Khai thác đa chiều bài giảng Hán ngữ cổ đại theo hướng Trung Quốc học (trên dữ liệu “Quả nhân chi ư quốc dã” của Mạnh Tử)

Trong bối cảnh trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đang tích cực

chuẩn bị cho việc phát triển ngành học mới - Trung Quốc học và xây dựng chương trình nghiên

cứu về Trung Quốc, việc khai thác bài khóa môn Hán ngữ cổ đại theo hướng đa chiều, kết hợp

ngôn ngữ với nội hàm văn hóa là rất cần thiết, nhằm nâng cao tri thức đất nước học thông qua

phân tích ngôn bản cho sinh viên.

Bài viết trên dữ liệu bài học “Quả nhân chi ư quốc dã” (Tấm lòng của ta với nước) của Mạnh

Tử, bàn về tầm quan trọng và phương pháp khai thác đa chiều đối với ngôn bản, đáp ứng yêu cầu

mới của ngành Trung Quốc học.

pdf 8 trang kimcuc 4840
Bạn đang xem tài liệu "Khai thác đa chiều bài giảng Hán ngữ cổ đại theo hướng Trung Quốc học (trên dữ liệu “Quả nhân chi ư quốc dã” của Mạnh Tử)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác đa chiều bài giảng Hán ngữ cổ đại theo hướng Trung Quốc học (trên dữ liệu “Quả nhân chi ư quốc dã” của Mạnh Tử)

Khai thác đa chiều bài giảng Hán ngữ cổ đại theo hướng Trung Quốc học (trên dữ liệu “Quả nhân chi ư quốc dã” của Mạnh Tử)
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
 55 
THÔNG TIN-BÌNH LUẬN 
Khai thác đa chiều bài giảng Hán ngữ cổ đại 
theo hướng Trung Quốc học (trên dữ liệu “Quả nhân chi ư 
quốc dã” của Mạnh Tử) 
Phạm Ngọc Hàm* 
Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận bài ngày 14 tháng 1 năm 2014 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 3 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 3 năm 2014 
Tóm tắt: Trong bối cảnh trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đang tích cực 
chuẩn bị cho việc phát triển ngành học mới - Trung Quốc học và xây dựng chương trình nghiên 
cứu về Trung Quốc, việc khai thác bài khóa môn Hán ngữ cổ đại theo hướng đa chiều, kết hợp 
ngôn ngữ với nội hàm văn hóa là rất cần thiết, nhằm nâng cao tri thức đất nước học thông qua 
phân tích ngôn bản cho sinh viên. 
 Bài viết trên dữ liệu bài học “Quả nhân chi ư quốc dã” (Tấm lòng của ta với nước) của Mạnh 
Tử, bàn về tầm quan trọng và phương pháp khai thác đa chiều đối với ngôn bản, đáp ứng yêu cầu 
mới của ngành Trung Quốc học. 
Từ khóa: Quả nhân chi ư quốc dã, Hán ngữ cổ đại, Trung Quốc học. 
1. Đặt vấn đề* 
Chương trình Cổ đại Hán ngữ trong hầu hết 
các giáo trình hiện hành đều trích các tác phẩm 
kinh điển làm bài khóa. Hàm lượng tri thức của 
các bài khóa này rất đậm, bao gồm các tri thức 
ngôn ngữ, kinh tế, văn hóa xã hội, tư tưởng 
truyền thống... Trong bối cảnh trường Đại học 
Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội đang tích 
cực chuẩn bị cho việc phát triển ngành học mới 
- Trung Quốc học và xây dựng chương trình 
_______ 
*
 ĐT.: +84-904123803 
 Email: phamngochamnnvhtq@gmail.com 
nghiên cứu về Trung Quốc, việc tận dụng nội 
dung bài giảng, khai thác theo hướng đa chiều, 
kết hợp ngôn ngữ với nội hàm văn hóa trong 
từng tác phẩm ngôn từ là rất cần thiết. 
