Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)

Hội quán của người Hoa là sản phẩm sinh

hoạt cộng đồng trên cơ sở những người cùng

quê và mang đậm truyền thống của thương

nhân Trung Hoa. Đây là nơi hội họp của người

trong bang, nơi cộng đồng người Hoa tha

hương gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn,

gởi gắm tình cảm. Hội quán thờ nhiều vị thần

linh theo tín ngưỡng dân gian của dân tộc Hoa

và là nơi sinh hoạt tế lễ hàng năm của cộng

đồng dân cư. Kiến trúc cổ các hội quán của

người Hoa ở Hội An đã góp phần tạo nên diện

mạo khu phố cổ Hội An trong lịch sử và cả hiện

tại.

Trong giai đoạn hiện nay, để bảo tồn và

phát huy di sản văn hóa Thế giới – khu phố cổ

Hội An, các loại hình kiến trúc cổ, bao gồm các

hội quán người Hoa rất cần được nghiên cứu

chuyên sâu, nhằm có định hướng tôn tạo và

khai thác tốt các giá trị di sản. Qua đó, sẽ góp

phần vào sự nghiệp phát triển toàn diện và bền

vững kinh tế – văn hóa – du lịch của thành phố

Hội An hiện tại và cả tương lai.

pdf 13 trang kimcuc 7380
Bạn đang xem tài liệu "Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)

Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 51 
Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa 
ở Hội An (Quảng Nam) 
 Võ Thị Ánh Tuyết 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
 Đào Vĩnh Hợp 
Trường Đại học Sài Gòn 
TÓM TẮT: 
Hội quán của người Hoa là sản phẩm sinh 
hoạt cộng đồng trên cơ sở những người cùng 
quê và mang đậm truyền thống của thương 
nhân Trung Hoa. Đây là nơi hội họp của người 
trong bang, nơi cộng đồng người Hoa tha 
hương gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, 
gởi gắm tình cảm. Hội quán thờ nhiều vị thần 
linh theo tín ngưỡng dân gian của dân tộc Hoa 
và là nơi sinh hoạt tế lễ hàng năm của cộng 
đồng dân cư. Kiến trúc cổ các hội quán của 
người Hoa ở Hội An đã góp phần tạo nên diện 
mạo khu phố cổ Hội An trong lịch sử và cả hiện 
tại. 
Trong giai đoạn hiện nay, để bảo tồn và 
phát huy di sản văn hóa Thế giới – khu phố cổ 
Hội An, các loại hình kiến trúc cổ, bao gồm các 
hội quán người Hoa rất cần được nghiên cứu 
chuyên sâu, nhằm có định hướng tôn tạo và 
khai thác tốt các giá trị di sản. Qua đó, sẽ góp 
phần vào sự nghiệp phát triển toàn diện và bền 
vững kinh tế – văn hóa – du lịch của thành phố 
Hội An hiện tại và cả tương lai. 
Từ khóa: Hội quán, người Hoa, Hội An, kiến trúc cổ 
1. Sơ lược về các hội quán của người Hoa ở 
Hội An 
Hội An (Quảng Nam) là vùng đất có nhiều điều 
kiện địa lý, tự nhiên thuận lợi, có bề dày lịch sử, 
văn hóa lâu đời, được kết tinh qua nhiều thời đại. 
Nhờ có các yếu tố trong và ngoài nước, sau thế kỷ 
XV, thương cảng Hội An được hình thành. Đến thế 
kỷ XVII–XVIII, Hội An trở thành một đô thị - 
thương cảng phồn thịnh. Thương thuyền các nước 
đã cập bến đến buôn bán ở Hội An. Trong số đó, 
người Hoa đóng một vai trò quan trọng. Người Hoa 
ở Hội An có nguồn gốc từ các địa phương ven biển 
phía Đông Nam của Trung Hoa. Khi đến định cư, 
sinh sống tại Hội An, họ lập ra năm bang: Quảng 
Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và xây 
dựng các công trình kiến trúc như nhà ở, cửa hàng, 
chợ, trường học, bệnh viện, ngân hàng, chùa miếu, 
nghĩa trang, hội quán... Người Hoa ở Hội An đã cho 
xây dựng bốn hội quán riêng của bốn bang và một 
hội quán chung. Theo đại tự bằng chữ Hán trên các 
hoành phi treo ở cổng chính và cửa ra vào tiền điện, 
các hội quán ở Hội An có tên gọi chính thức bằng 
chữ Hán là: “Phúc Kiến hội quán” 福 建 會 館; 
“Trung Hoa hội quán” 中 華 會 館; “Triều Châu 
hội quán” 潮 州 會 館; “Quỳnh Phủ hội quán” 瓊 
府 會 館 và “Quảng Triệu hội quán” 廣 肇 會 館. 
Bang Gia ứng không có hội quán và sinh hoạt tại 
hội quán chung: hội quán Trung Hoa. 
Hội quán Phúc Kiến: tọa lạc số 46, đường Trần 
Phú, phường Minh An, thành phố Hội An, nằm ở 
hướng nam lệch tây 23o. Tổng diện tích kiến trúc 
2000m2, sâu nhất 100m, rộng nhất 24m. Bố cục mặt 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 52 
bằng tổng thể theo kiểu “tứ hợp viện” hay còn gọi 
là “hình ấn”, trật tự từ trước ra sau gồm: tiền môn - 
sân trước - tam quan - sân trước tiền điện - tiền điện 
- sân thiên tĩnh giữa tiền điện và chính điện có mái 
che - chính điện - sân thiên tĩnh giữa chính điện và 
hậu điện - hai bên là hai dãy nhà đông và tây. Kiến 
trúc chính sắp xếp theo kiểu chữ “三” Tam với tiền 
điện, chính điện và hậu điện song song nhau. Đây là 
kiểu bố cục mặt bằng đặc trưng của các miếu người 
Hoa trên một diện tích khá rộng. 
Hội quán Trung Hoa: tọa lạc số 64 đường Trần 
Phú, phường Minh An, thành phố Hội An, trước 
mặt là đường Hoàng Văn Thụ dẫn thẳng ra sông 
Hoài, nằm ở hướng nam lệch tây 14o. Diện tích kiến 
trúc: 1160m2, rộng nhất 24m, sâu nhất 57,6m, và có 
khu vực phía sau rộng khoảng 600m2. Bố cục mặt 
bằng tổng thể gồm: cổng chính, sân trước, tiền điện, 
sân giữa, phương đình, chính điện, nhà Đông và 
Tây. 
Hội quán Triều Châu: tọa lạc số 157 đường 
Nguyễn Duy Hiệu, phường Sơn Phong, thành phố 
Hội An, có hướng nam lệch đông 20o. Khuôn viên 
kiến trúc có diện tích 824m2, rộng 27m, sâu 30.5m. 
Bố cục mặt bằng tổng thể, gồm: cổng chính, sân 
trước, tiền điện, sân giữa, chính điện, nhà Đông và 
Tây. 
Hội quán Quỳnh Phủ: tọa lạc số 10 đường 
Trần Phú, phường Minh An, thành phố Hội An, có 
hướng nam lệch đông 8o. Khuôn viên kiến trúc có 
diện tích 1233m2, rộng 26,8m, sâu 46m. Bố cục mặt 
bằng tổng thể gồm: cổng chính, sân trước tiền điện, 
tiền điện, sân giữa tiền điện, phương đình, chính 
