
chi tiết, hạng mục, điểm đến. Họ luôn 
tham gia các kỳ hội chợ với một hoặc hai 
sản phẩm du lịch, không nhiều hơn và đó 
luôn là những sản phẩm đã hoàn chỉnh, 
“chỉ cần bấm nút khởi động”. 
Trung Quốc đưa ra các chương trình 
xúc tiến, quảng bá du lịch rất ấn tượng, 
được thiết kế thường xuyên, mang tính 
thống nhất cao và rất đặc trưng. Nhờ công 
tác xúc tiến, quảng bá có chất lượng mà 
quốc gia này đã thúc đẩy sự phát triển của 
KTDL, giúp KTDL Trung Quốc phát triển 
năng động và ngày càng đóng góp nhiều 
hơn cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. 
- Coi trọng đầu tư cho chiến lược xúc 
tiến du lịch 
Tổng cục Du lịch Thailand đặc biệt 
coi trọng hoạt động xúc tiến, quảng bá 
thông qua hàng loạt chiến dịch với nguồn 
kinh phí trung bình hàng năm từ 80 triệu 
đến 150 triệu USD. Ngoài ra, các doanh 
nghiệp lữ hành du lịch phải trích nộp 1 
USD/1 du khách để hỗ trợ cho các hoạt 
động của Tổng cục Du lịch Thailand. Hiện 
nay, với 36 văn phòng đại diện trong nước 
và 21 văn phòng đại diện ở nước ngoài, 
Tổng cục Du lịch Thailand đã tích cực xúc 
tiến, quảng bá du lịch đất nước ở cả trong 
và ngoài nước. Nhờ coi trọng đầu tư cho 
chiến lược xúc tiến, quảng bá du lịch mà 
KTDL ở Thailand đã rất thành công trong 
việc thu hút khách quốc tế, đem lại hiệu 
quả kinh tế-xã hội ngày càng cao. 
3. Đào tạo nhân lực cho kinh tế du lịch 
- Coi trọng bồi dưỡng, sử dụng nhân 
lực du lịch để xây dựng và phát triển nhân 
lực cho KTDL 
Kinh nghiệm phŸt triển§ 41 
Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm 
của ba nước Trung Quốc, Thailand, 
Singapore cho thấy, yếu tố quyết định để 
phát triển KTDL là chất lượng nguồn 
nhân lực. Cả ba nước đều thành công 
trong việc thu hút khách du lịch nhờ 
nguồn nhân lực du lịch được đào tạo 
chuyên nghiệp, có kiến thức và kinh 
nghiệm chuyên môn cao, lòng yêu nghề 
và sự nghiêm túc trong công việc. Đặc 
biệt, ba quốc gia trên là những trung tâm 
đào tạo về nguồn nhân lực du lịch của khu 
vực. Chính nguồn nhân lực du lịch chuyên 
nghiệp, chất lượng cao là một trong những 
yếu tố giúp nâng tầm vị thế và năng lực 
cạnh tranh của họ như những điểm đến du 
lịch quốc tế. 