Trung Quốc học là ngành khoa học nghiên 
cứu về Trung Quốc. Ngành khoa học này gồm 
rất nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn 
hóa, xã hội, lịch sử, địa lý, môi trường... thuộc 
Trung Quốc xưa và nay. Vì vậy, với đường 
hướng Trung Quốc học, bài giảng cần chú trọng 
khâu thông qua ngôn ngữ để khai thác các tri 
thức liên quan đến Trung Quốc được chuyển tải 
trong từng bài học cụ thể. Những đoạn trích 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
56 
được tuyển chọn làm bài khóa không chỉ chuẩn 
mực về mặt ngôn từ mà còn ẩn chứa trong đó tri 
thức văn hóa xã hội mà con người đúc kết trên 
nhiều lĩnh vực và đến nay, rất nhiều điều vẫn là 
chân lí, có giá trị giáo dục đạo đức truyền thống 
cho thế hệ trẻ. Trương Bằng Bằng trong cuốn 
“Văn tự luận” của mình đã khẳng định: “Theo 
đà sa sút về năng lực đọc, viết văn ngôn, tố chất 
văn hóa và tu dưỡng đạo đức của người Trung 
Quốc cũng trượt dốc một cách rõ rệt.” [1]. Vì 
vậy, việc khai thác đa chiều bài khóa càng có ý 
nghĩa lớn lao. Với tinh thần tiếp thu có phê 
phán các tri thức văn hóa cổ, giờ học sẽ trở nên 
hấp dẫn hơn, thu hoạch qua mỗi bài sẽ đa dạng 
và có chiều sâu hơn. Đồng thời, trong vai trò là 
người hướng đạo, người thầy sẽ giúp sinh viên 
rèn luyện kĩ năng tư duy phê phán, phân tích, 
phát hiện và đánh giá vấn đề một cách hiệu quả 
nhất. 
Bài viết trên dữ liệu bài học “Quả nhân chi 
ư quốc dã” (Tấm lòng của ta với nước) của 
Mạnh Tử, bàn về tầm quan trọng và phương 
pháp khai thác các tri thức văn hóa hàm chứa 
trong ngôn bản cho đối tượng là sinh viên 
chuyên ngành ngôn ngữ - văn hóa Trung Quốc 
hiện nay và chuyên ngành Trung Quốc học 
trong tương lai, góp phần nâng cao tri thức 
ngôn ngữ đi đôi với đất nước học cho sinh viên. 
2. Vai trò của các bài khóa trong chương 
trình Hán ngữ cổ đại 
2.1. Đặc điểm các bài khóa 
Giáo trình Hán ngữ cổ đại do các học giả 
Trung Quốc biên soạn, tiêu biểu nhất là giáo 
trình của Vương Lực, cấu trúc mỗi bài thường 
là văn tuyển (bài khóa) + chú giải từ ngữ, điển 
cố, văn hóa + ngữ pháp + bài tập. Cũng có giáo 
trình đưa trọng điểm ngôn ngữ lên trước và sau 
đó là bài khóa, sau mỗi bài khóa là chú giải về 
tri thức ngôn ngữ, văn hóa trọng điểm và cuối 
cùng là bài tập, như Giáo trình cổ đại Hán ngữ 
của Giải Huệ Toàn chủ biên, Nhà xuất bản Đại 
học Nam Khai, 1990. Nhìn ra thế giới, giáo 
trình Hán ngữ cổ đại của nhiều nước cũng chưa 
chú trọng khai thác các nội dung văn hóa. “Giáo 
trình đọc hiểu cổ Hán ngữ của Mỹ, Nhật, Ý 
cũng đều là những cuốn văn tuyển cổ đại, ngoài 
tìm hiểu từ ngữ ra, không có những nội dung 
khác.” [2] Giáo trình cổ Hán ngữ dành cho sinh 
viên chuyên ngành tiếng Trung Quốc ở Việt 
Nam, căn cứ vào tính chất đặc thù của người 
Việt Nam học tiếng Hán và mối liên hệ giữa 
tiếng Hán với tiếng Việt, thường có thêm mục 
từ mới, phiên âm Hán Việt và đối chiếu Hán – 
Việt, đối chiếu văn ngôn – bạch thoại. Tuy 
nhiên, dù giáo trình nào thì bài khóa vẫn là bộ 
phận hợp thành quan trọng. 
Bài khóa là sự thể hiện sinh động nhất ý 
nghĩa, cách dùng của từ ngữ, trọng điểm ngữ 
pháp, văn hóa giao tiếp và nhất là nội dung tư 
tưởng, văn hóa. Các ví dụ cụ thể xuất hiện trong 
bài khóa có thể minh họa cho mỗi trọng điểm lí 
thuyết ngôn ngữ của mỗi bài. Bài khóa đã cung 
cấp ngữ cảnh cụ thể cho việc lí giải các hiện 
tượng ngôn ngữ ấy trong quá trình sử dụng. 
Bài khóa thường được chọn lọc từ các câu 
chuyện thành ngữ, tục ngữ, các đoạn trích tác 
phẩm kinh điển của Trung Quốc như Kinh thi, 
Tả truyện, Luận ngữ, Lễ ký, Quốc ngữ, Chiến 
quốc sách, Thơ Đường, Sử ký Tư Mã Thiên... 