điện, nhà Đông và Tây. 
Hội quán Quảng Triệu: tọa lạc số 176 đường 
Trần Phú, phường Minh An, thành phố Hội An, 
trước mặt là đường Châu Thượng Văn chạy thẳng 
ra sông, nằm ở hướng nam lệch tây 12o, tổng diện 
tích kiến trúc 948m2, ngang 23m, sâu 41,2m, 
khoảng sân vườn ở sau rộng 300m2. Bố cục mặt 
bằng tổng thể gồm: tam quan, sân trước, tiền điện, 
sân giữa, chính điện, hai bên là hai dãy nhà Đông và 
Tây. 
2. Đặc điểm kiến trúc cổ các hội quán của 
người Hoa ở Hội An 
2.1. Môi trường cảnh quan 
Các hội quán ở Hội An được xây dựng theo 
nguyên tắc kiến trúc truyền thống Trung Hoa với 
quan niệm vũ trụ âm dương hài hòa, thẩm mỹ, chủ 
trương đối xứng vững vàng và chỉnh tề nghiêm 
ngặt. Năm hội quán đều tọa lạc ở khu vực trung 
tâm, vùng đông dân cư, gần chợ, về phía đông của 
cầu Nhật Bản, thuận tiện cho hoạt động sinh hoạt và 
tín ngưỡng của cư dân. Hiện nay các hội quán nằm 
ở phía bắc, phía số chẵn đường Trần Phú – con 
đường chính của phố cổ. Trước đây đường này có 
tên gọi là đường Cường Để hay đường cầu Nhật 
Bản, là con đường cổ nhất hay phố cũ nhất của Hội 
An1. Các hội quán đều được kiến tạo trên nền đất 
rộng, cao ráo, thiên về chiều sâu theo trục Bắc Nam. 
Về địa hình và phương hướng, phía sau cao hơn 
trước, quay mặt về hướng nam, hướng sông Hội An 
và đều được xây dựng lệch đi so với trục Bắc Nam 
do người Hoa rất coi trọng việc xem phong thủy, 
khi xây dựng họ nhờ thầy địa lý xem hướng đất. 
Việc chọn hướng nam và thế đất cao thể hiện ảnh 
hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa nhằm đề cao 
khả năng chi phối của thần linh2. Đây còn là hướng 
của dòng sông để tận dụng nhiều ưu thế về mặt thời 
tiết, như hưởng được làn gió mát trong lành quanh 
năm, đảm bảo sự vững chãi cho công trình, tránh 
được gió mùa đông bắc và những cơn mưa bão liên 
tục của miền Trung. Đồng thời, còn thuận lợi cho 
việc chuyên chở nguyên vật liệu từ Trung Quốc 
sang vì vào thời điểm các hội quán xây dựng, sông 
Hội An còn vào tận sát phía nam đường Trần Phú. 
1 Chen Ching Ho (1960), “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã 
và các cổ tích tại Hội An”, Việt Nam khảo cổ tập san, Số 1, Bộ 
Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, tr. 35. 
2 Trần Lâm Biền (1998), “Giao lưu mỹ thuật Hoa-Việt”, Bước 
đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt-Hoa trong lịch 
sử. Nxb. Thế Giới, Hà Nội, tr. 152. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 53 
2.2. Tổ chức không gian và công năng sử 
dụng 
Năm hội quán ở Hội An có quy mô khiêm tốn, 
phong cách giản dị và có nhiều điểm tương đồng 
với nhau. Về diện tích kiến trúc hiện tại, hội quán 
Phúc Kiến rộng nhất, tiếp đến là hội quán Quỳnh 
Phủ, hội quán Trung Hoa, hội quán Quảng Triệu và 
hội quán Triều Châu có diện tích nhỏ nhất. Các hội 
quán thường hẹp về chiều ngang (từ 23-26,8m) 
nhưng sâu về chiều dài (chiều dài công trình kiến 
trúc hội quán Phúc Kiến lên tới 100m). Bố cục mặt 
bằng tổng thể kiến trúc các hội quán theo hình chữ 
“Quốc 国”, “nội công 工, ngoại quốc 国” (trong 
hình chữ công ngoài hình chữ quốc) hay cũng có 
thể được gọi là hình cái ấn. Trên cùng một trục chủ 
đạo Bắc–Nam, các đơn nguyên kiến trúc được sắp 
thành ba trục nhỏ: trục chính ở giữa và hai trục phụ 
hai bên đối xứng qua trục chính, gồm: cổng tam 
quan, tiếp đến là sân trước, tiền điện, sân, chính 
điện, hai bên các điện thờ nằm ngang là hai dãy nhà 
đông tây nằm dọc, nối từ trước ra sau, giữa các tòa 
nhà tạo thành một khoảng không gian trống gọi là 
sân thiên tỉnh. Các nếp nhà trong từng hội quán 
hình chữ nhật hay vuông. Kiến trúc ở trục giữa là 
nơi tôn nghiêm dành cho các hoạt động tín ngưỡng 
với hai hay ba tòa nhà nằm ngang là tiền điện, chính 
điện, hậu điện. Hội quán Trung Hoa và hội quán 
Quỳnh Phủ còn có thêm phương đình, hội quán 
Phúc Kiến có thêm tiền môn và hậu điện. Khu vực 
phía sau cùng là vườn cây. Trong các sân có trồng 
cây xanh, hồ nước. 
Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí theo quy 
luật từ trước ra sau, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, 
nhưng cũng gần kề nhau, vừa phân định rạch ròi 
giữa địa phận linh thiêng của thế giới Thần, Phật 
với khu vực sinh hoạt thế tục, vừa trang nghiêm lại 
vừa gần gũi với con người. Cách tổ chức không 
gian, giải pháp kiến trúc phù hợp với khí hậu địa 
phương, với chức năng của hội quán nên các hội 
