Khai thác sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn trong bối cảnh hội nhập tiếp cận từ địa văn hóa

Sản phẩm địa - văn hóa là sản phẩm của

địa lý, lịch sử và luôn mang dấu ấn văn hóa

của thời đại. Hiện nay, nhiều sản phẩm địa -

văn hóa mới ra đời phục vụ cuộc sống và phát

triển hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch sẽ

tạo nên các sản phẩm du lịch đặc thù. Việc tạo

nên các sản phẩm du lịch từ địa - văn hóa

chính là thành quả của di sản địa - văn hóa

chính là bản sắc hòn đảo Lý Sơn trong phát

triển sản phẩm du lịch. Bài viết dưới đây sẽ

làm rõ nội dung này.

pdf 12 trang kimcuc 11180
Bạn đang xem tài liệu "Khai thác sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn trong bối cảnh hội nhập tiếp cận từ địa văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn trong bối cảnh hội nhập tiếp cận từ địa văn hóa

Khai thác sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn trong bối cảnh hội nhập tiếp cận từ địa văn hóa
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X5-2016 
 Trang 83 
Khai thác sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn trong 
bối cảnh hội nhập tiếp cận từ địa văn hóa 
 Ngô Hoàng Đại Long 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Sản phẩm địa - văn hóa là sản phẩm của 
địa lý, lịch sử và luôn mang dấu ấn văn hóa 
của thời đại. Hiện nay, nhiều sản phẩm địa - 
văn hóa mới ra đời phục vụ cuộc sống và phát 
triển hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch sẽ 
tạo nên các sản phẩm du lịch đặc thù. Việc tạo 
nên các sản phẩm du lịch từ địa - văn hóa 
chính là thành quả của di sản địa - văn hóa 
chính là bản sắc hòn đảo Lý Sơn trong phát 
triển sản phẩm du lịch. Bài viết dưới đây sẽ 
làm rõ nội dung này. 
Từ khóa: sản phẩm du lịch, sản phẩm địa - văn hoá, di sản, Lý Sơn 
1. Đặt vấn đề 
1.1. Khái quát chung 
Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của tỉnh Quảng 
Ngãi, nằm “chếch” về phía Đông Bắc tỉnh, cách đất 
liền 15 hải lý. Diện tích tương đương 10 km2. Dân 
số toàn huyện là 21.118 người (năm 2013). Mật độ 
dân số 2.045 người/km2 1. Đơn vị hành chính trực 
thuộc gồm 3 xã với 6 thôn, trong đó: 
- Xã An Vĩnh nằm trên đảo Lớn có 2 thôn: thôn 
Đông và thôn Tây; 
- Xã An Hải nằm trên đảo Lớn có 3 thôn: Đồng 
Hộ, thôn Đông và thôn Tây; 
- Xã An Bình nằm trên đảo Bé có 1 thôn là thôn 
Bắc. 
Huyện Lý Sơn nối với tỉnh lỵ chủ yếu bằng 
đường biển qua cửa biển Sa Kỳ. Tuy là một đảo nhỏ 
nhưng Lý Sơn có vị trí quan trọng về kinh tế - xã 
hội, an ninh quốc phòng của tỉnh Quảng Ngãi. Cư 
dân ở huyện đảo này là người Việt đã định cư và tạo 
lập được nhiều di sản văn hóa lịch sử quý báu. 
Đánh cá, trồng hành tỏi là sinh hoạt kinh tế đặc thù 
của huyện đảo. 
1 Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2013. 
Về mặt địa lý tự nhiên: Lý Sơn là một đảo nhỏ 
nằm trong vùng nội thủy của Việt Nam, bốn phía là 
biển. Lý Sơn là một cụm 3 đảo như những ngọn núi 
nhô cao giữa biển. 
Đảo lớn nhất là đảo Lý Sơn (hay còn gọi là đảo 
Lớn, Cù Lao Ré), vì ở đây có nhiều cây ré (một loài 
thực vật mọc hoang) với năm ngọn núi được gọi là 
ngũ linh: núi Thới Lới, Hòn Tai, Hòn Sỏi, núi 
Giếng Tiền, Hòn Vung, trong đó núi Thới Lới lớn 
nhất. Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) và cù lao Bờ Bãi là 
sản phẩm của hoạt động núi lửa. Năm 2005, những 
giá trị về thắng cảnh, địa chất và địa mạo của hai 
hòn đảo này đã được Lê Đức An xếp vào di sản 
thiên nhiên hiếm có và đề nghị là danh thắng địa 
mạo - địa chất cấp Quốc gia (Lê Đức An 2005). 
Năm 2013, Lê Đức An và nnk đề nghị nghiên cứu 
để nâng di sản này lên cấp Quốc tế (Lê Đức An, 
Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử 2013). 
Đảo Bé nhỏ, nằm ở phía Tây Bắc đảo Lớn, còn 
gọi là Cù Lao Bờ Bãi, có cư dân ở (nay là xã An 
Bình). 
Phía Đông Nam đảo Lớn có hòn Mù Cu, một bãi 
đất nhô lên giữa biển, không có người ở. Vùng biển 
đảo Lý Sơn có nhiều cá, nhiều loại hải sản và san 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X5-2016 
Trang 84 