Các bài được tuyển chọn đều phải chuẩn mực 
về ngôn ngữ, có trọng điểm ngôn ngữ, văn hóa 
khác nhau, ý nghĩa giáo dục và nội dung tư 
tưởng sâu sắc. Với những bài khóa ấy, người 
học có cơ hội tìm hiểu không chỉ là kiến thức 
ngôn ngữ mà còn là các nội dung văn hóa, tư 
tưởng, đất nước con người ở mỗi thời điểm lịch 
sử cụ thể. Do đó, việc khai thác triệt để, đa 
chiều cả về ngôn ngữ và nội hàm văn hóa trong 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
57 
mỗi bài khóa là hết sức cần thiết và có ý nghĩa 
sâu sắc đối với hiệu quả đào tạo. 
2.2. Ý nghĩa của việc khai thác các yếu tố ngôn 
ngữ và văn hóa trong bài khóa 
Về mặt ngôn ngữ, quá trình tiếp xúc Hán 
Việt đã khiến cho hệ thống từ vựng tiếng Việt 
có tới hơn 70% là từ gốc Hán. Trong đó, có 
những từ vẫn giữ được đặc điểm ngữ âm 
thượng cổ như “xe” tồn tại song song với “xa”, 
“muôn” tồn tại song song với “vạn”, “buồng” 
với “phòng”... Có những từ ngữ mượn và giữ 
nguyên dạng âm và nghĩa, có những từ có sự 
thay đổi về nghĩa và từ loại. Đặc biệt là về mặt 
ngữ pháp, có những cấu trúc trong văn ngôn 
(tiếng Hán cổ) rất gần với tiếng Việt nhưng lại 
khác biệt với bạch thoại (tiếng Hán hiện đại). 
Người Việt Nam rất quen thuộc với những câu 
cách ngôn có nguồn gốc từ các tác phẩm kinh 
điển của Trung Quốc như Ôn cố tri tân (ôn cũ 
biết mới); Học nhi thời tập chi (học tập phải 
thường xuyên ôn luyện); Giáo học tương 
trưởng (dạy và học thúc đẩy nhau cùng phát 
triển)... Do đó, học bài khóa, về mặt ngôn ngữ, 
giúp người Việt Nam có thể hiểu sâu sắc hơn 
tiếng Việt và đặc biệt là mối liên hệ giữa tiếng 
Hán và tiếng Việt. 
Bài khóa được chọn lọc là những “hóa 
thạch” bằng ngôn từ trong lịch sử văn hóa 
Trung Quốc và đặc biệt là những bài được lựa 
chọn từ các tác phẩm kinh điển đã đạt được 
đỉnh cao của nghệ thuật sáng tác văn học, 
những nhân vật điển hình xuất hiện trong hoàn 
cảnh điển hình được xây dựng một cách tinh tế. 
Nghệ thuật đối đáp sắc sảo, tính chất hùng biện 
cao, ngôn ngữ điêu luyện, súc tích cũng là 
những đặc điểm nổi bật cần được khai thác [3]. 
Vì vậy, ngoài việc tìm hiểu về đất nước con 
người, lịch sử tư tưởng Trung Quốc, học bài 
khóa còn giúp người học nâng cao khả năng tư 
duy logic, lập luận và tiến tới nâng cao năng lực 
tổng thể trong biểu đạt ngôn ngữ. 
Ở Việt Nam, chữ Hán đã trở thành văn tự 
chính thống được sử dụng trong suốt thời kì chế 
độ khoa cử phong kiến thịnh hành ở Việt Nam. 
Cho đến nay, trong nhiều gia đình Việt Nam 
cũng như các di tích lịch sử vẫn còn rất nhiều 
câu đối, hoành phi được ghi chép bằng chữ 
Hán. Đến với Văn Miếu, người ta không thể 
không quan tâm đến bốn chữ Thệ giả như tư 
(những cái trôi đi cứ như thế này đây) trên câu 
đối lớn ngoài cổng. Đó là dấu ấn tư tưởng 
Khổng Tử và Nho học đã ảnh hưởng sâu sắc 
đến Việt Nam. Thệ giả như tư vốn trích từ Luận 
Ngữ, là ví dụ sinh động cho tư tưởng triết học 
“vạn vật luôn luôn vận động” và quan điểm 
giáo dục của Khổng Tử. Vì vậy, việc giảng dạy 
bài khóa càng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. 
