Khế ước trong pháp luật phong kiến Việt Nam – một số giá trị và hạn chế

Các giao dịch dân sự đã được các nhà làm luật thời phong kiến quan tâm và thể

chế hóa thành các quy định pháp luật thông qua khế ước. Tuy không chiếm số

lượng lớn về điều khoản nhưng các quy định về giao dịch dân sự trong hai bộ

luật Quốc triều hình luật (thời Lê) và Hoàng Việt luật lệ (thời Nguyễn) đã làm rõ

các vấn đề, mối quan hệ trong trao đổi mua bán, thuê mướn ruộng đất và các tài

sản khác giữa các cá nhân thời phong kiến.

pdf 12 trang kimcuc 15500
Bạn đang xem tài liệu "Khế ước trong pháp luật phong kiến Việt Nam – một số giá trị và hạn chế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khế ước trong pháp luật phong kiến Việt Nam – một số giá trị và hạn chế

Khế ước trong pháp luật phong kiến Việt Nam – một số giá trị và hạn chế
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
22 
KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
VIỆT NAM – MỘT SỐ GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ 
PHẠM THỊ THU HIỀN* 
Các giao dịch dân sự đã được các nhà làm luật thời phong kiến quan tâm và thể 
chế hóa thành các quy định pháp luật thông qua khế ước. Tuy không chiếm số 
lượng lớn về điều khoản nhưng các quy định về giao dịch dân sự trong hai bộ 
luật Quốc triều hình luật (thời Lê) và Hoàng Việt luật lệ (thời Nguyễn) đã làm rõ 
các vấn đề, mối quan hệ trong trao đổi mua bán, thuê mướn ruộng đất và các tài 
sản khác giữa các cá nhân thời phong kiến. 
Từ khóa: hợp đồng, pháp luật, phong kiến, khế ước 
Nhận bài ngày: 11/8/2019; đưa vào biên tập: 15/8/2019; phản biện: 28/8/2019; 
duyệt đăng: 4/10/2019 
MỞ ĐẦU 
Cùng với quá trình thiết lập bộ máy 
cai trị, đặt quan chia chức để giúp vua 
quản nước trị dân, các vị vua phong 
kiến Việt Nam đã quan tâm đến việc 
xây dựng và ban hành một bộ luật 
thống nhất trong cả nước để điều 
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. 
Quốc triều hình luật thời Lê và Hoàng 
Việt luật lệ thời Nguyễn là những bộ 
luật tổng hợp có giá trị đến ngày nay, 
là cơ sở để khảo cứu các vấn đề pháp 
luật thời xưa. Xuất phát từ chính sách 
quản lý kinh tế và nhu cầu trao đổi 
mua bán trong thực tiễn đời sống xã 
hội, hai bộ luật đã có những quy định 
về vấn đề thỏa thuận mua bán, trao 
đổi, cho thuê hay cầm giữ. Tuy số 
lượng điều khoản điều chỉnh không 
nhiều, nhưng nội dung khế ước đều 
gián tiếp hay trực tiếp đề cập đến các 
quy định dân sự đã phần nào cho thấy 
tầm quan trọng nhất định đối với sự 
phát triển của quy định pháp luật dân 
sự nói chung thời phong kiến. 
1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ 
KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT 
PHONG KIẾN VIỆT NAM 
1.1. Khế ước - văn khế, văn ước 
Thời phong kiến, khái niệm về hợp 
đồng chưa xuất hiện. Trong Quốc triều 
thư khế thể thức có sự xuất hiện của 
thuật ngữ khế ước. Dựa trên sự khác 
biệt về loại giao dịch, tính chất giao 
dịch, có các loại văn khế (văn khế cầm 
cố ruộng đất, bán đứt ruộng đất, đổi 
ruộng) và văn ước (văn ước bán ngựa, 
bán trâu, thuê trâu, thuê thuyền, thuê 
ruộng, vay nợ, cầm cố con, bán nô tỳ, 
nuôi con nuôi, thả nô tỳ, bán thuyền). 
Ví dụ một văn tự mượn trâu bò: “Phủ 
Kiến Trường tôi là Phước cùng vợ 
làm văn tự này để mượn hai con trâu 
của ông Hương, chủ Lợi làng Bình 
* 
Trường Đại học Luật Hà Nội. 
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
23 
Đức Tôi cam đoan mượn hai con 
trâu này để canh tác và giao trả lại 
cho chủ một năm sau, giá mướn là 80 
giạ lúa. Nếu gặp trường hợp bất đắc 
hoặc bệnh tật khiến trâu chết tôi sẽ 
phải báo cho chủ biết để chứng 
nghiệm và xét xem có phải vì quá 
tham lam, đã bắt trâu cày quá sức để 
đến nỗi chết không. Trong trường hợp 
này tôi xin chịu thường hoàn cho chủ” 
(dẫn theo Vũ Văn Mẫu, 1975: 51). 