hô. Lý Sơn có nhiều hang động tự nhiên như hang 
Câu, hang Cò, hang Kẻ Cướp và nhiều vết tích núi 
lửa đã tắt. Xưa ở Lý Sơn có nhiều rừng, có suối, 
như rừng suối Truông, rừng Nhợ, rừng Cây Gạo, 
rừng Bà Bút, suối Chình, suối Ốc Trong đó có 
loài cây dầu (du thủy) được nhà nước phong kiến 
chú ý và bắt nộp thuế sản vật. Rừng đã bị tàn phá từ 
nhiều đời trước và suối nước không còn. Đảo có các 
trảng bằng (chủ yếu nằm dọc phía nam đảo), là khu 
tập trung dân cư và đất canh tác. 
Nhận thấy, địa du lịch là một ngành du lịch phát 
triển toàn diện cả 3 khía cạnh môi trường vô sinh 
(địa chất, khí hậu), môi trường hữu sinh (động thực 
vật) và môi trường văn hoá. Các khía cạnh này sẽ 
được làm rõ trong cách tiếp cận về địa văn hóa 
nhằm phục vụ cho việc phát triển du lịch bền vững 
tại đảo Lý Sơn. 
1.2. Phương pháp và cách tiếp cận 
Bài viết này tác giả tiếp cận các quan điểm về 
“Địa du lịch – Geotourism” thay vì dùng “Du lịch 
Địa chất – Geological Tourism” từ các tác giả như 
sau: Thomas Hose (1995), Jonathan Tourtellot và 
Sally Bensusen (1997), Ross Dowling và 
Newsome (2006), Newsome và Dowling (2010)... 
Địa du lịch là một hình thức du lịch tự nhiên tập 
trung vào các cảnh quan và địa chất. Nó thúc đẩy du 
lịch đến các di sản địa chất (Geosites) và bảo tồn đa 
dạng địa học (Geodiversity) cũng như sự hiểu biết 
về khoa học Trái đất thông qua bảo tồn và học tập 
(Newsome, D. and Dowling , R.K. 2010). 
Do đó, địa du lịch là loại hình du lịch giúp duy 
trì và tăng cường đặc điểm đặc sắc của một vùng 
lãnh thổ tập trung vào các đặc điểm địa chất, môi 
trường, văn hoá, thẩm mỹ, di sản và phúc lợi của cư 
dân địa phương. 
Để làm sáng tỏ các vấn đề trên, tác đã sử dụng 
các phương pháp để thu thập dữ liệu thứ cấp lẫn sơ 
cấp thông qua việc khảo sát thực địa tại đảo Lý Sơn 
(từ ngày 19 đến 22 tháng 12 năm 2015). Bằng các 
công cụ bảng hỏi, phỏng vấn sâu và chụp ảnh hiện 
trường trên đảo kết hợp với công tác nội nghiệp sau 
khi đi khảo sát về bằng phương pháp phân tích bản 
đồ, phân tích tổng hợp dữ liệu đã thập để phục vụ 
cho bài viết này. 
Là một hải đảo, ngoài những đặc điểm chung là 
khí hậu nhiệt đới gió mùa ở vùng đồng bằng ven 
biển tỉnh Quảng Ngãi, Lý Sơn còn có đặc điểm 
riêng: dễ khô hạn về mùa nắng, thiếu nước ngọt để 
sinh hoạt, chịu nhiều giông bão về mùa mưa. Theo 
số liệu năm 2010, nhiệt độ trung bình ở đảo là 
26,40C, lượng mưa 1.970,7 mm, tổng số giờ nắng 
trong năm là 2.430,1 giờ, độ ẩm trung bình 86,6%. 
Về lịch sử: đảo Lý Sơn vào nửa đầu thế kỷ 17, 
Chúa Nguyễn tổ chức Hải đội Hoàng Sa từ xã An 
Vĩnh (huyện đảo Lý Sơn) ra quần đảo Hoàng Sa - 
Trường Sa thu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu 
mắc cạn, đánh bắt hải sản quý hiếm và xác lập chủ 
quyền trên hai quần đảo này. Chủ quyền ấy được 
viết bằng mồ hôi, xương máu và cả sinh mạng của 
nhiều thế hệ trai tráng trong những chuyến đi biển 
không bao giờ trở về. 
Về văn hóa: các phát hiện khảo cổ học gần đây 
cho thấy, cách đây 2.500-3.000 năm ở đảo Lý Sơn 
đã có cư dân chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh sinh 
sống, không như nhiều người nhận định xưa là một 
hoang đảo. Cư dân sống dọc các suối cổ, bắt ốc và 
cá, có thể có canh tác nông nghiệp để sinh sống. Từ 
cuối thế kỷ 16, những cư dân Việt ở hai bên cửa Sa 
Kỳ là An Vĩnh và An Hải ra khai thác và sinh sống 
ở đảo, lập ra An Vĩnh phường và An Hải phường, 
15 người thuộc 15 dòng họ trở thành 15 vị tiền hiền 
của đảo. Như vậy, khác với đất liền, nguồn gốc cư 
dân Việt ở đảo Lý Sơn không trực tiếp từ Bắc Bộ và 
Bắc Trung Bộ di cư vào, mà từ vùng đất liền Quảng 
Ngãi di chuyển ra sinh sống. 
Dân số trên đảo Lý Sơn có sự phát triển khá 
nhanh. Năm 1930-1931, dân số có khoảng 4.000 
người. Năm 1990, số dân trên đảo có khoảng 
16.260 người. Năm 2000, số dân tăng lên 18.500 
người. Năm 2004, khoảng 19.082 người. Và năm 
2005 là 20.033 người. Chính cư dân nơi đây đã kiến 
tạo nên một nền văn hóa biển đảo đầy bản sắc đặc 
trưng. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X5-2016 