 Trong quá trình văn ngôn chuyển hóa 
thành bạch thoại, một số yếu tố từ vựng, hư từ, 
cấu trúc ngữ pháp vẫn được lưu lại trong bạch 
thoại, nhờ các yếu tố ngôn ngữ này mà cách 
diễn đạt trong văn ngôn trở nên ngắn gọn, súc 
tích, trang nhã hơn. “Một số văn sỹ hiện đại tôn 
sùng văn ngôn cho rằng, chức năng tuyên 
truyền và biểu đạt của văn ngôn đều không thua 
kém văn bạch thoại ” [4] . Đặc biệt là trong xu 
thế sính văn hóa phương Tây, coi nhẹ văn hóa 
truyền thống như hiện nay của lớp trẻ Trung 
Quốc cũng như Việt Nam, việc dạy học các tác 
phẩm kinh điển được trích dẫn làm bài khóa là 
cơ hội tốt để tiếp xúc với văn hóa truyền thống, 
góp phần tích cực vào việc giáo dục nhân cách 
cho học sinh. 
3. Đôi nét về Mạnh Tử và đoạn trích “Quả 
nhân chi ư quốc dã” 
Mạnh Tử sinh năm 372, mất năm 289 trước 
công nguyên, tên Kha, tự Tử Dư, là nhà tư 
tưởng lớn thời Chiến quốc, ông đã kế thừa và 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
58 
phát triển tư tưởng nhân của Khổng tử, chủ 
trương thi hành nhân chính (chính sách nhân 
nghĩa) và đưa ra quan điểm dân vi quý, quân vi 
khinh (đề cao dân và hạ thấp vua), hình thành 
nên tư tưởng Nho học truyền thống Khổng 
Mạnh mà hạt nhân của nó là tư tưởng nhân 
nghĩa. Mạnh Tử để lại cho đời sau tác phẩm 
“Mạnh Tử”, là tài liệu quý để nghiên cứu về tư 
tưởng Nho gia sau Khổng Tử. Trong tác phẩm, 
những chủ trương trị nước, xây dựng xã hội lí 
tưởng vừa chú trọng phát triển kinh tế, vừa 
quan tâm đến giáo dục, được thể hiện rõ nét 
bằng lập luận sắc bén. Chính vì vậy, giá trị của 
cuốn Mạnh Tử không chỉ ở góc độ ngôn ngữ, 
văn học mà còn có giá trị tư tưởng sâu sắc, 
không ít quan điểm, chủ trương đến nay vẫn 
còn nguyên giá trị, đáng được các chuyên gia 
kinh tế, văn hóa, giáo dục vận dụng. 
“Quả nhân chi ư quốc dã” trích từ “Mạnh 
Tử”, ghi lại một cách sinh động cuộc đối thoại 
giữa Mạnh Tử và Lương Huệ Vương về đạo trị 
nước. Bài văn cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc 
bén, dẫn chứng sinh động, đề cập một cách khá 
toàn diện đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn 
hóa giáo dục, đặc biệt là chủ trương ưu tiên sản 
xuất đi đôi với khai thác hợp lí, có kế hoạch và 
thực hành tiết kiệm, tạo phúc lợi xã hội, nhằm 
xây dựng một xã hội vững mạnh, công bằng, 
bác ái. 
4. Phương pháp triển khai bài giảng theo 
đường hướng Trung Quốc học 
4.1. Nội dung triển khai 
4.1.1. Các nhân tố ngôn ngữ 
Theo thống kê của chúng tôi, trong toàn văn 
bài học “Quả nhân chi ư quốc dã” với dung 
lượng 358 chữ Hán, có tới 17 từ tổ bốn âm tiết 
bao gồm cả cố định và không cố định, trong đó 
có ba trường hợp 2 đến 3 từ tổ dùng liền. Từ 
song âm tiết là 25, còn lại là từ đơn âm tiết và 
một trường hợp ngữ khí từ phức hợp ba âm tiết 
yên nhĩ hĩ. Từ được du nhập vào tiếng Việt và 
trở thành từ Việt gốc Hán chiếm trên 70%. 