Qua thống kê, bộ Quốc triều hình luật 
có số lượng điều khoản điều chỉnh 
các quy định liên quan đến giao dịch 
trao đổi, mua bán, thuê mướn cầm cố 
gấp đôi các điều khoản trong bộ 
Hoàng Việt luật lệ (45/722 điều khoản 
trong Quốc triều hình luật và 24/395 
điều trong Hoàng Việt luật lệ). Tuy 
nhiên, cả hai bộ luật này đều không 
nhắc đến thuật ngữ khế ước hay hợp 
đồng mà chủ yếu là các thuật ngữ cụ 
thể như mua bán, thuê, cầm, cho 
hay Điều 282 Hoàng Việt luật lệ có 
nhắc đến thuật ngữ “bạch khế” (văn 
khế để trống chưa có dấu của chính 
quyền) và “hồng khế” (văn khế có 
đóng dấu mực đỏ) trong việc mua bán 
nô tỳ. 
Tuy trong luật cổ không đưa ra lời giải 
thích cho các khái niệm trên nhưng 
thông qua các điều khoản có thể nhận 
thấy yếu tố thỏa thuận trong giao kết 
(Bộ Tư pháp 1996: 40). Trong các khế 
ước, văn khế đó, quyền và nghĩa vụ 
của các bên tham gia đã được xác lập. 
Từ sự phân tích trên, có thể nhận định: 
khế ước là sự thỏa thuận, cam đoan 
của một hay nhiều người với một hay 
nhiều người khác để xác lập quyền và 
nghĩa vụ của người này đối với người 
khác và ngược lại. Từ đó chuyển giao 
tài sản từ người này qua người khác 
(ruộng đất, nhà cửa, tiền, con cái), 
để làm một việc hoặc không làm một 
việc cụ thể nào đó (thuê trâu bò, nhân 
công...). 
1.2. Chủ thể khế ước 
Pháp luật phong kiến Việt Nam không 
có một điều khoản nào minh thị cụ thể 
về chủ thể tham gia giao kết khế ước, 
văn khế, tuy nhiên, qua nội dung các 
điều luật có thể nhận thấy, chủ thể 
chủ yếu giao kết giao dịch là cá nhân. 
Tùy từng loại giao dịch mà điều kiện 
về chủ thể tham gia giao kết khế ước 
là khác nhau, phụ thuộc vào lứa tuổi, 
quan hệ tài sản, quan hệ trong gia 
đình, xã hội như Điều 378 và 379 
Quốc triều hình luật nhưng tất cả đều 
phải đáp ứng điều kiện cơ bản, đó là 
năng lực hành vi dân sự. 
Khi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự 
thì họ được tự mình xác lập, thực hiện 
các giao kết. Năng lực hành vi này 
căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận 
thức của bản thân các cá nhân trong 
các mối quan hệ xã hội. Độ tuổi có thể 
được xác định theo độ tuổi kết hôn 
được quy định trong pháp luật hoặc 
tập quán người Việt. Trong Thiên nam 
dư hạ tập, nghi lễ cưới xin đời Hồng 
Đức quy định con trai 18 tuổi trở lên, 
con gái từ 16 tuổi trở lên được kết hôn. 
Trong luật tục thì “nữ thập tam, nam 
thập lục”. Do vậy, độ tuổi theo quy 
định của pháp luật được coi là có 
năng lực dân sự; đồng thời độ tuổi đó 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
24 
cao hơn tập quán và có sự khác nhau 
giữa nam và nữ. Tuy nhiên, trong một 
số trường hợp nhất định, pháp luật 
cũng cho phép độ tuổi tham gia giao 
kết có thể ít hơn. Điều 313 Quốc triều 
hình luật quy định “Con gái và những 
trẻ nhỏ mồ côi, tự bán mình mà không 
có ai bảo lãnh thì người mua cùng 
người viết văn khế, người làm chứng 
đều xử tội xuy trượng như luật, đòi lại 
tiền trả cho người mua mà hủy bỏ văn 
khế. Nếu những người cô độc, khốn 
cùng từ 15 tuổi trở lên, tình nguyện 
bán mình thì cho phép” (Viện Sử học, 
2009: 70). Điều khoản trên cho thấy 
độ tuổi được coi là có năng lực hành 
vi dân sự là từ 15 tuổi trở lên. Đồng 
thời, trong một số trường hợp nhất 
định, pháp luật thời Lê đã có sự hạn 
chế đối tượng tham gia giao kết, họ 
chỉ được tham gia khi có người bảo 
lãnh; đó là con gái, trẻ mồ côi thì bị 
hạn chế về khả năng nhận thức, khi 
tham gia giao dịch họ cần có người 
bảo lãnh; hoặc Điều 379 Quốc triều 
hình luật quy định trong trường hợp 
con cháu còn nhỏ, ông bà cha mẹ 
chết cả mà còn có khoản nợ phải trả 
thì người trưởng họ đứng ra đảm bảo 
để giao kết. 
Đặc biệt, trong một số mẫu khế ước 
thời Lê trong Quốc triều thư khế thể 
thức như “văn tự nuôi con nuôi”, “văn 
khế bán đứt ruộng đất”, “văn khế cầm 
cố ruộng đất” cho thấy người phụ 
nữ cũng được tham gia vào một số 
giao dịch nhất định trong việc bán, cho 
thuê hay cầm cố ruộng đất và nhận 
nuôi con nuôi. 
1.2. Hiệu lực của khế ước 
Liên quan đến vấn đề này, trong hai 
bộ luật thời kỳ phong kiến, không có 
một điều khoản cụ thể nào quy định 
về điều kiện để khế ước có hiệu lực. 
Tuy nhiên, gián tiếp trong một số quy 
định về các loại khế ước có thể nhận 
thấy điều kiện chung cho tất cả các 
khế ước có hiệu lực bao gồm: 
Thứ nhất, cần đảm bảo nguyên tắc tự 
do, tự nguyện trong giao kết khế ước. 