quán luôn được bảo tồn khá tốt trước những gió 
mưa, nắng, bão lũ Mỗi đơn nguyên kiến trúc có 
công năng sử dụng riêng. Cổng chính: nằm án ngự 
mặt tiền hội quán. Sân trước: rộng, trồng cây cảnh, 
cho khách đến cúng bái, tham quan đồng thời tạo 
cảnh quan cho hội quán. Sân thiên tỉnh: là khoảng 
sân trống nằm giữa lòng kiến trúc khép kín của hội 
quán và thấp hơn xung quanh. Thường được đặt 
trước chính điện. Đây là đặc điểm của nhiều chùa, 
miếu Hoa, giúp hội quán có đủ diện tích thoáng, 
rộng để thông gió, đón nhận khí trời, lấy được ánh 
sáng tự nhiên đầy đủ cho khu vực thờ cúng, thoát 
khói hương và thoát nước. Có ba hội quán có sân 
thiên tỉnh: hội quán Quảng Triệu, hội quán Triều 
châu và hội quán Phúc kiến (có hai sân: trước và 
sau chính điện). Tiền điện: để tiếp khách, một số hội 
quán bố trí bàn thờ. Nhà Đông-Tây: được bố trí đối 
xứng qua trục chính, kéo dài từ trước ra sau. Nửa 
phía trước thường dùng làm nhà ở, cơ sở sản xuất. 
Phần giữa có một bên là nơi tiếp khách – trụ sở của 
ban quản trị; bên còn lại là nơi hội họp, sinh hoạt 
của hội viên. Phần sau cùng để thờ cúng hay nhà 
kho. Phương đình: nằm tiếp nối với sân giữa, có 
một mặt nối với chính điện, ba mặt là khoảng trống. 
Là nơi tiến hành các nghi lễ. Chỉ có 2 hội quán có 
nhà phương đình là hội quán Trung Hoa và hội 
quán Quỳnh Phủ. Chính điện: là tòa nhà chính, quan 
trọng nhất, lớn nhất của tổng thể, là khu vực thờ 
cúng chính và làm lễ của các hội quán nên bài trí 
nhiều bàn thờ. Hậu điện: chỉ có ở hội quán Phúc 
Kiến, nằm ở sau cùng khuôn viên kiến trúc, cấu tạo 
và chức năng giống chính điện. 
2.3. Kết cấu kiến trúc 
Kết cấu kiến trúc các hội quán (hay từng khối 
kiến trúc) gồm các bộ phận chính: phần mái; phần 
thân (khung, cột, tường) và phần nền móng. Các hội 
quán ở Hội An được xây dựng theo kiểu đền miếu 
cổ Trung Hoa với mái lợp ngói ống, tường chỉ có 
chức năng che, ngăn cách giữa các nhà với nhau, 
kết cấu chịu lực chính là bộ khung gỗ. 
2.3.1. Phần mái 
Các hội quán ở Hội An có tổng thể kiến trúc 
phần mái khá đồ sộ, với nhiều kiểu mái khác nhau: 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 54 
- Kiểu mái một tầng có bờ nóc mái thẳng, bốn 
đầu đao kéo xéo về các góc mái. 
- Kiểu mái hai tầng là đặc trưng của miếu Hoa, 
gồm mái của gian giữa cao, hai gian bên thấp tạo 
thành bốn đầu kìm, tám đầu đao. Lớp mái trên 
chồng lên lớp mái dưới, bờ nóc võng xuống giống 
hình ảnh con thuyền đang cưỡi sóng. Kiểu mái này 
phổ biến ở tiền điện các hội quán, tạo không gian 
thoáng đạt và là nơi thể hiện các đề tài trang trí; mái 
tiền điện hội quán Phúc Kiến được tạo tác và trang 
trí công phu nhất. 
- Kiểu mái có đầu hồi có bờ nóc thẳng, hai bờ 
hồi vuông góc. Có trường hợp bờ hồi cao hơn bờ 
nóc (mái hội quán Quảng Triệu). Bờ hồi trang trí 
thẳng, trang trí cong và trang trí giật cấp. Trong đó, 
trang trí cong được sử dụng nhiều, với đỉnh nóc của 
hai bờ mái không tạo bằng một góc thẳng mà tạo 
dáng cong trước khi chạy thẳng xuống diềm, phần 
cong được nhô cao; trang trí giật cấp là kết hợp cả 
đường thẳng và đường cong, chỉ có trường hợp mái 
nhà đông tây hội quán Quảng Triệu. Mặt dựng đầu 
hồi kẻ chỉ uốn lượn thành nhiều tầng giống các bậc 
cấp, hai bên bờ hồi có lợp ngói ống (hội quán 
Quảng Triệu). Kiểu mái có đầu hồi là ảnh hưởng 
của kiến trúc Trung Hoa, cụ thể là kiến trúc vùng 
Quảng Đông. 
- Kiểu song mái chỉ có ở phương đình hội quán 
Quỳnh Phủ và là kiểu mái độc đáo nhất ở Hội An. 
- Kiểu mái kết hợp mái hai tầng và mái có đầu 
hồi chỉ được sử dụng ở chính điện hội quán Triều 
Châu. 
Trong đó, kiểu mái có đầu hồi được sử dụng phổ 
biến. Mái hai tầng chỉ được lợp cho tiền điện một số 
hội quán. Phần lớn hội quán có kiểu mái của mỗi 
nếp nhà khác nhau, riêng hội quán Triều Châu, tất 
cả khối nhà đều có chung một kiểu mái. 
Các kiểu mái trên có đặc điểm chung: đường bờ 
nóc võng nhẹ, hai đầu kìm uốn cong lên trên và 
nhọn, cuối các đầu đao, đầu hồi hay góc mái đều 
hơi cong nhẹ lên trên và trang trí hình rồng hay hồi 
long cách điệu bằng hồi văn, mây cuộn và dây lá. 
Các đề tài trang trí chung của các hội quán gồm: 
thực vật, động vật, phong cảnh, tĩnh vật, hình học, 
chữ Hán. Đặc biệt là đề tài phong cảnh: cảnh sinh 
hoạt của vua quan triều đình theo tích Trung Quốc, 
“bát tiên quá hải”, bà chúa tiên cưỡi con long mã, 
người và hổ, người ngựa, người và cây tùng, người 