Trong đó, một số hư từ như chi, giả, diệc, vu và 
cấu trúc ngữ pháp như đa ư lân quốc tới nay 
vẫn sử dụng trong bút ngữ. Từ tổ bốn chữ sử 
dụng riêng rẽ hoặc dùng liền hai, ba, thậm chí là 
bốn cụm vốn là đặc trưng biểu đạt của văn 
ngôn, nhưng vẫn được tiếp nhận vào văn bạch 
thoại, giúp cho việc biểu đạt của bạch thoại 
ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, tiết tấu. Chính 
vì vậy, “Các tác phẩm văn ngôn không chỉ là 
báu vật mà các văn nhân truyền thống không 
chịu trút bỏ, dù chỉ giây lát, nó còn là thể tài mà 
các văn nhân hiện đại cũng rất quen thuộc.” [5] 
Đặc biệt là những cấu trúc di kỳ dân vu Hà 
đông, di kỳ túc vu Hà nội, hà dị ư, bất phụ đới ư 
đạo lộ ..., trật tự từ rất giống tiếng Việt nhưng 
lại khác biệt hẳn so với bạch thoại. Trong bài 
văn còn xuất hiện câu ngũ thập bộ tiếu bách bộ, 
đã trở thành thành ngữ thường dùng trong tiếng 
Hán hiện đại, tương đương với chó chê mèo dài 
đuôi của tiếng Việt. Đó là những lý do mà trong 
quá trình giảng dạy tiếng Hán cổ đại cho người 
Việt Nam cần phải so sánh ngôn ngữ trên ba 
phương diện: văn ngôn – bạch thoại và tiếng 
Việt. Kết quả của quá trình so sánh giúp người 
học có thể phân biệt được điểm giống và khác 
nhau cũng như mối liên hệ giữa chúng. Trên cơ 
sở đó có thể tận dụng sự chuyển di tích cực của 
tiếng mẹ đẻ và văn ngôn sang ngôn ngữ đích – 
tiếng Trung Quốc. Cũng nhờ đó mà phân biệt 
được phong cách bút ngữ và khẩu ngữ, tiến tới 
diễn đạt nói và viết theo đúng văn phong của 
người bản ngữ. 
4.1.2. Phương pháp lập luận 
Văn Mạnh Tử, tiêu biểu là bài “Quả nhân 
chi ư quốc dã” lập luận chặt chẽ, cách nêu vấn 
đề tự nhiên và giải quyết vấn đề nhằm đúng vào 
“vùng hiểu biết” của đối tượng, giúp cho người 
nghe dễ dàng liên tưởng và lĩnh hội. Lương Huệ 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
59 
Vương tự cảm thấy bản thân đã hết lòng giải 
quyết một cách hợp lý đại sự quốc gia. Ví dụ cụ 
thể về cách giải quyết mâu thuẫn cung và cầu 
giữa vùng bị thiên tai với vùng không bị thiên 
tai, nhằm giải quyết vấn đề lương thực cho dân 
là minh chứng cho chính sách an dân đúng đắn. 
Vậy mà tỷ lệ tăng trưởng dân số vẫn không theo 
kịp các nước láng giềng. Lương Huệ Vương 
đem thắc mắc của mình ra trưng cầu ý kiến 
Mạnh Tử. Mạnh Tử bắt đầu bằng việc lấy ví dụ 
cụ thể về chiến tranh (điều mà Lương Huệ 
Vương am hiểu) để dẫn dắt vào vấn đề trị quốc 
(vấn đề trừu tượng mà Lương Huệ Vương chưa 
lý giải được), nhằm làm sáng tỏ chủ trương trị 
nước cần phải bắt đầu từ gốc, nghĩa là phải 
chăm lo phát triển sản xuất đi đôi với khai thác 
hợp lý, thực hành tiết kiệm, đảm bảo vấn đề 
cơm no áo ấm cho muôn dân. Trên cơ sở đó 
quan tâm phát triển giáo dục, và đặc biệt là 
đấng minh quân phải biết tự lãnh trách nhiệm 
về mình, không “đổ lỗi” cho khách quan. Tất cả 
những nhân tố đó sẽ thu phục lòng dân, muôn 
dân trăm họ sẽ nô nức kéo về, làm cho nước 
giàu, dân mạnh. Phương pháp luận luận chặt 
chẽ, logic, đầy sức thuyết phục đó đã gợi mở 
cho người làm công tác dạy học trên ba phương 
diện: (1) phương pháp nêu vấn đề; (2) phương 
pháp giải quyết vấn đề; (3) phương pháp sắp 
xếp dàn ý. Trong đó, nêu vấn đề cần có sức 
cuốn hút người nghe và khiến người nghe thực 
sự cảm thấy có vấn đề cần giải quyết. Giải 
quyết vấn đề, nhất là những vấn đề trừu tượng 
cần thông qua những ví dụ cụ thể, thông 
thường, thuộc vùng am hiểu của người nghe để 
hướng đạo người nghe lĩnh hội. Sắp xếp dàn ý 
cần theo trình tự hợp lý, có tính tầng bậc. Như 
vậy, hiệu quả giờ học sẽ được nâng cao. 