Nguyên tắc này không được minh thị 
trong luật cổ nhưng nó là kết quả của 
sự thể chế hóa các quan điểm của lễ 
nghi Nho giáo vào pháp luật. Nho giáo 
đề cao đạo đức của con người, tin 
tưởng ở kết quả tốt đẹp của các hành 
vi của người quân tử, “đòi hỏi họ hành 
động không được trái với nhân, lễ, 
nghĩa, trí, tín” (Bộ Tư pháp 1996: 49). 
Đặc biệt, đức “nhân” được coi là gốc 
của mọi đức khác, do đó ngoài ý thức 
tôn trọng lời hứa thì người quân tử 
không được làm điều gì mà mình 
không muốn người khác thi hành với 
mình (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). 
Sự tự nguyện được hiểu là xuất phát 
từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của 
các bên trong các thỏa thuận khế ước, 
văn khế đó, không có hành vi dùng vũ 
lực đe dọa, cưỡng bách, ức hiếp hay 
lừa dối. Ví dụ, Điều 355 Quốc triều 
hình luật quy định “Người nào mà ức 
hiếp để mua ruộng đất của người 
khác thì phải biếm hai tư(1) và cho lấy 
lại tiền mua” (Viện Sử học, 2009: 77) 
hay Điều 137 Hoàng Việt luật lệ quy 
định “phàm mua bán các đồ vật mà 
đôi bên không thỏa thuận được với 
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
25 
nhau lại cứ nắm chặt lấy hàng hóa để 
trục lợi và bọn chạy hàng cò mồi 
thông đồng với tay chân cùng lập kế 
gian để bán đồ vật của mình vốn rẻ 
thành đắt và mua đồ vật của người 
khác vốn đắt thành rẻ thì xử phạt 80 
trượng” (Viện Sử học, 2009: 483). 
Hành vi lừa dối ở đây có thể xác định 
được qua thái độ của chủ thể, tài sản 
đem ra trao đổi mua bán là trái phép 
như: Điều 317 Hoàng Việt luật lệ có 
đề cập: “Phàm quan lại cấu kết với 
bọn cường hào sách nhiễu, vay mượn 
tiền của dân sở thuộc mình cai quản 
thì tính toàn bộ tang(2) chuẩn theo điều 
bất uổng pháp(3) mà trị tội”, hoặc Điều 
87 Hoàng Việt luật lệ: “Phàm bán trộm 
ruộng đất của người khác hoặc đánh 
đổi ruộng đất mà mình không ưa hoặc 
mạo nhận ruộng đất của người khác 
là của mình hoặc cầm bán theo lối 
điền giả thì từ 1 mẫu ruộng, 1 gian 
nhà trở xuống thì xử phạt 50 roi, cứ 5 
mẫu ruộng, 3 gian nhà lại tăng thêm 
một mức” (Viện Sử học, 2009: 414). 
Cùng với việc ghi nhận sự ưng thuận 
trong giao kết, bác bỏ các hành vi lừa 
dối, cưỡng bức, các nhà làm luật thời 
phong kiến đã đưa ra các hình phạt 
đối với bên vi phạm tương ứng với 
mức độ, hành vi vi phạm. 
Thứ hai, nội dung khế ước không 
được trái với thuần phong mỹ tục của 
người Việt và các quy định của nhà 
vua. Ý niệm này cũng không được 
định nghĩa trong một điều khoản rõ rệt 
nào và nó có liên hệ mật thiết đến chế 
độ gia đình gia trưởng, văn hóa và 
chính sách của nhà nước. Trong gia 
đình người Việt, quyền của người gia 
trưởng luôn được đề cao và “bất kỳ 
hành vi nào xâm phạm đến quyền của 
người gia trưởng sẽ bị xử phạt” (Vũ 
Văn Mẫu, 1975: 10). Người gia trưởng 
được hiểu là ông bà, cha mẹ, cậu 
hoặc là anh cả trong gia đình nếu ông 
bà, cha mẹ mất cả. Điều 387 Quốc 
triều hình luật quy định “Phàm cha mẹ 
còn sống mà bán điền sản phi pháp, 
con trai phạt 60 trượng, giáng hai bậc, 
con gái phạt 50 roi, giáng hai bậc, 
phải trả nguyên tiền cho người mua 
và điền sản trả lại cho cha mẹ”. Hành 
vi đó đã vi phạm đến đạo “hiếu” trong 
văn hóa Việt, sự ứng xử giữa cha mẹ 
với các con. Điều khoản trên vừa dự 
liệu sự trừng phạt về hình sự vừa áp 
dụng chế tài dân sự, đó là sự tiêu hủy 
khế ước đem lại sự tái lập nguyên 
trạng. Hay Điều 95 Hoàng Việt luật lệ 
quy định về cầm cố vợ hoặc con gái 
hoặc Điều 400 Quốc triều hình luật 
bàn về việc cấm bán ruộng đất hương 
hỏa. Những hành vi trên trái với thuần 
phong mỹ tục, luân thường và đạo 
đức người Việt nên sự giao kết đó 
đều bị tiêu hủy. 