- Chăm lo đào tạo đội ngũ hướng dẫn 
viên du lịch chuyên nghiệp 
Có thể nói, hướng dẫn viên là người 
quan trọng nhất trong việc giới thiệu văn 
hóa của đất nước cho các du khách quốc 
tế. Họ là đại diện của đất nước để đón tiếp 
du khách, do vậy du khách có yêu quý đất 
nước đó hay không, có ấn tượng tốt và 
muốn quay trở lại hay không một phần 
không nhỏ là nhờ đội ngũ hướng dẫn viên 
du lịch. Ở Singapore, để được trở thành 
hướng dẫn viên chuyên nghiệp, được cấp 
thẻ, đòi hỏi phải học rất vất vả và trải qua 
quá trình thi cử cũng rất khó khăn. Chính 
vì lý do đó, cho đến nay ở quốc gia này đã 
có được đội ngũ hướng dẫn viên rất 
chuyên nghiệp. Hơn thế nữa, đội ngũ 
hướng dẫn viên này rất có kỹ năng thu hút 
du khách đến những nơi giải trí, những 
nơi bán hàng tại những cơ sở kinh doanh 
đi kèm với du lịch góp phần làm giàu 
thêm cho đất nước mình. Trung Quốc 
cũng rất chú trọng đào tạo nguồn nhân lực 
chuyên nghiệp: quốc gia này đã thiết lập 
được mạng lưới các cơ sở đào tạo du lịch 
rộng khắp cả nước, chương trình đào tạo 
đa dạng, phương pháp giảng dạy hiện đại, 
kết hợp với nền tảng cơ sở hạ tầng chất 
lượng phù hợp với thực tế là minh chứng 
rõ nét nhất về vấn đề này. Nguồn nhân lực 
được đào tạo bài bản đã đóng vai trò chủ 
chốt trong thiết kế, thực hiện các chương 
trình xúc tiến du lịch hiệu quả. KTDL ở 
Trung Quốc chuyển đổi mang tính đột phá 
qua 4 giai đoạn và hiện đang tham gia vào 
quá trình hội nhập du lịch toàn cầu với sức 
bật mạnh mẽ. Kinh nghiệm của họ thực sự 
quý báu đối với Việt Nam trong quá trình 
chuyển đổi từ du lịch chính trị và thụ động 
sang du lịch kinh tế và chủ động hội nhập 
kinh tế quốc tế. 
- Đào tạo tốt đội ngũ điều hành du lịch 
Điều hành du lịch là những người 
thiết kế chương trình du lịch, đặt các dịch 
vụ cho khách và bàn giao mọi chi tiết về 
đoàn khách cho hướng dẫn viên trước khi 
đón một đoàn khách quốc tế vào đất nước 
mình. Ở Singapore, những người điều 
hành du lịch đều làm việc rất chăm chỉ bất 
kể thời gian. Bất cứ khi nào có trường hợp 
cần giải quyết, bất cứ phát sinh nào xảy ra, 
họ thường ngay lập tức đến gặp đoàn 
khách và giải quyết nhanh chóng. 
4. Xây dựng và đa dạng hóa sản phẩm du lịch 
Để xây dựng và đa dạng hóa sản 
phẩm du lịch, cần quan tâm đến những 
yếu tố sau: 
- Phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng 
và những yếu tố hấp dẫn khác trong xây 
dựng sản phẩm du lịch 
Phát huy các giá trị văn hóa, tín ngưỡng 
và những yếu tố hấp dẫn khác trong xây 
dựng sản phẩm du lịch là một nhân tố tạo ra 
sự khác biệt trong sản phẩm du lịch của 
từng vùng, từng quốc gia. Nếu Trung Quốc 
và Thailand đã rất thành công trong khai 
thác các giá trị văn hóa, tín ngưỡng thì 
Singapore lại tạo nên sự hấp dẫn đối với 
42 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 12.2016 
du khách bằng sự độc đáo trong khai thác 
sản phẩm “du lịch xanh”. Và quan trọng là 
cả ba quốc gia đã tạo nên những sự khác 
biệt cho những sản phẩm du lịch của quốc 
gia mình để thu hút du khách. 
Thailand đã phát huy tốt các giá trị 
văn hóa, tín ngưỡng trong xây dựng sản 
phẩm du lịch. Trung Quốc cũng tạo sự 
khác biệt về sản phẩm du lịch trên nền 
tảng giá trị văn hóa, trên cơ sở khai thác 
các giá trị văn hóa-lịch sử để cung ứng ra 
thị trường nhiều sản phẩm du lịch độc 
đáo, khác biệt, ấn tượng. 