 Trang 85 
Hình 1. Vị trí đảo Lý Sơn Hình 2. Khảo sát tại bãi tắm Hang Câu 
Mật độ dân số ở Lý Sơn năm 2005 là 2.009 
người/km2, cao gấp 8 lần so với mật độ dân số trung 
bình trong tỉnh Quảng Ngãi (250 người/km2, vốn đã 
rất cao), chỉ thấp hơn mật độ dân số thành phố 
Quảng Ngãi và cao hơn tuyệt đối so với các huyện 
khác. Mật độ dân số cao 2.045 người /km2 (2013), 
với nông nghiệp hải đảo là hoạt động kinh tế chủ 
yếu đã đặt áp lực dân số rất lớn ở đảo, có mật độ 
dân số cao nhất nước. Tình hình diện tích, phân bố 
dân cư tương đối cân phân giữa 2 xã đảo trên đảo 
Lớn, riêng xã An Bình biệt lập ở đảo Bé, do điều 
kiện khó khăn, cư dân tương đối thưa thớt. 
Về kinh tế: Lý Sơn chủ yếu là kinh tế nông – 
ngư nghiệp. Tuy ở đảo nhỏ hẹp, khó khăn về nguồn 
nước, nhưng dân cư sống bằng các nghề nông ngư 
vẫn chiếm nhiều nhất. Cụ thể năm 2005, trong tổng 
số 9.475 lao động thì đã có 4.164 lao động nghề 
nông, 3.420 lao động ngư nghiệp, 635 lao động 
công nghiệp và xây dựng, 615 lao động thương mại 
- dịch vụ. 
Về phương tiện giao thông: tuyến hải trình Sa 
Kỳ - Lý Sơn là tuyến ngắn nhất nối huyện đảo với 
tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Từ tỉnh lỵ thưở xưa có con 
đường chạy theo tả ngạn sông Trà Khúc đi trực chỉ 
đến cửa Sa Kỳ. Đường này nay đã xây dựng thành 
Quốc lộ 24B, trải nhựa; cảng cá Sa Kỳ, cảng Lý 
Sơn đều đã được xây dựng. Đường nội bộ ở đảo Lý 
Sơn thì điểm nút là cảng nằm ở phía tây nam đảo 
(gần huyện lỵ) có trục đường men theo bờ biển phía 
nam nối hai xã của đảo Lớn. Đây là trục đường 
chính. Có trục đường ngang nối phía nam và phía 
bắc nằm ở giữa đảo, và có nhiều tuyến nhỏ ngang 
dọc. Cho đến nay khoảng một vài chục năm, 
phương tiện giao thông của cư dân trên đảo vẫn là 
đi bộ, đi xe đạp. Xe máy, xe ô tô, taxi tuy chỉ mới 
xuất hiện gần đây nhưng đã làm cho hoạt động du 
lịch nơi đây thêm sinh động. 
Đặc biệt là Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa rất lớn 
vào tháng 3 Âm lịch, có lịch sử từ hàng trăm năm 
nay. Ngôi đền còn cất giữ nhiều tài liệu, di vật quý 
giá về lịch sử hình thành đảo Lý Sơn. Bên cạnh 
bằng chứng hùng hồn về chủ quyền biển đảo, Lý 
Sơn còn sở hữu hàng chục di tích cổ lớn nhỏ được 
bảo tồn khá nguyên vẹn. Quần thể đền chùa, miếu, 
hiện vật bằng đá, gốm sứ Trung Hoa, Chăm, Đại 
Việt, di chỉ văn hóa Chăm và Sa Huỳnh... là kho 
tàng phong phú để du khách tìm hiểu thêm những 
nét đặc sắc của đảo2. 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế 
như hiện nay thì vấn đề bảo tồn và phát huy những 
2 Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi năm 2013. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X5-2016 
Trang 86 
giá trị từ thiên nhiên, cũng như các giá trị văn hóa, 
lịch sử truyền thống của “cộng đồng hải đảo” là một 
yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, đây cũng là thời điểm 
cần phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa ra bên 
ngoài, quảng bá hơn nữa tính sự đa dạng, độc đáo 
và bản sắc địa - văn hóa của Lý Sơn nói riêng và 
Việt Nam nói chung ra ngoài phạm vi vùng, khu 
vực và thế giới. 
Hoạt động du lịch và xây dựng các sản phẩm du 
lịch đặc trưng, độc đáo của vùng đất chính là kênh 
văn hóa quan trọng để chuyển tải những nét độc đáo 
ra bên ngoài, đồng thời thông qua du lịch sẽ góp 
phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa biển 
đảo địa phương. Di sản địa-văn hóa đảo Lý Sơn độc 
đáo của cộng đồng cư dân Việt trong thực tiễn hoạt 
động du lịch hiện nay, là một giá trị văn hóa hải đảo 
đặc sắc trong sự đa dạng địa học và độc đáo cần 
thiết có chiến lược đưa vào hoạt động nhằm khai 
thác thác và bảo tồn có hiệu quả nhìn từ góc độ du 
lịch gắn liền với lịch sử chủ quyền lãnh thổ trên 
vùng biển Đông của nước ta. 
2. Di sản địa-văn hóa đảo Lý Sơn 
2.1. Di sản văn hóa trong sự đa dạng địa học 
ở đảo Lý Sơn 
 Luật Di sản văn hóa định nghĩa: “Di sản văn 
hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các 
dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn 
hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp 
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Nói cách 
khác, di sản văn hóa, đó là một “tài sản quý giá”, là 
nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và 
phát triển đất nước. Việc sử dụng được nhân tố quý 
giá đó trong nổ lực phát triển của mỗi vùng đất hiện 
nay, ấy mới là một sự phát triển bền vững, lâu dài. 
Trước hết cần phải nhìn nhận di sản văn hóa là 
một trong những yếu tố làm nên cái thần, cái hồn 
của vùng đất. Có thể có nhiều du khách trong và 
ngoài nước đến với đảo Lý Sơn vì vẻ đẹp thiên 
nhiên mà tạo hóa đã ban tặng cho hòn đảo này, 
nhưng cũng có không ít người đến với hòn đảo này 
bởi đây là hòn đảo đầy huyền thoại và thiêng liêng, 
nơi để tưởng nhớ những người đã vâng mệnh triều 
đình ra làm nhiệm vụ ở đảo xa mà không trở về; 
đồng thời khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Tổ 
quốc đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa 
(Newsome, D. and Dowling , R.K. 2010). Tất cả đã 
làm nên một “hòn đảo di sản địa văn hóa” không 
chỉ đẹp, thơ mộng mà còn đi vào lòng người bởi 
những nét đẹp văn hóa – lịch sử trong sự đa dạng 
địa học được hội tụ qua “bàn tay kiến tạo” những 
con người nơi đây. Những di sản văn hóa đặc trưng 
mà chúng ta khai thác sử dụng là vô cùng phong 
phú đa dạng. Khai thác, giữ gìn và phát huy bản sắc 
dân tộc, góp phần đắc lực cho phát triển. Nhưng 
chúng ta cũng cần có sự chọn lọc như Hồ Chủ Tịch 
đã chỉ ra: “Nói là khôi phục vốn cũ thì nên khôi 
phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì loại dần ra”3. 
Di sản văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị 
văn hóa vật thể và phi vật thể mang bản sắc đặc 
trưng của mỗi địa phương. Bản sắc văn hóa của 
vùng đất ấy sẽ cuốn hút du khách đến trải nghiệm, 
khám phá, tìm hiểu để làm giàu cho hành trang tri 
thức của mình. Có thể nói di sản địa-văn hóa của 
một vùng đất và phát triển du lịch có mối quan hệ 
tương tác, gắn bó hữu cơ: di sản là nguồn vốn, là cơ 
sở để du lịch khai thác làm giàu; còn du lịch, đến 
lượt mình, sẽ có tác dụng quảng bá, tôn lên các giá 
trị văn hóa của di sản của vùng đất, góp phần giữ 
gìn và phát huy di sản địa phương hải đảo. 
Di sản địa-văn hóa là linh hồn của các điểm đến 
du lịch, là yếu tố quan trọng để cấu thành sản phẩm 
du lịch của điểm đến làm tăng lên nhiều lần giá trị 
của khu vực. Ngược lại, nếu không có du lịch khai 
thác, quảng bá, biến thành những sản phẩm độc đáo 
để thu hút du khách thì di sản địa-văn hóa sẽ thiếu 
đi sức sống, không có cơ hội phát lộ những giá trị 
đích thực của nó. Vì vậy, sự phát triển của du lịch 
không thể tách rời với di sản địa-văn hóa và du lịch 
chính là cầu nối để di sản đó đến gần hơn với du 
khách thập phương. 
2.2. Những giá trị mang tính “di sản” từ sự 
đa dạng địa học ở Lý Sơn 
3  
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X5-2016 
 Trang 87 
Theo tuyên bố giá trị nổi bật toàn cầu được 
thông qua tại kỳ họp lần thứ 36 (Nghị quyết WHC-
12/36.COM/8E) của Ủy ban Di sản thế giới thì 
những mẫu hình tốt nhất, điển hình nhất của dạng 
địa hình phức hợp, chứa đựng nhiều bằng chứng nổi 
bật về lịch sử của Trái đất. Nó một có ý nghĩa quan 
trọng trong việc nâng cao hiểu biết về lịch sử địa 
chất, địa mạo và địa thời của địa phương phù hợp 
với tiêu chí viii của UNESCO “là những ví dụ nổi 
bật đại diện cho những giai đoạn lớn của lịch sử 
trái đất, bao gồm cả việc ghi chép lại cuộc sống, 
các quá trình địa chất lớn đang tiếp diễn trong sự 
phát triển của các địa mạo, hay những đặc điểm địa 
chấn và địa hình lớn”. Do vậy, đảo Lý Sơn được 
tiếp cận từ góc độ này nhằm tìm ra các giá trị đặc 
trưng cho hòn đảo này. 
Đa dạng địa học (Geodiversity) là các đối tượng 
địa chất hoặc địa mạo có giá trị khoa học, giá trị văn 
hóa-lịch sử, giá trị thẩm mỹ và giá trị xã hội-kinh tế 
do nhận thức hoặc khai thác của con người. Trong 
đó, geosite (các di tích địa học tiêu biểu) là những 
điểm địa chất cụ thể phản ánh tính đa dạng địa học 