cưỡi trâu, quan võ cầm vũ khí theo cặp đôi đối xứng 
gồm: hai quan võ hay một quan võ với một người 
hầu và một ngựa  Tượng “ông Nhật bà Nguyệt”, 
ba ông “Phúc Lộc Thọ”. Dạng tượng rồng “lưỡng 
long tranh châu”, “lưỡng long chầu nhật”, “cá chép 
vượt vũ môn hóa rồng”... Các chữ Hán ít gặp trên 
trang trí mái, nhưng qua đây cung cấp thông tin 
niên đại hội quán như: Quang Tự thập niên và Văn 
Như bích tạo ở mái hội quán Quảng Triệu, chữ 
Phúc Lộc Thọ ở mái hội quán Quỳnh Phủ, hội quán 
Triều Châu. Các trang trí trên có số ít là các tượng, 
phù điêu gốm tráng men, đa số đều được đắp bằng 
hợp chất được để nguyên hay khảm thêm mảnh 
sành sứ, thủy tinh. Một số trang trí đã bị bám rêu 
đen, bong tróc, mất gãy, số ít được gắn lại bằng 
tượng gốm mới. Các đề tài trang trí trên mái tượng 
trưng âm dương hoà hợp, sung túc, no đủ và tạo vẻ 
tôn nghiêm cổ kính. 
Ngói lợp: các hội quán lợp bằng ba loại chính là: 
ngói ống, ngói âm dương và ngói vảy cá. Trong số 
đó, ngói ống được sử dụng phổ biến nhất. Ngói âm 
dương và ngói vảy cá chỉ được lợp ở sân trời và 
chính điện hội quán Phúc Kiến. Ngói ống có đầu 
bằng đất nung có thể là đầu ngói nguyên thủy và có 
niên đại sớm, các đầu ngói tráng men mới được các 
hội quán thay vào sau này. Số lượng dãy ngói 
dương của mái các nếp nhà của hội quán có thể 
chẵn hay lẻ chứ không phải là số lẻ như các nhà cổ 
ở Hội An3. Các loại ngói này có nhiều khe rãnh, dày 
và được cố định bằng vữa sẽ giữ cho các nếp nhà 
mát mẻ về mùa hè, ấm áp vào mùa mưa và thông 
thoáng quanh năm, thích hợp với khí hậu nóng bức 
và nhiều gió bão của miền Trung. 
3 Trần Ánh (2005), Nhà gỗ Hội An – Những giá trị và giải pháp 
bảo toàn, Trung tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An, tr. 94. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 55 
2.3.2. Hệ khung đỡ mái (bộ giàn trò): 
Bộ khung đỡ mái các hội quán được cấu tạo 
gồm: rui, đòn đông, đòn tay, bộ vì... Bộ khung làm 
bằng các loại gỗ tốt như mít, lim, kiền kiền Bộ vì 
có vai trò quan trọng nhất, vừa là yếu tố cơ bản liên 
kết tất cả cấu kiện gỗ, vừa là kết cấu chịu lực nâng 
đỡ mái, lại vừa là đơn vị cấ ... riệu còn 
trang trí chữ “Phúc” trên hai chữ Hán. Ngoài ra, 
còn có các chữ “Nghĩa từ đường và Vạn thiện 
đường” (khu vực thờ cúng cuối nhà đông tây hội 
quán Quảng Triệu), “hội tế và an cư” (mặt sau cửa 
hai gian bên chính điện hội quán Phúc Kiến). Các 
trang trí được đắp nổi bằng vôi vữa trực tiếp trên 
tường hay trên các ô chữ nhật, cuốn thư, hình nửa 
vầng trăng bên trên lối đi. 
Phần lớn các cửa đều làm bằng gỗ, số ít là cửa 
sắt. Các cửa chính chỉ có một lớp cánh cửa, có một 
cánh (cửa hông gian giữa chính điện), hai cánh (cửa 
chính của tiền điện), ba cánh, bốn cánh, sáu cánh và 
tám cánh. Các cửa sổ có hai loại: loại có khung ở 
giữa bằng xi măng hình hồi văn và không có cánh 
cửa và loại khung gỗ, song sắt, có một hay hai lớp 
cánh cửa. Các bộ cửa chính của tiền điện các hội 
quán là những cửa có niên đại sớm và có giá trị. Bộ 
cửa thường gỗ lim, dày, nặng nề. Các trang trí trên 
cánh cửa gồm: động vật, thực vật, phong cảnh, 
trang trí hình học Đặc biệt nhất là hình hai vị thần 
Môn thần (hội quán Triều Châu và hội quán Quảng 
Triệu) để ngăn chặn được những xấu xa tai hại xâm 
nhập vô khu vực bên trong của hội quán, vì người 
Hoa tin tưởng rằng đất đai có Thần trấn giữ. Các đề 
6 Nguyễn Quốc Hùng (1995), Phố cổ Hội An và việc giao lưu 
văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, tr.23. 
tài khác: “Bát tiên kỵ thú”, chữ Hán: bốn chữ Quốc 
thái dân an (cửa tiền điện hội quán Quảng Triệu, 
hội quán Phúc Kiến), Thần Trà Uất Lũy (mặt sau 
cửa tiền điện hội quán Triều Châu), Bình an đại  
(hội quán Quảng Triệu). Các trang trí được chạm 
thủng, chạm nổi, chạm chìm hay được vẽ trên gỗ, 
trên gương. Cánh cửa tiền điện thường sơn màu đỏ 
hay nâu. Hội quán Triều Châu có bộ cửa chính điện 
trang trí độc đáo nhất. 
2.3.5. Phần nền móng: 
Để phù hợp với điều kiện thiên nhiên, khí hậu 
của miền Trung nói chung và khu vực Hội An nói 
riêng thường xuyên bị mưa bão, lũ lụt, cũng như 
bao nhiêu công trình kiến trúc có cấu trúc gỗ cổ 
truyền của người Việt, nền và móng của các hội 
quán cũng được xử lý và xây dựng thật vững chắc 
với nền móng khá cao, có những bậc thang trên một 
mặt phẳng nghiêng để bước lên. Hội quán Phúc 
Kiến được xây dựng cao nhất so với các hội quán 