Bên cạnh đó, mặc dù thời phong kiến 
ở Việt Nam,“uy quyền được tập trung 
trong tay những người có quyền bính 
của nhà vua, ở tất cả các giai tầng” 
(Vũ Văn Mẫu, 1975: 12) và khế ước là 
sự giao kết giữa các cá nhân với nhau 
nhưng các cá nhân đó không thể kết 
ước để có thể mua bán nô tỳ và làm 
sai lệch những quy định của luật nước. 
Nếu sai phạm luật này sẽ bị áp dụng 
chế tài nghiêm trị. Ví dụ Điều 453 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
26 
Quốc triều hình luật quy định “những 
kẻ bắt người bán làm nô tỳ thì lưu đi 
châu xa, dỗ người đem bán làm nô tỳ 
thì tội kém một bậc” (Viện Sử học, 
2009: 94) hay Điều 224 Hoàng Việt 
luật lệ có ghi nhận những việc kết lập 
hội kín, uống máu ăn thề, để làm các 
việc phi pháp hại dân lành, đều bị 
nghiêm trị. 
Thứ ba, khế ước có hiệu lực khi tuân 
theo thủ tục và hình thức theo quy 
định. 
- Về thủ tục: trong một số trường hợp 
khi tiến hành giao kết cần có người 
chứng kiến hoặc người viết thay điểm 
chỉ. Điều 366 Quốc triều hình luật quy 
định “những người làm chúc thư văn 
khế mà không nhờ các người quan 
trưởng trong làng viết thay và chứng 
kiến thì phải phạt 80 trượng và phạt 
tiền tùy theo việc nặng nhẹ. Chúc thư 
hay văn khế ấy không có giá trị” (Viện 
Sử học, 2009: 78). Những người tham 
gia chứng kiến bao gồm người chứng 
kiến việc giao kết khế ước, văn khế 
giữa hai chủ thể và người chứng kiến 
việc người khác viết thay văn tự cho 
người tham gia giao kết. Do đó, người 
chứng kiến phải là những người có 
quan tước hoặc người tôn trưởng có 
tuổi ở trong họ, trong làng, trưởng 
làng và biết chữ. Những người chứng 
kiến đó phải cùng ký tên vào văn tự, 
văn khế để làm bằng. 
Thông thường, văn tự hay khế ước 
quan trọng liên quan đến đất đai sẽ 
được làm hai bản, trong đó một bản 
giao cho trưởng làng là người chứng 
kiến. Khi chứng kiến, “trưởng làng sẽ 
áp triện trên chữ ký của bản thân và 
những chữ khác như tên của các chủ 
thể, số tiền bán, diện tích đất đai và 
nếu văn tự có nhiều tập thì trưởng 
làng phải ấn triện giữa hai tờ một” (Vũ 
Văn Mẫu, 1975: 27). Quy định trên 
cho thấy sự dự liệu cẩn trọng của các 
nhà làm luật thời phong kiến, đảm bảo 
ý chí của chủ thể giao kết khế ước 
hiệu lực của khế ước và là cơ sở để 
giải quyết các vấn đề tranh chấp sau 
này. 
- Về hình thức của khế ước: Theo 
nguyên tắc, khi các bên tham gia giao 
kết đồng ý về nội dung trao đổi thì 
không cần đòi hỏi một hình thức nào. 
Tuy nhiên, đối với một số vật đem ra 
trao đổi có giá trị như đất đai, trâu bò, 
con cái, tiền bạc thì các bên tham gia 
thường lựa chọn hình thức giao kết là 
văn bản để làm bằng. Như vậy, từ 
thực tế và quy định trong hai bộ luật 
có thể chia giao dịch làm hai loại: thỏa 
thuận miệng và bằng văn bản. Về 
nguyên tắc, những người lập khoán 
ước được tự do thảo khế ước theo ý 
muốn nhưng trên thực tế, từ thời vua 
Lê Thánh Tông đã ban hành những 
kiểu mẫu khác nhau để cho dân gian 
tiện dùng. Những mẫu văn khế đó có 
thể được tìm thấy trong cuốn Quốc 
triều thư khế thể thức thời Lê và được 
áp dụng cho tới thời Nguyễn. Thống 
kê một số văn khế trong Quốc triều 
thư khế thể thức, có thể nhận thấy các 
mẫu văn khế không khác nhau nhiều, 
tập trung vào những nội dung như: 
+ Địa điểm nơi cư trú và chủ thể. Việc 
quy định rõ ràng địa điểm cư trú và 
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
27 
chủ thể giao kết khế ước, văn khế sẽ 
cho chúng ta nhận diện được họ là ai 
và sinh sống tại đâu. Ví dụ trong văn 
khế năm 1873 có đoạn “Phủ Tĩnh Biên, 
huyện Bình Dương, tổng Thành Tín, 
làng Vĩnh Điền, chúng tôi là Khoa và 
Phước làm văn tự này để thuê của 
ông Thọ một số ruộng đất trong làng” 
(theo Vũ Văn Mẫu, 1975: 53) hay một 
khế ước năm Thiệu Trị thứ 7 có đoạn 
mở đầu “Tôi là Hoàng Huy Viêm và vợ, 
quán làng Mai Xá, huyện Thượng 
Nguyên, phủ Thiên Trường vì thiếu 
lúa ăn có vay của ông bà Hoàng Đình 
Cố, người cùng làng” (dẫn theo Vũ 
Văn Mẫu, 1975: 69). 