cho một khu vực, vùng hoặc quốc gia (Murray Gray 
2004; Hà Quang Hải 2012). 
Theo các công trình nghiên cứu địa chất năm 
2015, đã cho thấy đảo Lý Sơn có sự đa dạng về đặc 
điểm địa chất và địa mạo (Lê Đức An 2005; Lê Đức 
An, Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử 2013; Hà 
Quang Hải 2012). Tại đây, hệ tầng trầm tích có tuổi 
cổ nhất đã được thiết lập vào cuối Pleistocen – đầu 
Holocen (Q13 – Q21) (Lê Đức An 2005). Hiện diện 
tương đối đầy đủ các đá magma như: phun trà ...  
những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của 
khách du lịch. 
Theo nhóm tác giả, quan điểm khác nhau sẽ ảnh 
hưởng khác nhau tới việc phát triển sản phẩm du 
lịch. Nếu theo Luật Du lịch thì SPDL vẫn chỉ đơn 
thuần là hoạt động của các ngành dịch vụ. Trên 
thực tế, nội dung của hoạt động du lịch đa dạng và 
phong phú hơn nhiều. 
Theo Michael M.Coltman (1989): “SPDL là một 
tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất 
hữu hình và vô hình. SPDL có thể là một món hàng 
cụ thể như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ 
thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi 
nghỉ mát”. 
Hiện nay, khái niệm SPDL đã được mở rộng 
hơn rất nhiều. Theo John Wiley (1991) quan 
niệm: “Một khi điểm đến được mời chào bán tức là 
một điểm mà khách du lịch mong muốn được đến 
thăm, thì phải được phát triển sản phẩm một cách 
tổng thể”. 
Nói một cách khác thì du lịch với tính chất là 
một ngành du lịch tổng hợp, phát triển không chỉ 
dựa trên cơ sở vật chất của bản thân nó mà còn phải 
dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội cũng như trình độ 
phát triển của nhiều ngành kinh tế khác nữa như: 
thương mại, hàng không, cảng biển, 
Quá trình đi du lịch, du khách không chỉ hưởng 
thụ các giá trị của ngành du lịch thông qua các 
tuyến và điểm tham quan du lịch mà còn được tiếp 
cận với rất nhiều hoạt động khác nhau, các môi 
trường không gian khác nhau tại điểm đến như: các 
trung tâm chính trị và văn hóa của đô thị; các khu ở 
và hoạt động sinh sống của dân cư, các khu công 
nghiệp và hoạt động khai thác đó là các giá trị mà 
du khách được cảm nhận và hưởng thụ một cách tự 
nhiên mà không phải trả tiền. 
Tuy vậy, nếu các hoạt động này tốt sẽ làm tăng 
rất nhiều giá trị hấp dẫn cho một điểm đến, tạo ra 
khả năng kích thích nhu cầu của thị trường khách và 
ngành du lịch sẽ thu được lợi nhuận lớn từ du khách 
thông qua các hoạt động bổ trợ này. 
Vì vậy, sự phát triển của ngành du lịch đòi hỏi 
sự đầu tư một cách đồng bộ cho các điều kiện cơ sở 
hạ tầng và cơ sở vật chất cho điểm đến. Ngược lại, 
sự phát triển của du lịch sẽ thúc đẩy sự phát triển 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X5-2016 
Trang 90 
của những ngành kinh tế liên quan và ngược lại, sự 
phát triển của các ngành kinh tế khác cũng có tác 
động trở lại đối với du lịch. Vì vậy ngoài doanh thu 
trực tiếp của ngành du lịch, các ngành kinh tế khác 
cũng gián tiếp thu được lợi nhuận từ du khách. 
Như vậy, là theo thời gian, khái niệm về SPDL 
đã có góc nhìn ngày càng mở rộng hơn: từ chỗ chỉ 
xem SPDL là một số loại hình kinh doanh dịch vụ, 
đến nay SPDL đã trở thành một khái niệm rất rộng, 
được cấu thành bởi nhiều yếu tố vật chất và phi vật 
chất có khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng 
đa dạng của con người đương đại (Dương Đức 
Minh, Ngô Hoàng Đại Long 2010). 
Do đó, trên cơ sở phân tích các khái niệm về 
SPDL dựa vào bản chất của hoạt động du lịch là 
đáp ứng nhu cầu thay đổi không gian sống hiện tại 
để khám phá các không gian mới lạ của con 
người. Vì vậy, yêu cầu thiết yếu nhất đối với các 
SPDL là phải thể hiện được nét đặc trưng độc đáo 
của không gian du lịch (hay còn gọi là không gian 
của điểm đến), giúp cho du khách cảm nhận được 
sâu sắc các giá trị văn hóa và tự nhiên của không 
gian đó. 
Nếu tiếp cận ở khía cạnh của du khách chúng ta 
sẽ nhận thấy: SPDL là khái niệm rất rộng, nó không 
đơn thuần chỉ là tập hợp các dịch vụ du lịch đơn lẻ, 
nó bao hàm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần 