Singapore cũng phát triển sản phẩm 
“du lịch xanh” và xây dựng thương hiệu 
với những yếu tố hấp dẫn khác biệt. Ấn 
tượng đầu tiên của du khách với đất nước 
Singapore là cảnh quan và môi trường rất 
sạch. Chính điều này đã làm nên một 
Singapore khác biệt với các quốc gia 
khác. Mặt khác, quốc gia này cũng chú 
trọng phát triển sản phẩm du lịch cạnh 
tranh phù hợp với nhu cầu thị trường 
(casino). Đặc trưng nhất của sản phẩm du 
lịch là chương trình du lịch, Singapore 
cung cấp cho thị trường quốc tế nhiều 
chương trình du lịch, trong đó có sản 
phẩm casino phù hợp với nhu cầu, thị hiếu 
của nhiều du khách. Họ phân mảng thị 
trường khách du lịch quốc tế và đưa ra 
những chương trình phù hợp cho từng thị 
trường. Các chương trình cho du khách 
châu Âu khác chương trình cho du khách 
châu Á và châu Úc, châu Mỹ Ngay cả 
trong cùng một thị trường thì cũng có các 
chương trình phục vụ riêng cho từng nước 
khác nhau, tùy theo nhu cầu và khả năng 
chi trả của từng du khách. Mặc dù là đất 
nước nhỏ bé nhưng Singapore đã trở thành 
một điểm đến hấp dẫn trong con mắt du 
khách khắp nơi trên thế giới. Với nỗ lực 
của Cục Xúc tiến du lịch, của các cơ quan 
hữu quan Chính phủ và các doanh nghiệp 
du lịch, Singapore dự kiến sẽ xây dựng 
thành một thủ đô của du lịch, một bức 
tranh sinh động và hấp dẫn của “ngành 
công nghiệp không khói” trong tương lai 
không xa. 
- Coi trọng việc nâng cao sức cạnh 
tranh của sản phẩm du lịch 
Về quy mô và chất lượng sản phẩm du 
lịch: Sản phẩm du lịch đóng vai trò rất 
quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh 
tranh của KTDL mỗi vùng, mỗi quốc gia. 
Sản phẩm du lịch đơn điệu, kém hấp dẫn 
sẽ yếu thế trong cạnh tranh và khó có thể 
lôi kéo được du khách. Vì vậy, đa dạng 
hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du 
lịch chính là chiến lược mà cả ba nước 
đều coi trọng để đáp ứng nhu cầu của thị 
trường. Việc đầu tư phát triển du lịch sinh 
thái, văn hóa, du lịch sự kiện, chuyên đề, 
mua sắm, nghỉ dưỡng, leo núi, lặn biển,... 
theo hướng khác biệt đã thực sự mang lại 
hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh 
tranh của ba nước trong thời gian qua. 
Về sản phẩm du lịch đặc thù: ba nước 
đều quan tâm phát triển sản phẩm du lịch 
đặc thù để tạo lợi thế trong cạnh tranh. 
Chẳng hạn, sản phẩm đặc thù của Trung 
Quốc là các sản phẩm du lịch mang đậm 
tính văn hóa, lịch sử; sản phẩm du lịch đặc 
thù của Thailand là các sản phẩm du lịch 
mua sắm, lễ hội; sản phẩm du lịch đặc thù 
của Singapore là du lịch xanh, casino... 
Về chiến lược giá cả: Thailand là 
nước rất thành công trong chiến lược giá 
cả sản phẩm du lịch. Họ thường tổ chức 
các sự kiện để thu hút khách du lịch vào 
mùa thấp điểm như chiến dịch “siêu giảm 
giá”, giảm giá vé máy bay và các dịch vụ 
mặt đất... Đây là bài học quan trọng nhằm 
giảm tính chất mùa vụ, kích thích nhu cầu 
du lịch, tăng xuất khẩu tại chỗ và nâng cao 
hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp du 
lịch thương mại và dịch vụ, đặc biệt là các 
cơ sở lưu trú. 
Kinh nghiệm phŸt triển§ 43 
- Quan tâm xây dựng và phát triển 
sản phẩm du lịch là ưu tiên trong chiến 
lược phát triển KTDL 
Ở Thailand, để phát triển sản phẩm du 
lịch nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong 
hội nhập kinh tế quốc tế, Tổng cục Du lịch 
Thailand đề xuất xây dựng chính sách 
quốc gia về phát triển du lịch sinh thái 
đúng hướng và hình thành hệ thống du 
lịch bền vững. Du lịch văn hóa và sinh 
thái liên quan đến quản lý nguồn tài 
nguyên thiên nhiên và nhân văn, phát triển 
xã hội, sự tham gia của cộng đồng dân cư 
và những cải thiện cuộc sống của họ. Vì 
vậy, chính sách gắn với những vấn đề này 
được Thailand xem là chính sách tổng thể, 
trong đó mỗi vấn đề lại có tác động tích 
cực đến vấn đề khác nhằm làm cho cả hệ 
thống được tốt hơn như: môi sinh, quản lý 
nguồn tài nguyên du lịch, du lịch bền 
vững, phát triển kinh tế-xã hội, sự tham 
gia của cộng đồng địa phương. Những 
chính sách và chiến lược đó gắn với yêu 
cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và 
dịch vụ du lịch, kiến trúc cảnh quan, bảo 
vệ môi trường, tổ chức quản lý và khai 
thác các khu du lịch văn hóa và sinh thái. 