+ Lý do giao kết khế ước: nếu không 
nêu được lý do chính đáng thì người 
tham gia giao kết sẽ bị gánh chịu hậu 
quả nhất định và khế ước vô hiệu như 
Điều 379 Quốc triều hình luật quy định 
“Ông bà, cha mẹ chết cả mà người 
trưởng họ bán điền sản của con cháu 
không có lý do chính đáng thì xử phạt 
60 trượng, biếm hai tư, trả lại tiền cho 
người mua và lại trả thêm mộ ... g đó, Quốc 
triều hình luật 13 điều(11), Hoàng Việt 
luật lệ 11 điều(12). Qua phân tích các 
điều khoản có thể thấy rõ nguyên tắc 
phải thực hiện đúng cam kết đã vay là 
phải trả đủ. Nếu như bên vay là vợ, 
chồng thì họ có trách nhiệm trả bằng 
của nổi(13) trong gia đình. Trong 
trường hợp của nổi không đủ dùng để 
trả thì phần nợ chia làm hai, phần nợ 
của chồng được trả từ tài sản của 
chồng, phần nợ của vợ được trả từ tài 
sản của vợ. Đồng thời theo Điều 589 
và 590 Quốc triều hình luật, vợ chồng 
có nghĩa vụ trả nợ cho nhau, khoản 
nợ đó không được chuyển cho cha 
mẹ, họ hàng thân thích. Bên cạnh đó, 
theo Điều 384, 388 và 588 Quốc triều 
hình luật, người chủ nợ sẽ không có 
quyền đòi nợ khi để quá niên hạn 30 
năm với người trong họ và 20 năm với 
người ngoài họ. Theo Điều 134 Hoàng 
Việt luật lệ, kỳ hạn trả lại tiền vay là 3 
tháng và nếu trong trường hợp quá kỳ 
hạn nếu cường hào có thế lực không 
trình quan mà đến cưỡng đoạt đòi nợ 
thì sẽ bị xử phạt. 
2. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ 
CỦA KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT 
PHONG KIẾN VIỆT NAM 
2.1. Giá trị 
Một là, khế ước, văn khế là cơ sở 
pháp lý cho việc xác lập các giao dịch 
hay quan hệ dân sự phát sinh, phát 
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
29 
triển trong đời sống xã hội theo ý chí 
của chủ thể quản lý (nhà nước phong 
kiến) và nhu cầu khách quan của kinh 
tế, xã hội. Như đã phân tích ở trên, 
các loại hợp đồng đều liên quan đến 
nền kinh tế thủy nông, đời sống của 
người nông dân và chính sách trọng 
nông của các triều đại phong kiến Việt 
Nam. Điều này xuất phát từ điều kiện 
địa - kinh tế, xã hội của người Việt 
(đồng bằng phì nhiêu được bồi đắp 
phù sa và nông dân là giai cấp cơ bản 
trong xã hội nông nghiệp) cùng tư 
tưởng “trọng nông” của Nho giáo. Do 
vậy, để thuận tiện cho việc thiết lập 
các quan hệ giao dịch dân sự, các 
mẫu khế ước đã được lập ra để dân 
thuận tiện dùng. 
Hai là, điều dễ nhận thấy nhất, khế 
ước chính là cơ sở để giải quyết tranh 
chấp phát sinh. Điều 356 Quốc triều 
hình luật quy định “Những tá điền cấy 
ruộng nhờ ở nhà của người khác mà 
trở mặt tranh làm của mình thì phạt 60 
trượng, biếm 2 tư; nếu người chủ 
ruộng đất có văn tự xuất trình thì 
người tá điền phải bồi thường gấp đôi 
số tiền ruộng đất, không có văn tự thì 
trả nguyên tiền” (Viện Sử học, 2009: 
77). Quy định này cũng cho thấy, 
pháp luật phong kiến Việt Nam đã có 
sự đề cập đến trách nhiệm dân sự khi 
một trong các bên vi phạm nghĩa vụ 
đã thỏa thuận. 
Trách nhiệm dân sự trong luật phong 
kiến quy định người vi phạm phải có 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại (sự 
bồi thường này căn cứ vào mức độ lỗi 
và phạm vi thiệt hại thực tế) và kèm 
theo phạt vi phạm như Điều 306 Quốc 
triều hình luật (bán nô tỳ của nhà 
nước từ 3 người trở lên thì xử tội lưu 
và bắt nộp gấp đôi số tiền bán nộp 
vào kho), Điều 342 Quốc triều hình 
luật (bán ruộng đất công cấp cho hay 
ruộng đất khẩu phần thì xử 60 trượng 
biếm 2 tư, truy thu số tiền bán và 
ruộng đất sung công). Về mức độ điều 
chỉnh đến trách nhiệm dân sự thì bộ 
Quốc triều hình luật có nhiều điều 
khoản quy định hơn bộ Hoàng Việt 
luật lệ; đồng thời, trong một số điều 
khoản hai bộ luật có cách thức áp 
dụng xử lý khác nhau đối với cùng 
một hành vi vi phạm. Ví dụ liên quan 
đến tài sản ký gửi: Điều 579 Quốc 
triều hình luật quy định “Những người 
nhận gia súc, của công mà giấu giếm 
hay bán đi thì xử phạt 80 trượng và 
đền tiền theo như số tổn thất, nói dối 
là chết hay mất thì phải biếm 1 tư và 
đền tiền gấp đôi, nếu đánh mất phạt 
80 trượng và đền theo giá tiền gia súc 
làm mất” (Viện Sử học, 2009: 116) thì 
Điều 135 Hoàng Việt luật lệ quy định 
“Phàm nhận tài vật, gia sản, súc vật 
của người khác gửi mà sử dụng 
phung phí thì xử theo tội tọa tang(14) 
được giảm 1 mức, tội chỉ đến mức 90 
trượng đồ 2,5 năm. Dối trá nói là bị 
chết hay đánh mất thì xử theo tội lấy 
trộm, cho giảm 1 mức, tội dừng ở 
mức phạt 100 trượng, đồ 3 năm, cho 
miễn thích chữ” (Viện Sử học, 2009: 
481). Như vậy, nếu như Quốc triều 
hình luật quy định phạt vi phạm kèm 
theo là bồi thường tổn thất thì Hoàng 
Việt luật lệ chỉ quy định phạt vi phạm. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
30 
Ba là, các quy định của khế ước đều 
tuân theo lễ nghi Nho giáo và thuần 
phong mỹ tục của người Việt Nam. 