khác ở Hội An nên các trận lụt khó lên đến khu vực 
thờ tự chính. 
Các khu vực của hội quán có độ cao không bằng 
nhau để tạo không gian thoáng đoảng và phù hợp 
với các công năng khác nhau của các đơn nguyên 
hội quán. Nơi thờ tự và cúng lễ được phân bố trên 
khu vực cao nhất để tăng tính chất trang nghiêm. 
Các nếp nhà chính có độ cao gần bằng nhau, chính 
điện là khu vực cao nhất của hội quán với nền móng 
cao hơn sân giữa 30-60cm. 
2.3.6. Trang trí nội thất kiến trúc: 
Tiền điện: thường thoáng rộng, không có hay có 
rất ít bàn thờ, nếu có thì chỉ thờ các thần thánh phối 
tự chưa được thờ ở chính điện. Ngày nay, tiền điện 
là khu trung tâm tiếp khách với bộ bàn ghế để du 
khách ngồi nghỉ, gắn các phù điêu hay bia đá trên 
tường, treo các tranh, ảnh, hoành phi, liễn đối, lồng 
đèn. 
Chính điện: là trung tâm thờ tự, trang trí theo 
một sơ đồ nhất định: chính giữa lối ra vào đặt một 
bàn thờ lớn, trên bày bộ tam sự, ngũ sự, lư hương 
và các đồ thờ tự để khách tham quan đến thắp 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 58 
nhang. Các hiện vật thờ tự khác như giá bát bửu, lỗ 
bộ, “Túc tịnh, hồi tỵ”, ngựa, chuông trống, mô hình 
thuyền được bố trí đối xứng hai bên trục giữa thành 
từng cặp đôi, chuông trống đặt theo quy tắc “tả 
chuông hữu trống” hay hai chuông và trống treo 
cùng giá và đặt bên hữu. Trong cùng chính điện có 
ba khám thờ đặt lên bệ cao và xếp theo hàng ngang 
ở ba gian, trừ hội quán Phúc Kiến chỉ có khám thờ 
gian giữa. Khám thờ giữa to lớn, lộng lẫy hơn để 
thờ vị thần chủ, khám thờ hai bên tả hữu giống nhau 
và nhỏ hơn để thờ hai vị thần phối tự của hội quán. 
Đa số khám thờ có tượng thờ, nhưng cũng có khám 
thờ được thay bằng các bài vị. Trước các khám thờ 
bao giờ đặt thêm một hay hai bàn thờ. Hội quán 
Phúc Kiến và Trung Hoa không có lối đi hai bên tả 
hữu trước chính điện mà khu vực này đặt tượng 
thần Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ đối xứng 
nhau. Các hội quán thường thờ riêng từng đối tượng 
cho từng gian thờ, ít có hiện tượng thờ chung nhiều 
đối tượng. Trong cùng một khu vực có tổ chức 
"phối tự" (thờ chung) theo kiểu thần chính ở giữa, 
hai thần phụ hai bên hay “tiền Phật, hậu thần” 
Cùng một gian thờ với một đối tượng thờ nhưng có 
nhiều loại tượng lớn nhỏ, mới cũ, được bố trí cân 
xứng hài hòa theo thứ tự cao thấp, lớn nhỏ. Nội thất 
chính điện treo hoành phi, liễn đối, bảng lễ cúng tế 
hàng năm, tranh ảnh, lồng đèn, hương vòng. 
Phương đình: đặt hai bộ bàn nhỏ và ghế ở hai 
bên, treo hoành phi, liễn đối. 
Nhà Đông - Tây: thường có cấu trúc đơn giản. 
Giữa tường thường gắn bộ liễn chữ Phúc và Thọ 
(hội quán Phúc Kiến, hội quán Quảng Triệu và hội 
quán Triều Châu), bên trước đặt bàn gỗ, ở giữa đặt 
một bộ bàn ghế gỗ. Trên tường đắp phù điêu hay 
treo các tranh ảnh. Khu vực thờ cúng cuối nhà đông 
tây có khám thờ đặt các bài vị tiền hiền, bang 
trưởng và cô bác, bên trước có bàn thờ đặt đồ thờ 
cúng, trên tường gắn bia đá, phù điêu. 
Nội thất của các hội quán trang trí, bày biện hết 
sức nhã nhặn nhưng tạo không gian tín ngưỡng linh 
thiêng, cổ kính. Các di vật trang trí theo thứ tự lớn 
nhỏ, trước sau, đối xứng thể hiện sự hòa hợp âm 
dương, cân bằng giữa người, thần và thiên nhiên. 
3. Kiến trúc cổ các hội quán - giá trị đặc 
trưng và định hướng bảo tồn 
3.1. Giá trị đặc trưng của kiến trúc cổ các hội 
quán 
Các hội quán người Hoa ở Hội An là thành tố 
quan trọng góp phần tạo nên cảnh quan đặc biệt cho 
khu phố cổ Hội An, phản ánh những giá trị to lớn 
về nhiều mặt như: khảo cổ, lịch sử, kiến trúc, điêu 
khắc, nghệ thuật, tôn giáo. Nghệ thuật chạm đá, 
chạm gỗ, gạch khá tinh xảo thể hiện sự tài hoa 
của các nghệ nhân Trung Quốc và địa phương. Các 
nghệ thuật khác như: thư pháp, hội họa... cũng đặc 
sắc không kém. Kiến trúc những bộ vì rất riêng, kết 
cấu hệ mái, kết cấu mặt tiền, trang trí không gian 
nội-ngoại thất, di vật đã làm cho các hội quán 
Hội An đã trở thành những di sản kiến trúc đặc sắc. 
Niên đại ra đời của các hội quán ở Hội An trong 
khoảng thế kỷ XVIII-XIX. Hội quán Trung Hoa và 
hội quán Phúc Kiến ra đời sớm nhất: đầu thế kỷ 
XVIII. Các hội quán khác có niên đại muộn hơn: 
hội quán Triều Châu: 1845, hội quán Quỳnh Phủ: 
1875, hội quán Quảng Triệu nửa cuối thế kỷ XIX. 
Các kiến trúc của các hội quán phần lớn là những 
kiến trúc cổ được xây dựng trong thời điểm này. 
Kiến trúc cổ trong các hội quán phản ánh triết lý 