4.1.3 Các nhân tố văn hóa 
“Quả nhân chi ư quốc dã” đã thể hiện khá 
đầy đủ tinh thần dân vi quý, quân vi khinh của 
Mạnh Tử. Tinh thần ấy thể hiện cụ thể ở quan 
điểm “dân là gốc”, thi hành nhân chính, các bậc 
quân vương cần phải lãnh trách nhiệm với dân, 
với nước, không thoái thác, trốn tránh. Đối với 
việc thi hành nhân chính, Mạnh Tử đã cụ thể 
hóa trên 3 phương diện (1) Chính sách phát 
triển kinh tế; (2) Phúc lợi xã hội; (3) Chính sách 
giáo dục. 
Chính sách phát triển kinh tế của Trung 
Quốc cổ đại được chú trọng toàn diện về nông 
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Nông nghiệp 
phải được tiến hành song song giữa trồng trọt 
và chăn nuôi. Riêng về trồng trọt, trên cơ sở 
xúc tiến sản xuất lương thực, giải quyết vấn đề 
ăn, phải đẩy mạnh trồng dâu để giải quyết vấn 
đề mặc. Nhân tố thiên thời được Mạnh Tử nhấn 
mạnh trong việc ưu tiên cho sản xuất kịp thời 
vụ 不违农时bất vi nông thời (không làm lỡ 
mùa vụ cấy trồng) để tạo năng suất cao đi đôi 
với mở mang canh tác trên diện 
rộng五亩之宅,树之以桑ngũ mẫu chi trạch, 
thụ chi dĩ tang (trồng dâu trên vườn năm 
mẫu),百亩之田,勿夺其时bách mẫu chi điền, 
vật đoạt kỳ thời (không làm lỡ mùa vụ cấy 
trồng trên trăm mẫu ruộng). Kết quả là cung sẽ 
vượt cầu 谷不可胜食cốc bất khả thắng thực 
(lúa gạo ăn không hết). Mặc khác, phát triển 
kinh tế phải chú trọng khai thác có kế hoạch, 
hợp mùa vụ, tạo điều kiện cho vạn vật sinh 
sôi数罟不入污池 sổ cổ bất nhập ô trì (không 
đánh bắt cá bằng lưới dày); 
斧斤以时入山林phủ cân dĩ thời nhập sơn lâm 
(khai thác lâm sản đúng mùa vụ), như vậy mới 
có thể tạo ra của cải vật chất dồi 
dào鱼鳖不可胜食,材木不可胜用ngư miết 
bất khả thắng thực, tài mộc bất khả thắng dụng 
(cá tôm ăn không hết, gỗ lạt không dùng hết) và 
tăng cường phúc lợi xã hội, đời sống của người 
già được đảm bảo. Sản xuất phải đi đôi với thực 
hành tiết kiệm, chống lãng phí, dành một phần 
của cải vật chất cứu trợ người nghèo đói. 
Trên cơ sở kinh tế đã đạt được trình độ nhất 
định, nhu cầu cơm no áo ấm đã được thỏa mãn, 
giáo dục được đẩy mạnh, trong đó có giáo dục 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
60 
đạo đức 谨庠序之教,申之以孝悌之义cẩn 
tường tự chi giáo, thân chi dĩ hiếu đễ chi nghĩa 
(làm tốt việc giáo dục trong nhà trường, dạy 
cho trẻ biết hiếu đễ), khi kinh tế, văn hóa giáo 
dục đều phát triển theo đúng đường hướng, một 
xã hội lý tưởng sẽ được hình thành 
养生丧死无憾,斑白者不负戴於道路,七十
者衣帛食肉,黎民不饥不寒dưỡng sinh, táng 
tử vô hám, ban bạch giả bất phụ đới ư đạo lộ, 
thất thập giả ý bạch, thực nhục, lê dân bất cơ 
bất hàn (nuôi dưỡng người sống, ma chay cho 
người chết đều chu đáo, người cao tuổi không 
phải mang vác trên đường, lại được mặc áo lụa, 
ăn thịt, dân đen được no ấm.) 
Những chủ trương chính sách đúng đắn, 
được trình bày theo một trình tự hợp lí với 
đường hướng kiến trúc thượng tầng được xây 
dựng trên cơ sở hạ tầng đã có sức thuyết phục 
cao độ, giúp cho Lương Huệ Vương giải quyết 
được thắc mắc, từ đó mà lĩnh hội được đường 
hướng phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời biết 
lãnh trách nhiệm của mình trước muôn dân. Ý 
nghĩa sâu sắc của ngôn bản đã chứng tỏ tư 
tưởng Nho gia sau Khổng Tử của Mạnh Tử 
không những phù hợp với thời đại đó, mà còn 
có ý nghĩa với hiện tại và tương lai. Khai thác 
một cách triệt để nội dung tư tưởng của tác 
phẩm, có giá trị nâng cao tri thức xã hội, đồng 
thời hiểu sâu hơn về đất nước con người Trung 
Hoa. Có thể khẳng định rằng, hàm lượng Trung 
Quốc học trong “Quả nhân chi ư quốc dã” thật 
đậm đặc, cần được khai thác. 