Nho giáo rất coi trọng chữ tín trong đạo 
đức của con người. Do đó, các bên khi 
tham gia giao kết thỏa thuận cần thực 
hiện đúng nguyên tắc này, nếu không 
sẽ bị áp dụng hình phạt nhất định. Điều 
315 Quốc triều hình luật đề cập đến 
vấn đề hôn nhân, đó là gả con gái đã 
nhận đồ sính lễ mà thôi không gả nữa 
thì phạt 80 trượng. Mặt khác, Nho giáo 
luôn đề cao quan điểm tu, tề, trị, bình, 
coi gia đình nền tảng của xã hội và 
quốc gia. Do đó, những mối quan hệ 
trong gia đình luôn được đề cao. 
Chúng ta có thể thấy tinh thần của Nho 
giáo qua Điều 387, 588 Quốc triều hình 
luật về niên hạn đối với người trong họ 
là 30 năm, người ngoài là 20 năm 
trong trường hợp mắc nợ quá hạn hay 
thời gian cày cấy ruộng đất. Đây cũng 
là truyền thống của người Việt Nam khi 
luôn đề cao yếu tố gia đình. Một trong 
những thuần phong mỹ tục đó là hiếu 
kính với cha mẹ. Sự hiếu kính hay bất 
hiếu ở đây thể hiện qua những giao 
dịch liên quan đến tài sản và cúng tế 
cha mẹ khi mất. Ví dụ, Điều 378 Quốc 
triều hình luật quy định con cái không 
được bán điền sản của cha mẹ hay 
Điều 400 Quốc triều hình luật quy định 
tài sản thờ cúng không được đem ra 
trao đổi, mua bán. Nếu vi phạm điều 
này thì thỏa thuận sẽ bị hủy, người 
tham gia giao dịch sẽ bị nhận hình 
phạt cho tội bất hiếu. 
Bên cạnh đó, thỏa thuận cũng được 
coi là vô hiệu nếu liên quan đến hành 
vi không nhân từ của cha mẹ đối với 
các con, lối ứng xử không có tình 
giữa vợ chồng như: Điều 377 Quốc 
triều hình luật bảo vệ quyền lợi của 
các con: “khi chồng chết con còn nhỏ, 
mẹ đi cải giá mà lại đem bán điền sản 
của con thì xử 50 roi, trả lại tiền 
người mua, trả ruộng cho con. Nếu 
người chồng sau mạo tên con người 
chồng trước mà bán thì người chồng 
sau, cùng người viết văn tự và người 
chứng kiến đều xử phạt 60 trượng, 
biếm 2 tư. Vợ sau mà bán điền sản 
của con vợ trước thì cũng xử như 
thế” (Viện Sử học, 2009: 81). Điều 95 
Hoàng Việt luật lệ đã bảo vệ quyền 
lợi của người phụ nữ (vợ, con) trong 
khế ước cầm cố: “phàm nhận tiền của 
mà đem thê thiếp cầm cố cho người 
khác làm thê thiếp thì người chồng đó 
bị xử phạt 80 trượng. Kẻ cầm cố con 
gái nếu là cha thì xử phạt 60 trượng, 
phụ nữ thì không bắt tội” (Viện Sử 
học, 2009: 482). 
Các quy định này phần nào cho thấy 
tư tưởng vượt thời đại của pháp luật 
phong kiến Việt Nam trong việc bảo 
vệ phụ nữ, trẻ em, các mối quan hệ 
trong gia đình và cho đến hiện nay 
vẫn còn nguyên giá trị. 
Bốn là, các quy định về khế ước tuân 
theo một trình tự nhất định có sự quản 
lý của chính quyền trong quá trình 
giao kết. Điều 366 Quốc triều hình luật 
quy định những người làm chúc thư, 
văn khế mà không nhờ quan trưởng 
trong làng viết thay và chứng kiến, thì 
phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc 
nặng nhẹ (Viện Sử học, 2009: 78). 
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
31 
Quy định này nhằm đảm bảo quyền 
lợi của người giao kết hợp đồng 
không biết chữ, trách nhiệm của 
người viết thay và người chứng kiến. 