 - Coi trọng việc cung cấp các dịch vụ 
hỗ trợ cho KTDL 
Ở Thailand, việc cung cấp thông tin 
và hướng dẫn cho du khách là nhiệm vụ 
quan trọng của ngành du lịch. Ngoài ra, 
các doanh nghiệp du lịch Thailand có thể 
giới thiệu các sản phẩm du lịch của mình, 
Tổng cục Du lịch ở quốc gia này sẽ hỗ trợ 
kinh phí xúc tiến quan hệ công chúng, 
quảng bá để thu hút khách du lịch truy cập 
và cập nhật thông tin. 
5. Liên kết, hợp tác trong phát triển kinh 
tế du lịch 
Với tính chất là ngành kinh tế tổng 
hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã 
hội hóa cao, sự phát triển KTDL không 
chỉ bó hẹp trong một quốc gia, lãnh thổ 
mà luôn vươn ra khỏi phạm vi hành chính 
một địa phương, quốc gia và khu vực. 
Việc liên kết KTDL giữa các lãnh thổ 
khác nhau cho phép khai thác những lợi 
thế tương đối của nhau về tài nguyên du 
lịch, về vị trí trong giao thương, về hạ 
tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật và các 
nguồn lực khác để phát triển KTDL. Đồng 
thời, liên kết KTDL giữa các chủ thể hành 
chính còn tạo nên khả năng cạnh tranh cao 
hơn đối với các bên liên quan nhằm thu 
hút đầu tư từ các nguồn vốn trong và 
ngoài nước, thu hút khách du lịch đến mỗi 
địa bàn nhằm thu lợi nhuận, đồng thời 
giải quyết việc làm cho nguồn lao động tại 
địa phương. 
Các nước có nền du lịch phát triển 
như Singapore, Thailand... đã liên kết, hợp 
tác từ rất sớm. Họ liên kết để kết nối 
chương trình du lịch, tạo ra những sản 
phẩm du lịch đặc trưng, chuyên biệt cho 
mỗi quốc gia. Hình thức liên kết của họ là 
liên kết nội vùng, ngoại vùng và liên kết 
đa ngành. Đặc biệt, ở Thailand sự liên kết 
giữa KTDL với ngành hàng không rất chặt 
chẽ, nhằm tạo ra những chương trình du 
lịch hấp dẫn với mặt bằng giá cả cạnh 
tranh để thu hút khách du lịch quốc tế. 
6. Miễn thị thực cho khách du lịch, tạo 
môi trường chính trị ổn định, đảm bảo an 
ninh, an toàn cho du khách 
Miễn thị thực cho khách du lịch là 
chính sách có tính chiến lược nhằm thu 
hút khách quốc tế. Thailand đã áp dụng rất 
thành công chính sách này, điều đó đã góp 
phần thúc đẩy việc thu hút khách quốc tế 
đến nước này thời gian qua. Trong bối 
cảnh hiện nay, miễn thị thực vẫn được coi 
là một trong những chính sách quan trọng 
nhằm tăng tính cạnh tranh, qua đó kích 
thích nhu cầu và thúc đẩy khách du lịch 
lựa chọn điểm đến. 