nhân sinh của nhiều lớp người qua các giai đoạn 
lịch sử, cung cấp thông tin về mức độ hưng thịnh 
của hoạt động thương mại ở Hội An trong từng thời 
kỳ. Tất cả thể hiện tài năng và sự sáng tạo của nghệ 
thuật điêu khắc, kiến trúc mỹ thuật cổ ở Hội An, 
đặc trưng nghệ thuật truyền thống Trung Hoa. Kiến 
trúc hội quán là một phần diện mạo kiến trúc Hội 
An và tiêu biểu cho kiến trúc đô thị Việt Nam thời 
cận đại nói chung. Các hội quán góp phần làm sáng 
tỏ nhiều vấn đề về lịch sử từng nhóm cộng đồng 
người Hoa nói riêng, người Hoa nói chung khi đến 
buôn bán, định cư và lập nghiệp ở Hội An. Qua đó 
góp phần làm sáng tỏ tiến trình phát triển của đô thị 
- thương cảng Hội An. Các hội quán không chỉ là 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 59 
nơi sinh hoạt tín ngưỡng của riêng cộng đồng mà 
còn là bằng chứng cụ thể nhất thể hiện sự giao lưu 
giữa hai nền văn hóa Việt - Hoa tại cảng thị ngoại 
thương quốc tế thời trung-cận đại. 
Các hội quán ở Hội An được ra đời trong hoàn 
cảnh lịch sử đặc biệt hơn các nơi khác, nó gắn liền 
với quá trình buôn bán của các thương nhân Hoa 
trong giai đoạn lịch sử Hội An phát triển với vai trò 
là đô thị - thương cảng lớn. Do tính chất đặc biệt 
của một đô thị thương cảng và hoạt động kinh tế, 
thương mại của người Hoa ở Hội An đã quy định 
nên những nét đặc trưng cho các hội quán người 
Hoa ở Hội An. Ban đầu, các hội quán ở Hội An là 
nơi hội họp của người trong bang, nơi để cộng đồng 
người Hoa tha hương gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm 
làm ăn, nơi sinh hoạt tế lễ hàng năm của các cộng 
đồng, nơi thờ các vị thần linh theo tín ngưỡng dân 
gian của dân tộc Hoa. Trong đó, chức năng hội họp 
cộng đồng nổi trội hơn chức năng tín ngưỡng. Khi 
hoạt động của thương cảng Hội An không còn nữa, 
người Hoa ở Hội An không còn mạnh về hoạt động 
thượng nghiệp như trước kia và dần hòa nhập với 
cộng đồng người Việt thì các hội quán vẫn là những 
nơi gặp gỡ của cộng đồng người Hoa, người Việt 
gốc Hoa ở Hội An. Đặc biệt, ngày nay các hội quán 
đã trở thành những cơ sở tín ngưỡng chung cho cả 
người Việt và người Hoa, thành điểm du lịch của 
phố cổ Hội An. 
3.2. Định hướng bảo tồn kiến trúc cổ các hội 
quán 
Cũng giống như các di tích khác ở Hội An, các 
hội quán tuy mang nhiều giá trị và trải qua thử 
thách ác liệt của bom đạn chiến tranh, sự tác động 
khắc nghiệt của môi trường khí hậu và xu thế hiện 
đại hóa của con người, nhưng chúng vẫn hiện tồn 
nguyên vẹn, mang đậm dáng nét cổ xưa. Tuy có 
nhiều giá trị to lớn nhưng các hội quán cũng đứng 
trước tình trạng hư hại, xuống cấp, nhất là các cấu 
kiện gỗ bị mối mọt, trang trí bằng hợp chất bị gãy 
vỡ, bám rêu đen. 
Trước hiện trạng trên, cần sự phối hợp của các 
cơ quan chức năng, các bang hội, cùng tất cả quần 
chúng nhân dân, kể cả du khách. Theo đó, từng hội 
quán rất cần được bảo vệ, trân trọng, giữ gìn bằng 
những giải pháp phù hợp. Đó là việc tiếp tục đẩy 
mạnh công tác nguyên cứu khoa học để đánh giá 
đầy đủ, chuẩn xác hơn về giá trị của di sản kiến trúc 
độc đáo này. Tuyên truyền vận động nhằm nâng cao 
ý thức bảo tồn di sản trong nhân dân. Đầu tư kinh 
phí để tu bổ, cứu nguy khẩn cấp cho những công 
trình xuống cấp nghiêm trọng. Hỗ trợ, giúp đỡ các 
bang bằng nhiều cách khác nhau để họ có điều kiện 
tự tu sửa hội quán. Các cấp chính quyền cần sử 
dụng hợp lý nguồn vật liệu, kỹ thuật truyền thống 
và đội ngũ cán bộ để phục vụ tu bổ di tích, chống 
mối mọt, bảo vệ các hiện vật Các hội quán bộ 
phận hữu cơ cấu thành quần thể khu phố cổ và của 
văn hóa xứ Quảng, bởi vậy, bảo tồn các hội quán là 
góp phần quan trọng vào việc bảo tồn di sản văn 
hóa thế giới đô thị cổ Hội An. Hiện nay, thành phố 
Hội An là nơi giàu tiềm năng về du lịch, trong đó 
các di tích lịch sử văn hóa có vị trí đặc biệt quan 
trọng. 
Các hội quán của người Hoa ở Hội An nói riêng 
và kiến trúc cổ Hội An nói chung còn gợi ra nhiều 
hướng nghiên cứu chuyên sâu ở các lĩnh vực: di 
tích, di vật, mối quan hệ với các di tích cổ khác ở 
Hội An, các di tích kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng 
của người Hoa ở những nơi khác, đặc điểm của 
từng cộng đồng người Hoa trong mối quan hệ với 
các nơi khác, hội quán trong bối cảnh rộng hơn 
Các nghiên cứu về lịch sử nói chung hay nghiên 
cứu liên ngành để có thể cung cấp thêm những cứ 