Mặt khác, pháp luật phong kiến Việt 
Nam cũng dự liệu trường hợp bất khả 
kháng để có thể miễn thực hiện thỏa 
thuận trong trường hợp duy nhất là 
khế ước gửi giữ và trong điều khoản 
duy nhất trong Điều 135 Hoàng Việt 
luật lệ. Điều luật này quy định Người 
nào đã nhận ký thác tiền bạc, đồ vật 
hay súc vật của người khác và tự tiện 
tiêu dùng sẽ bị phạt. Nếu các tài vật 
ấy bị mất hoặc bị hỏa hoạn hay trộm 
cướp, thủy hỏa, đạo tặc hoặc các súc 
vật bị chết vì bệnh và có chứng cứ rõ 
ràng thì không bị tội. Quy định trên 
cho thấy, nếu tác nhân gây hại nằm 
ngoài mong muốn của bản thân, là 
những nguyên nhân không thể dự 
liệu của người nhận ký thác thì họ sẽ 
không bị bắt tội và không phải bồi 
hoàn cho người chủ. Đây là một quy 
định tiến bộ hơn so với luật thời Lê 
và có giá trị đến ngày nay. 
Năm là, một số quy định khế ước góp 
phần vào việc thực thi chính sách bảo 
vệ lãnh thổ và biên giới quốc gia hay 
chính sách quản lý quan lại và đời 
sống cư dân, hạn chế nạn nô tỳ hóa. 
Có thể kể đến một số điều khoản như: 
Điều 75 Quốc triều hình luật (bán binh 
khí cho người nước ngoài); Điều 193 
Hoàng Việt luật lệ (bán trộm quân khí 
phạt 100 trượng, đưa đi miền biên 
viễn sung quân). Điều 205 Hoàng Việt 
luật lệ (Mang lậu hàng hóa ra ngoài và 
vi phạm lệnh cấm mà ra biển thì phạt 
100 trượng, nếu mang người và quân 
khí ra ngoài cõi và ra biển thì xử tội 
giảo giam hậu); Điều 76 Quốc triều 
hình luật: bán mắm muối, vật cấm cho 
người nước ngoài; Điều 453 Quốc 
triều hình luật (bắt người đem bán làm 
nô tỳ thì xử lưu đi châu xa, dỗ người 
đem bán thì bị tội nhẹ hơn 1 bậc); 
Điều 317 Hoàng Việt luật lệ (Làm 
quan lại đi vay mượn sách nhiễu tiền 
của dân); Bên cạnh đó, theo quy 
định tại Điều 88 Hoàng Việt luật lệ, 
quan lại đương chức không được 
mua tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực 
mình cai quản, nếu vi phạm xử phạt 
50 roi, bãi nhiệm, ruộng đất nhà cửa 
đem sung công. Điều khoản này đã 
khoanh phạm vi tài sản cũng như chủ 
thể tham gia giao kết hợp đồng nhằm 
mục đích bảo đảm quyền lực tập trung 
cao độ trong tay nhà vua, tránh hiện 
tượng tích tụ nhiều ruộng đất như thời 
Trần, cũng như hạn chế hành vi 
nhũng nhiễu, cưỡng đoạt của quan lại 
đối với người dân. 
2.2. Hạn chế 
Về chủ thể giao kết hợp đồng. Xuất 
phát từ quan điểm của Nho giáo là 
“trọng nam khinh nữ”, trong Hoàng 
Việt luật lệ, một số chủ thể như vợ, 
con cháu cũng bị hạn chế về quyền 
năng thỏa thuận giao dịch. 
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp 
nhất định, pháp luật đã phần nào gián 
tiếp bảo vệ đặc quyền của giai cấp 
thống trị. Điều 592 Quốc triều hình 
luật quy định nếu là từ cửu phẩm trở 
lên, mắc nợ nhiều quá mà không có 
đủ tài sản trả hết tất cả cho chủ nợ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019 
32 
được quyền tâu xin thanh toán tài sản, 
chia cho các chủ nợ. Điều khoản này 
cho thấy sự thanh toán tài sản theo tỷ 
lệ số nợ chỉ được dự liệu cho các 
quan, còn đối với dân chúng thì không 
có quy định này. Nếu trong Quốc triều 
hình luật không có quy định nào về 
việc người chủ nợ được phép xin bỏ 
tù con nợ thì Điều 23 Hoàng Việt luật 
lệ đã có những quy định về sự thâu 
các tiền phạt, tiền tịch thu, tiền bồi 
thường, đối với tư gia nếu số tiền nợ 
quá 30 lạng bạc có thể cầm tù đương 
sự trong hơn 1 năm để cưỡng bách 
trả cho chủ. 
Về minh chứng giao kết. Ngoài một 
số loại khế ước như văn khế cầm cố 
ruộng đất, văn khế đổi ruộng (có 
đoạn ghi “đã có phép nước cho nên 
lập văn khế, văn tự gồm hai bản, mỗi 
bên giữ một bản để làm bằng hoặc 
tiện sử dụng”) được lập thành nhiều 
bản giao cho các bên giữ thì một số 
giao dịch nhất định chỉ được lập một 
bản như văn khế thuê ruộng viết rõ 
“nay lập văn tự giao cho chủ ruộng 
giữ” hoặc không ghi rõ lập làm mấy 
bản. Do vậy có thể dẫn đến tình trạng 
một bên sẽ tiêu hủy văn tự để trục lợi 
cho bản thân hoặc văn tự bị mất, bị 
hư hỏng và từ đó sẽ khó khăn cho 
việc chứng minh quyền lợi khi có 
tranh chấp phát sinh. Mặt khác, trong 
việc giao kết khế ước bao giờ cũng 
cần có người chứng kiến và được 
giao cho trưởng làng giữ một bản làm 
bằng cũng nảy sinh bất cập, đó là 
khó tìm kiếm hoặc bị mất. Bởi trong 
làng không tổ chức cách lưu giữ công 
văn, giấy tờ nên những văn tự do 
trưởng làng giữ cũng không được ghi 
vào sổ; đồng thời cũng không có sự 
bàn giao nếu có người mới được bổ 
làm trưởng làng. 