4.2. Phương pháp triển khai 
Trên tinh thần quán triệt phương châm lấy 
người học làm trung tâm, giúp người học biến 
quá trình đào tạo của Nhà trường thành quá 
trình tự đào tạo, phương pháp triển khai nội 
dung bài giảng của bộ môn Cổ Hán ngữ cũng 
cần phải tạo điều kiện cho học sinh phát huy 
tính chủ động, sáng tạo trong học tập, nâng cao 
và hoàn thiện năng lực tư duy, phát hiện, phân 
tích, đánh giá vấn đề. Dạy học giao nhiệm vụ là 
một phương pháp hữu hiệu giúp học sinh tận 
dụng cao độ thời gian tự học vào việc ôn tập bài 
cũ, chuẩn bị bài mới theo hướng tự nghiên cứu 
dưới sự hướng đạo của giáo viên. Nội dung 
công việc của học sinh trước giờ lên lớp là tra 
cứu, cố gắng đến mức tối đa để đọc hiểu, giải 
mã ngôn ngữ của bài đọc. Trên cơ sở đó phát 
hiện tư tưởng chính, phương pháp lập luận cũng 
như những nét đặc sắc của bài đọc. Nhiệm vụ 
của người học sau giờ lên lớp là hoàn thành bài 
tập mà giáo viên giao để củng cố và phát triển 
kiến thức. Quá trình lên lớp cần được thực hiện 
theo đường hướng sau: 
Người dạy cần thiết lập một hệ thống câu 
hỏi mang tính chất gợi mở, hướng cho học sinh 
tự nghiên cứu, tìm ra đáp án trên các phương 
diện ngôn ngữ, hàm ý văn hóa, tư tưởng. Câu 
hỏi cần đa dạng cả về hình thức và nội dung. 
Cái gọi là đa dạng về nội dung là, câu hỏi 
không chỉ dừng lại ở các trọng điểm ngôn ngữ 
tĩnh như giải thích từ và cấu trúc, mà còn ở 
trạng thái động, tức là phong cách biểu đạt, 
năng lực lập luận, đặt vấn đề và giải quyết vấn 
đề, sức thuyết phục của phương thức biểu đạt 
đó. Quan trọng hơn là câu hỏi phải vượt lên các 
tri thức ngôn ngữ, đến với hàm ý văn hóa ẩn 
chứa trong ngôn bản, như nội dung đã trình bày 
ở mục (4.1.3). Thí dụ, những câu hỏi chi tiết 
như Tại sao không được làm lỡ mùa vụ sản xuất 
nông nghiệp? Nếu sản xuất kịp mùa vụ thì có 
hiệu quả gì? Hay những câu hỏi khái quát hơn 
như Chính sách phát triển kinh tế mà Mạnh Từ 
chủ trương thể hiện trong bài là gì? Câu hỏi 
mang tính chất tổng kết nội dung bài giảng như 
Em thấy diện mạo xã hội Trung Quốc cổ đại thể 
hiện trong bài “Quả nhân chi ư quốc dã như 
thế nào?” Câu hỏi mang tính suy luận kết hợp 
liên hệ thực tiễn và đánh giá vấn đề như Em có 
suy nghĩ gì về chính sách phát triển kinh tế, văn 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
61 
hóa giáo dục của Mạnh Tử? Trong xã hội hiện 
đại, chúng ta có thể vận dụng, tiếp thu được 
những gì là tinh hoa của tư tưởng Mạnh Tử? 
Những tư tưởng nào của Mạnh Tử đến nay đã 
lỗi thời?... Đối với những vấn đề lớn, có thể 
chuyển thành hình thức Seminar, thảo luận trao 
đổi trên lớp. Sau mỗi ý kiến của sinh viên nêu 
ra cần phải được các bạn khác nhận xét đánh 
giá và giáo viên là người nhận xét, đưa ra đáp 
án cuối cùng coi là chuẩn mực nhất để cả lớp 
tham khảo. Điều này đòi hỏi giáo viên phải có 
bề dày kinh nghiệm và vốn tri thức đủ sâu, rộng 
để có thể làm chủ được bài giảng và giải đáp 
được những thắc mắc của sinh viên. Trong 
không khí thảo luận, vấn đề sẽ được giải quyết 
một cách tích cực nhất, phát huy được khả năng 
tư duy phê phán của học sinh, tránh áp đặt và 
đạt được mục tiêu giáo học tương trưởng (dạy 
và học tác động lẫn nhau, cùng phát triển). 