liệu khoa học về lịch sử - văn hóa vùng đất Hội An 
nói riêng, về hội nhập văn hóa của người Hoa ở 
Việt Nam nói chung. Hy vọng trong tương lai gần, 
các hướng nghiên cứu trên sẽ được triển khai nhằm 
phục vụ tốt cho việc nghiên cứu toàn diện về phố cổ 
Hội An trong lịch sử để phục vụ cho sự phát triển 
của Hội An trong hiện tại và tương lai. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 60 
Kết luận 
Thương cảng Hội An ra đời và trù phú nhờ 
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có vai trò đặc biệt 
của người Hoa. Các hội quán của người Hoa ở Hội 
An là những công trình kiến trúc đặc sắc có giá trị 
nhiều mặt, đánh dấu sự định cư và phát triển của 
người Hoa, phản ánh các giai đoạn lịch sử hình 
thành, hưng hịnh và suy tàn của vùng đất Hội An – 
Quảng Nam. Kiến trúc cổ các hội quán của người 
Hoa ở Hội An là những công trình kiến trúc cổ tiêu 
biểu của đô thị cổ Hội An, góp phần tạo nên diện 
mạo cho khu phố cổ Hội An trong lịch sử và cả hiện 
tại. Nghiên cứu các hội quán ở Hội An sẽ cho thấy 
quá trình người Hoa tụ cư ở Hội An, sự giao lưu 
văn hóa Việt - Hoa trong lịch sử và chủ nhân di sản 
– những người Hoa tha hương đã dần hội nhập vào 
đại gia đình các dân tộc Việt Nam. 
Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của thành 
phố Hội An hiện nay, các công trình kiến trúc cổ, 
trong đó có kiến trúc các hội quán của người Hoa, 
cần được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy, nhằm 
khai thác tốt các giá trị di sản mà tiền nhân để lại và 
định hướng phát triển kinh tế - văn hóa - du lịch của 
thành phố Hội An. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 61 
Huiguan architecture of the Hoa in Hoian 
(Quang Nam province) 
 Vo Thi Anh Tuyet 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
 Dao Vinh Hop 
Saigon University 
 ABSTRACT: 
Huiguans in Hoian are great archivements 
built by countrymen who come from southeast 
coastal provinces of China and bearing 
traditions of the Chinese merchants. Those are 
places for Hoa people could give their regards, 
business experiences or express sentiments 
toward fellow – countrymen. As the same time, 
huiguans are temples for them to offer their 
belief to the god or goddess worshiped in folk 
belief of the Hoa and places to make the 
festivals every year. The ancient architectures 
of huiguans in Hoian are buildings which 
symbolise to Hoian and contribute to compose 
the shape of Hoian ancient town in the past 
and present. 
Nowadays, Hoian are in the time of rapidly 
development, the ancient buildings including 
the huiguans of the Hoa must be done in 
researching as well as in preserving and 
bringing into play. Concurently, we need to 
exploit effectly these heritage to make plans to 
develop our economy, culture and tourism in 
Hoian. 
Keywords: Huiguan, the Hoa, Hoian, ancient architectures 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Chen Ching Ho (1960), “Mấy điều nhận xét về 
Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An”, Việt 
Nam khảo cổ tập san, Số 1, Bộ Quốc gia Giáo 
dục, Sài Gòn. 
[2]. Nguyễn Hồng Kiên (1996), “Kiến trúc gỗ cổ 
truyền Việt”, Tạp chí kiến trúc, số 03, tr.36. 
[3]. Nguyễn Quốc Hùng (1995), Phố cổ Hội An và 
việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Đà 
Nẵng. 
[4]. Trần Ánh (2005), Nhà gỗ Hội An – Những giá 
trị và giải pháp bảo toàn, Trung tâm quản lý 
bảo tồn di tích Hội An. 
[5]. Trần Lâm Biền (1998), “Giao lưu mỹ thuật Hoa 
- Việt”, Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao 
lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế 
Giới, Hà Nội. 
[6]. Viện nghiên cứu Văn hóa Quốc tế, trường Đại 
học nữ Chiêu Hòa (2000), Kiến trúc phố cổ Hội 
An – Việt Nam, Nxb. Thế Giới, Hà Nội. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 62 
PHỤ LỤC 
HQ 
Quảng Triệu 
HQ 
Trung Hoa 
HQ 
Phúc Kiến 
HQ 
Quỳnh Phủ 
HQ 
Triều Châu 
Hình 1. Bản đồ phân bố các hội quán ở Hội An (Nguồn: 
(Nguồn: Võ Thị Ánh Tuyết, Đào Vĩnh Hợp tổng hợp từ  
Hình 2. Mặt trước tiền điện hội quán Phúc Kiến ở Hội An 
(Nguồn: Võ Thị Ánh Tuyết, Đào Vĩnh Hợp) 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 63 
Hình 3. Xà cò chính điện hội quán Triều Châu ở Hội An ghi niên đại 1885 và 1969 
Hình 4-5. Trang trí mặt trước cửa tiền điện các hội quán ở Hội An 

File đính kèm:

  • pdfkien_truc_co_cac_hoi_quan_cua_nguoi_hoa_o_hoi_an_quang_nam.pdf