KẾT LUẬN 
Tóm lại, các quy định về khế ước 
trong bộ Quốc triều hình luật và 
Hoàng Việt luật lệ được áp dụng 
chung cho tất cả các loại giao dịch, 
không phân biệt giao dịch dân sự hay 
kinh tế, hay nhằm đáp ứng các nhu 
cầu sinh hoạt hàng ngày. Tùy vào 
tính chất đặc thù của các mối quan 
hệ hoặc các giao dịch, các điều 
khoản trong các bộ luật có những quy 
định riêng để điều chỉnh các mối 
quan hệ trong lĩnh vực đó, đặc biệt là 
quyền và nghĩa vụ của các bên tham 
gia. Đồng thời, để tạo thuận lợi cho 
việc giao kết và sự minh bạch, các 
nhà làm luật đã ban hành các thể 
thức văn bản cho mỗi loại khế ước. 
Mặc dù còn một số hạn chế về đối 
tượng, chủ thể giao kết và có tính 
minh xác nhưng đây là sự hạn chế 
mang tính đương thời hoặc phục vụ 
cho mục đích cai trị của nhà nước 
phong kiến Việt Nam. 
Những quy định về nguyên tắc giao 
kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng 
hay trách nhiệm bồi thường do vi 
phạm hợp đồng trong pháp luật hiện 
nay có thể tìm thấy trong luật cổ, mặc 
dù chưa thực sự rõ nét nhưng cũng 
cho thấy tính kế thừa và phát triển của 
hợp đồng dân sự hiện nay.  
PHẠM THỊ THU HIỀN – KHẾ ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 
33 
CHÚ THÍCH 
(1) 
Biếm tư là hình phạt đánh vào tư cách đạo đức của con người. Thời Lê chia tư cách đạo 
đức của con người thành 24 tư, căn cứ vào mức độ lỗi, hành vi, phẩm hàm, chức vụ, địa vị 
sẽ biếm đi một số tư tương ứng với hành vi vi phạm 
(2) 
Số tiền đã sách nhiễu vay mượn. 
(3) 
Uổng pháp: lấy tiền của bằng mánh lới riêng, vi phạm pháp luật. Phạm tội bất uổng pháp: 
tính gộp chung các chủ chia đôi mà tính tội. Tang vật của loại tội bất uổng pháp như lấy trộm 
nếu là người hưởng lộc thì tang vật 120 lạng sẽ xử tội giảo thực sự. Nếu là người không 
hưởng lộc thì không xử như thế, chỉ xử đến lưu đày. 
(4) 
Điển mại nghĩa là bán tạm một thứ gì đó để lấy tiền, khi cần thì lại chuộc lại 
(5) 
Điều 74, 75, 76, 187, 191, 203, 253, 306, 312, 313, 341, 342, 355, 363, 365, 377, 378, 
382, 383, 385, 400, 449, 453, 460, 578 của Quốc triều hình luật. 
(6) 
Điều 77, 87, 88, 89, 137, 138, 193, 205, 242, 243, 244, 333 của Hoàng Việt luật lệ. 
(7) 
Điều 260, 343, 346, 356, 361, 656 Quốc triều hình luật. 
(8) 
Điều 221, 282 Hoàng Việt luật lệ. 
(9) 
Trượng: là hình phạt đánh bằng cây song lớn có mấu. 
(10) 
Đồ: là hình phạt tù khổ sai. 
(11) 
Điều 312, 383, 384, 448, 579, 587, 588, 589, 590, 591, 592, 593, 638 của Quốc triều hình 
luật. 
(12) 
Điều 23, 89, 93, 95, 116, 117, 134, 135, 210, 317, 318 của Hoàng Việt luật lệ. 
(13) 
Của nổi: màn thau, nhà cửa, trang sức... 
(14) 
Tội tọa tang: là tội dính đến tang vật như chứa chấp hoặc tiêu thụ của ăn trộm, căn cứ 
vào tang vật để xác định tội và hình phạt. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Bộ Tư pháp. 1996. Đề tài cấp bộ Nghiên cứu một số di sản pháp luật dân sự từ thế 
kỷ XV đến thời Pháp thuộc. Hà Nội. 
2. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2018. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt 
Nam. Hà Nội: Nxb. Công an nhân dân. 
3.Vũ Văn Mẫu. 1975. Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng (Quyển thứ hai). Sài 
Gòn. 
4. Insun Yu. 1994. Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII. Hà Nội: Nxb. Khoa học 
xã hội. 
5. Viện Sử học. 2009. Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Hà 
Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 
6. Viện Nhà nước và Pháp luật. 1994. Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - 
thế kỷ XVIII. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội. 

File đính kèm:

  • pdfkhe_uoc_trong_phap_luat_phong_kien_viet_nam_mot_so_gia_tri_v.pdf