Một giờ học được khai thác triệt để nội 
dung bài giảng trên tinh thần thầy là người tổ 
chức, hướng đạo, trò chủ động tích cực tham 
gia bài giảng như vậy chắc chắn sẽ sôi động, 
phát huy được nguồn lực trí tuệ và đạt hiệu quả 
cao. 
5. Lời kết 
Bài khóa trong các bộ giáo trình Hán ngữ 
cổ đại đều được chọn lọc chuẩn mực về hình 
thức ngôn ngữ và có nội dung văn hóa, tư tưởng 
sâu sắc. Phần lớn được trích từ các tác phẩm 
kinh điển, là tư liệu quý cho việc nghiên cứu, 
tìm hiểu về Trung Quốc cổ đại từ nhiều phương 
diện. Bài khóa còn là nơi cung cấp ngữ cảnh 
sống động nhất cho việc lí giải các hiện tượng 
ngôn ngữ trong quá trình hành chức của nó. 
Trong bối cảnh trước nay, việc giảng dạy Cổ 
đại Hán ngữ nói chung và bài khóa của môn 
học này nói riêng mới dừng lại ở mức độ khai 
thác các yếu tố ngôn ngữ và coi nhẹ nhân tố văn 
hóa, thì trong xu thế đổi mới phương pháp 
giảng dạy hiện nay, chúng tôi cho rằng, việc 
khai thác đa chiều bài khóa nhằm gợi mở cho 
sinh viên nắm được không chỉ là kiến thức ngôn 
ngữ mà còn là kiến thức bách khoa về đất nước 
con người Trung Quốc, càng trở nên thiết thực, 
phục vụ đắc lực cho hướng nghiên cứu Trung 
Quốc học và giảng dạy của khoa Ngôn ngữ Văn 
hóa Trung Quốc, trường Đại học Ngoại ngữ- 
Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay. 
Việc khai thác các nhân tố văn hóa tư tưởng 
trong bài khóa cần phải bám sát ngôn bản và 
dựa trên nền tảng khai thác các yếu tố ngôn 
ngữ, giúp người học “một mũi tên trúng hai 
đích”, vừa nâng cao trình độ ngôn ngữ, vừa 
thông qua tư duy, phân tích, phát hiện chiều sâu 
nội dung ý nghĩa trong ngôn bản. Sau mỗi tác 
giả, tác phẩm cần có thảo luận tập thể để phát 
huy vai trò chủ động sáng tạo của sinh viên, 
đồng thời làm cho vấn đề được nhìn nhận vừa 
có chiều sâu, vừa có bề rộng. Tất cả làm nên 
một bức tranh tri thức chung về đất nước con 
người Trung Quốc. Từ cổ đại, liên hệ đến hiện 
tại, càng hiểu sâu về Trung Quốc xưa và nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] 张朋朋,《论文字》,2007 
[2] 国赫彤、崔建新,《古代汉语教程》,天津古
籍出版社; 1999 
[3] Phạm Ngọc Hàm , Giảng dạy các tác phẩm kinh 
điển Trung Quốc trong trường Đại học ở Việt 
Nam, Hội thảo Quốc tế Besetoha, Bắc Kinh; 2012 
[4] 熊焰,《现代汉语里的文言因素》,湘潭大学
学报; 2008 
[5] 熊焰,《论现代汉语文言的文化地位与学术价
值》,湘潭大学学报; 2008 
P.N. Hàm / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 1 (2014) 55-62 
62 
Multidimensional Exploitation of Ancient Chinese Lectures in 
the Orientation of Chinese Study (Based on “My Heart for my 
Country” of Mencius) 
Phạm Ngọc Hàm 
Chinese Department, VNU University of Languages and International Studies, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: In the context of ULIS - VNU planning to develop a new training program - Chinese 
Study and a new research program of China, the multidimensional exploitation of ancient Chinese 
lectures, in which there exists the combination between language and culture, is necessary in order to 
enhance the knowledge of country studies through discourse analysis for students. 
The paper, which is based on the text “My heart for my country” of Mencius, discusses the 
importance and the method of the multidimensional exploitation to discourses, which helps to meet the 
demand of the training program - Chinese Study. 
Keywords: My heart for my country,multidimensional, Chinese Study. 

File đính kèm:

  • pdfkhai_thac_da_chieu_bai_giang_han_ngu_co_dai_theo_huong_trung.pdf