chứa đựng trong không gian của điểm đến mà có 
thể thỏa mãn nhu cầu của du khách. Tất cả những 
cảm xúc đơn lẻ và đa dạng đó với những mức độ 
đóng góp khác nhau của mình, góp nhặt lại sẽ tạo ra 
ấn tượng, cảm xúc đặc trưng cho du khách về không 
gian của điểm đến và được gọi là SPDL tổng thể. 
Ở đây, SPDL tổng thể của một điểm đến là sự 
hòa trộn mang tính quy luật của các giá trị tự nhiên 
và nhân văn, các giá trị vật thể và phi vật thể chứa 
đựng trong không gian của một điểm đến. SPDL 
tổng thể sẽ đem lại cho du khách những ấn tượng và 
cảm xúc đặc trưng nhất về một điểm đến. 
Còn theo Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), “sản 
phẩm du lịch là tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành: (1) 
tài nguyên du lịch đặc thù; (2) các dịch vụ bổ trợ từ 
các cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và quản lý du 
lịch”; (3) dịch vụ gia tăng du lịch từ đểm đến;. 
SPDL được thể hiện trong sơ đồ sau: 
Sơ đồ 1. Sản phẩm du lịch tổng thể đảo Lý Sơn 
Trong đó: 
 Phần lõi: lấy tài nguyên nhân văn và hệ sinh 
thái tự nhiên biển đảo làm điểm nhấn thu hút du 
khách 
 Phần dịch vụ bổ trợ: hệ thống các điểm ăn 
uống, lưu trú, bến cảng, vui chơi giải trí 
 Phần dịch vụ gia tăng: nhằm kéo dài thời 
gian lưu trú và tăng giá trị của du lịch Lý Sơn, đó là 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X5-2016 
 Trang 91 
các sản phẩm từ chính các dịch vụ “chất lượng” do 
con người nơi đây tạo ra. 
Có thể thấy phần lõi đóng vai trò hạt nhân lấy 
tài nguyên nhân văn và hệ giá trị từ biển đảo trong 
sự đa dạng địa học làm điểm nhấn. Theo cách tiếp 
cận của tác giả về việc hình thành sản phẩm du lịch 
di sản địa - văn hoá Lý Sơn xin đưa ra ý niệm như 
sau: “Du lịch địa-văn hoá sinh thái biển đảo là một 
loại hình du lịch đặc thù, dựa vào môi trường biển 
đảo, có trách nhiệm hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn 
môi trường thiên nhiên, và các giá trị văn hóa của 
cộng đồng cư dân đang sinh sống ở vùng duyên hải 
và hải đảo. Du lịch biển, đảo nên chú trọng đề cao 
sự tham gia tích cực của người dân địa phương vào 
việc hoạch định quản lý và khai thác một cách có 
hiệu quả các nguồn tài nguyên du lịch trên cơ sở 
bảo tồn và phát triển bền vững, tạo điều kiện mang 
lại lợi ích kinh tế - xã hội cho toàn cộng đồng”. 
Như vậy, sản phẩm du lịch đặc thù cho “di sản 
đảo Lý Sơn” là một “bức tranh tổng thể của điểm 
đến” đó là sự đa dạng địa-văn hóa của hòn đảo, 
trong đó tài nguyên du lịch sinh thái tự nhiên và 
nhân văn đóng vai trò chủ đạo. Còn các yếu tố môi 
trường và dịch vụ chỉ mang tính phụ trợ, góp phần 
tô điểm, tôn vinh bản sắc đặc trưng của tài nguyên 
để tạo ra một sự hài hòa, một sức hút riêng biệt cho 
điểm đến. 
Việc xây dựng sản phẩm du lịch tổng thể cho 
“di sản đảo Lý Sơn” hay không gian của điểm đến 
vùng đất “di sản đảo Lý Sơn” với các điểm tài 
nguyên sinh thái hoang sơ, di sản văn hóa mang 
tính bản địa và dịch vụ chất lượng cao, có bản sắc 
sẽ tạo được cảm xúc mạnh cho du khách thì càng 
hấp dẫn và kéo dài được thời gian lưu trú của du 
khách, khiến du khách nhớ lâu, làm cho du khách 
muốn quay trở lại và sẽ quảng bá cho điểm đến, 
trước những diễn biến căng thẳng trên Biển Đông 
thời gian qua cùng những thách thức đặt ra, đòi hỏi 
sự thích ứng trong tình hình mới, phát triển du lịch 
biển, đảo với quan điểm gắn liền với mục tiêu bảo 
đảm an ninh, quốc phòng. Những không gian như 
vậy sẽ tạo ra được thương hiệu riêng cho hòn đảo 
Lý Sơn. 
Sơ đồ 2. Tuyến điểm du lịch tổng thể đảo Lý Sơn. 
Nguồn: tác giả thực hiện, 2015 
Hình 3. Nhà lưu niệm Hoàng Sa 
Hình 4. Toàn cảnh đảo Lý Sơn 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X5-2016 
Trang 92 
4. Đề xuất một số giải pháp để khai thác các 
sản phẩm du lịch đảo Lý Sơn 
4.1. Thành lập hồ sơ công viên địa chất để 
bảo tồn đa dạng địa học Lý Sơn (Geosite Lý Sơn) 
Các cuộc khảo sát thực tế cho thấy, các khu vực 
này vẫn còn lưu giữ nhiều trầm tích nham thạch của 
núi lửa cách đây từ 6 triệu đến 11 triệu năm. Tại 