44 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 12.2016 
Môi trường chính trị ổn định, đất 
nước an bình, môi trường sinh thái trong 
sạch là điều kiện lý tưởng cho việc thu hút 
khách du lịch. Đây là một trong những thế 
mạnh của KTDL ở Singapore. Quốc gia 
này hiện được coi là một trong những 
điểm tham quan an toàn nhất thế giới. Các 
biện pháp an ninh được thắt chặt trong các 
khu vực quan trọng, những nơi nhạy cảm 
khác nhằm đảm bảo cho Singapore vẫn 
tiếp tục là điểm đến an toàn trong tương 
lai. Vấn đề an toàn giao thông cũng được 
du khách quan tâm khi đi du lịch tại nước 
ngoài. Tại Singapore, các phương tiện 
giao thông chấp hành rất đúng luật, tai nạn 
giao thông rất ít, hầu hết người dân đều có 
ý thức cao trong việc chấp hành luật lệ 
giao thông. Người tham gia giao thông, 
đặc biệt là du khách thường hay đi bộ để 
tham quan, có thể yên tâm sang đường vì 
chỉ cần ấn nút trên cột đèn tín hiệu là đoàn 
xe ô tô sẽ dừng để nhường đường. Bên 
cạnh đó, loại bỏ các phiền toái và lo lắng 
cho du khách trong chuyến du lịch là điều 
mà Singapore đã làm rất tốt. Ở quốc gia 
này hầu như không bao giờ có ăn xin hay 
chèo kéo du khách. Điều này là một trong 
những yếu tố khiến khách du lịch quốc tế 
hài lòng và đánh giá cao. 
Thailand trước đây thu hút được nhiều 
khách du lịch cũng chính nhờ lợi thế trên. 
Thu nhập từ khách du lịch của Thailand 
chiếm tới gần 7% GDP và du lịch cũng là 
ngành giải quyết được nhiều việc làm cho 
người lao động. Năm 2008, nhờ nền chính 
trị ổn định mà ngành thu về 540 tỷ bạt 
(khoảng 15,4 tỷ USD). Nhưng sau khi xảy 
ra bất ổn về chính trị, xã hội, KTDL ở 
Thailand đã chịu thiệt hại nặng nề. Năm 
2009, sau khi các cuộc biểu tình nổ ra, 
ngành du lịch đã bị thiệt hại rất lớn - đợt 
suy giảm mạnh nhất của KTDL ở Thailand 
trong gần 5 thập kỷ qua. Theo con số 
thống kê, mức thiệt hại của ngành này 
trong năm 2009 đã lên tới 200 tỷ bạt, hơn 
2 triệu người làm trong ngành du lịch bị 
ảnh hưởng, thậm chí mất việc làm. Những 
diễn biến trong KTDL ở Thailand cho thấy, 
nếu để xảy ra những biến cố phức tạp trong 
các ngành dịch vụ, nhất là những ngành liên 
quan đến người nước ngoài, thì ảnh hưởng 
xấu sẽ rất lớn, việc khắc phục hậu quả sẽ 
rất khó khăn và tốn kém thời gian, tiền bạc. 
Những kinh nghiệm trên là những bài 
học bổ ích mà Việt Nam có thể và cần vận 
dụng để phát triển KTDL trong hội nhập 
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình 
vận dụng, cần chú ý đến tính đặc thù của 
quốc gia để đề ra những chủ trương, chính 
sách phát triển phù hợp nhằm đem lại hiệu 
quả KTDL cao nhất  
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Trùng Khánh (2012), Phát 
triển dịch vụ lữ hành du lịch trong 
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: 
Kinh nghiệm của một số nước Đông Á 
và gợi ý chính sách cho Việt Nam, 
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện 
Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã 
hội Việt Nam. 
2. Martin Oppermann và Kye - Sung 
Chon (1997), Tourism in Developing 
Countries, International Thomson 
Business Press. 
3. Susan A.Weston (1996), Commercial 
Recreation & Tourism - An 
Introduction to Business Oriented 
Recreation, Brown & Benchmark. 
4. Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch 
(2012), Phê duyệt Chiến lược phát 
triển du lịch Việt Nam, tầm nhìn đến 
năm 2030, www.itdr.org.vn. 
5. Các trang web: 
www.tourism.gov.my;www.tourismth
ailand.org;www.unwto.org;www.wttc.
org; www.visitsingapore.com 

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_phat_trien_kinh_te_du_lich_o_mot_so_nuoc_va_goi.pdf