Hang Câu, Chùa Hang còn lưu giữ từng lớp địa tầng 
của vỏ trái đất, vách địa tầng cấu tạo bởi dung nham 
núi lửa với hệ tầng cổ nhất có niên đại khoảng 11 
triệu năm. Ngoài giá trị những giá trị nổi bật về 
cảnh quan, cổ sinh địa tầng, lịch sử phát triển địa 
chất - địa mạo và truyền thống văn hoá của cộng 
đồng dân cư bản địa, chúng còn có những giá trị 
văn hóa đặc biệt mà không nơi nào có được như: lễ 
khao lề thế lính Hoàng Sa được 13 dòng họ trên đảo 
tổ chức vào ngày 19-3 âm lịch hằng năm. Tóm lại 
chúng có giá trị hấp dẫn về đa dạng địa – văn hóa, 
lịch sử, giáo dục... đầy tính nhân văn. 
4.2. Đa dạng hóa các tour du lịch địa chất, du 
lịch văn hóa và sinh thái nông nghiệp hải đảo 
 Liên kết ngoại vùng, kết nối các điểm du 
lịch: Tuyến Lý Sơn nối từ Đà Nẵng, Chu Lai và 
Lào, Thái Lan: tương tự như: núi, biển là yếu tố hấp 
dẫn nhiều người. Ngoài các giá trị như không khí 
trong lành, mát mẻ từ biển đảo, còn cung cấp rất 
nhiều thứ mà chúng không thể tìm thấy ở trong đất 
liền. Đặc biệt, là các điểm có sự đa dạng về địa học 
để cho du khách hiểu thêm về “kiệt tác” của thiên 
nhiên đã ban tặng cho nơi đây. 
4.3. Phát huy vai trò của cộng đồng địa 
phương bằng việc đa dạng sinh kế hải đảo 
Thực tế cho thấy nguồn lợi chỉ có thể được quản 
lý hiệu quả khi đời sống của người dân hải đảo 
được ổn định và nâng cao. Do đó, đa dạng sinh kế 
đóng vai trò rất quan trọng nhằm từng bước giảm sự 
phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên đánh 
bắt xa bờ thông qua các sinh kế phù hợp để tăng thu 
nhập, tăng sự ổn định và giảm rủi ro tới đa dạng địa 
- sinh học tài nguyên biển nơi đây. Khi được tham 
gia vào hoạt động kinh tế, được chia sẻ quyền lợi từ 
nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn nơi mình 
sinh sống, người dân địa phương sẽ thấy được lợi 
ích và trách nhiệm của mình. Họ sẽ nâng cao ý thức 
giữ gìn, khả năng phát huy những giá trị họ đang 
làm chủ để được cùng hưởng lợi và bảo tồn nguồn 
lợi đó phát triển bền vững. 
Người địa phương nên được đào tạo thành 
hướng dẫn viên, thuyết minh viên sẽ tạo được sự 
hấp dẫn đối với du khách, đồng thời tạo được thêm 
nguồn thu nhập và việc làm. Chính quyền địa 
phương nên xây dựng chương trình hỗ trợ, phối hợp 
với người dân chuẩn bị cơ sở dịch vụ du lịch, các 
hình thức kinh doanh du lịch phù hợp với điều kiện 
sẵn có. Du khách có thể ở và sinh hoạt cùng dân 
(homestay hải đảo) để giúp họ hiểu biết thêm về đời 
sốn văn hóa của người dân địa phương. Đó cũng là 
một định hướng khai thác tiềm năng du lịch hiệu 
quả. 
4.4. Lồng ghép các chương trình truyền 
thông về nâng cao ý thức cộng đồng 
Sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương 
vào việc bảo tồn, khai thác du lịch địa-văn hóa được 
xem là một trong những mô hình rất thành công ở 
nhiều nước trên thế giới. Với mô hình này, người 
dân sẽ tham gia hầu hết các hoạt động và dịch vụ 
của chương trình. Các chương trình này sẽ góp phần 
mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân và 
người dân cũng sẽ nhận thấy được giá trị của nguồn 
tài nguyên mà họ đang thụ hưởng. 
Trước tiên, là thiết lập một số chương trình tập 
huấn cho người dân và cán bộ của địa phương về 
những kiến thức đa dạng địa học, giá trị văn hóa 
sinh thái ở Lý Sơn, giá trị của việc khai thác du lịch 
cộng đồng bền vững. Tổ chức chương trình tập 
huấn cho những người tham gia hoạt động dịch vụ 
du lịch nhằm phát huy vai trò của người dân trong 
việc tham gia quảng bá những nét đẹp của địa 
phương đến du khách. 
Về lâu dài chúng ta cần hướng đến việc xây 
dựng một chương trình giáo dục ngoại khóa đưa 
vào trường học nhằm giúp các em có thêm kiến 
thức về tài nguyên thiên nhiên cũng như những nét 
văn hóa đặc trưng của quê hương. Bên cạnh, đó 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ X5-2016 
 Trang 93 
nên tổ chức các chương trình tuyên truyền trực quan 
bằng hình ảnh, hoạt động cộng đồng, phong trào vệ 
sinh môi trường định kỳ và theo sự kiện tổ chức tại 
địa phương. Hỗ trợ xây dựng hệ thống thông tin 
quảng bá giá trị di sản địa-văn hóa Lý Sơn trong 
tổng thể chung của Quảng Ngãi cũng như cả nước. 
5. Kết luận 
Xét góc độ khai thác kinh tế sinh thái thì ưu tiên 
phát triển loại hình du lịch địa chất, du lịch văn hóa, 
du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp vừa đáp ứng 
yêu cầu bảo tồn vừa đảm bảo sinh kế cho cộng cộng 
bên cạnh đó góp phần giáo dục tuyên truyền biển 
đảo đồng thời góp phần bảo vệ môi trường rất hiệu 
quả. Nếu xem “di sản đảo lý Sơn” là trung tâm phục 
vụ các dịch vụ đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi của du 
khách thì toàn bộ khu vực xung quanh trên “con 
đường di sản miền Trung” đều có thể khai thác kết 
nối du lịch với đảo Lý Sơn. Trong đó “điểm nhấn” 
cho “đảo di sản Lý Sơn” với các điều kiện khí hậu 
thuận lợi, thiên nhiên đa dạng, thích hợp cho việc 
phát triển du lịch biển đảo, nhất là phát triển loại 
hình du lịch địa chất, văn hoá sinh thái và nghỉ 
dưỡng chất lượng cao, đặc biệt vị thế của “đảo di 
sản Lý Sơn” có lợi thế cửa ngõ hàng hải, hàng 
không quốc tế quan trọng để giao thương với khu 
vực và thế giới. Chính vì vậy, việc xây dựng các 
điểm nhấn đặc trưng cho “đảo di sản Lý Sơn” như 
một thương hiệu của điểm đến khi du lịch tại Việt 
Nam đã trở thành một là yêu cầu cấp thiết hiện nay. 
Do vậy, việc tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù 
theo hướng xây dựng “đảo di sản lý Sơn” trên cơ sở 
địa-văn hóa thành một sản phẩm du lịch đặc thù sẽ 
góp phần hình thành nên những đặc trưng của vùng 
biển đảo miền Trung nói riêng và Việt Nam nói 
chung sẽ không còn là “đơn điệu, trùng lắp, kém 
hấp dẫn” mỗi khi du khách đến với “hành trình di 
sản miền Trung”, mà nó còn góp phần gìn giữ các 
giá trị văn hóa lịch sử truyền thống của dân tộc ta ở 
vùng biển và hải đảo của Tổ quốc. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No.X5-2016 
Trang 94 
Exploiting tourism products of Ly Son island 
from a cultural geography approach 
in the context of integration 
 Ngo Hoang Dai Long 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Geo-cultural products are the ones of 
geography and history and always bear 
contemporary imprints of culture. Nowadays, 
many cultural products are produced to serve 
life and tourism development. The tourism 
products made from culture result from 
the achievements of geo-cultural heritage 
which is the identity of Ly Son island. This 
paper clearly analyzes this content. 
Keywords: tourism product, geo-cultural products, heritage, Ly Son island 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Lê Đức An (2005), “Đảo Lý Sơn – một di sản 
thiên nhiên hiếm có”, Tuyển tập báo cáo 
HNKH 60 năm Địa chất Việt Nam, trang 569 
– 576, Bộ TNMT, Hà Nội. 
[2]. [Lê Đức An, Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu 
Cử. 2013. “Kỳ quan địa mạo – địa chất biển 
đảo Việt Nam”, Tại chí Địa chất, loạt A, số 
336 – 337, 7 – 10/2013, tr.139-149. HN 
[3]. Hà Quang Hải và các thành viên (2012). “Các 
giá trị địa mạo nổi bật của đảo Lý Sơn”, 
HNKH lần 8, Trường Đại học KHTN, 
TPHCM. 
[4]. Heath, E., G. Wall (1992), “Marketing 
Tourism Destinations” John Wiley & Sons, 
Inc., New York, tr. 174-196. 
[5]. Michael M. Coltman (1989), “Tourism 
Marketing”, New York, USA, tr.167. 
[6]. Dương Đức Minh, Ngô Hoàng Đại Long 
(2010), “Bước đầu xây dựng sản phẩm du lịch 
đặc thù cho các tỉnh phía Nam tỉnh Lâm 
Đồng”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường Đại 
học Khoa học xã hội và nhân văn TP. Hồ Chí 
Minh, tr.17. 
[7]. Murray Gray (2004), “Geodiversity: Valuing 
and Conserving Abiotic Heritage Commis -
sion, Nature”, Wiley, Chichester. 
[8]. Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 
năm 2013 
[9]. Newsome, D. and Dowling , R.K. (2010) 
Geotourism: The Tourism of Geology and 
Landscape, Oxford Goodfellow Publishers. 
[10]. 
647&c=41 
[11]. 
tri-van-hoa-o-cac-vung-van-hoa-phuc-vu-phat-
trien-du-lich-37739 

File đính kèm:

  • pdfkhai_thac_san_pham_du_lich_dao_ly_son_trong_boi_canh_hoi_nha.pdf