Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn

Bài viết đề cập đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi

qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn. Kết quả cho thấy: dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo

thang phân loại của hệ thống bài tập, khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh

Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này,

chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Giữa học sinh nam và học sinh nữ không có sự khác biệt rõ rệt về khả năng sáng

tạo. Khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn có sự khác biệt rõ rệt.

pdf 11 trang thom 09/01/2024 980
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn

Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn
59
 Tập 10, Số 3, 2016
KHẢ	NĂNG	SÁNG	TẠO	CỦA	HỌC	SINH	LỚP	5	MỘT	SỐ	TRƯỜNG	TIỂU	HỌC
	TẠI	TỈNH	QUẢNG	NGÃI	QUA	HỆ	THỐNG	BÀI	TẬP	ĐO	NGHIỆM	TỰ	SOẠN
ĐỖ TẤT THIÊN*
Khoa Tâm lý - Giáo dục và Công tác xã hội, Trường Đại học Quy Nhơn
TÓM TẮT
Bài viết đề cập đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi 
qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn. Kết quả cho thấy: dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo 
thang phân loại của hệ thống bài tập, khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh 
Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, 
chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Giữa học sinh nam và học sinh nữ không có sự khác biệt rõ rệt về khả năng sáng 
tạo. Khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn có sự khác biệt rõ rệt.
Từ	khóa: Thích ứng, hoạt động học tập, học chế tín chỉ, sinh viên Đại học Quy Nhơn
ABSTRACT
Creativity	of	5th	Grade	Pupils	at	Several	Elementary	Schools	in	Quang	Ngai	province	through	 
a	Self-Designed	System	of	Measurement	Tests
This article refers to the creative ability of 5th grade pupils of several elementary schools in 
Quang Ngai province through self-designed tests featuring a 7-level scale. The result showed that the 
majority of tested participants (64.87%) had low or very low creative ability. In addition, although there 
was no clear difference in creative ability between male and female pupils, the creative ability of rural and 
urban testees were significantly different.
Keywords: Adaptation, study activities, credit system, Quy Nhon University’s students
1.	 Đặt	vấn	đề
Sáng tạo là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người, nó vừa là nhu cầu 
vừa tạo ra những giá trị thỏa mãn nhu cầu của con người, lại vừa thúc đẩy sự phát triển toàn diện 
của xã hội. Trong thời đại ngày nay, sáng tạo đã trở thành tiềm lực, tài sản vô giá mà mỗi quốc 
gia, mỗi dân tộc và cả nhân loại phải quan tâm, bồi dưỡng và phát huy một cách hiệu quả trên con 
đường phát triển của mình. Do đó, việc nghiên cứu về mức độ thực trạng khả năng sáng tạo và 
phương cách giúp nâng cao khả năng sáng tạo của con người mà đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi - 
những chủ nhân tương lai của đất nước là điều vô cùng cấp thiết.
Lớp 5 là lớp cuối cấp Tiểu học, thời điểm học sinh đã trải qua một quá trình gần 5 năm kể từ 
khi bắt đầu bước vào môi trường học tập chính thức và là bước đệm để chuyển sang cấp học mới 
với những đòi hỏi cao hơn. Ở lứa tuổi này, nhân cách của các em còn “mang tính tiềm ẩn”, những 
năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt. Nếu xác định được thực trạng khả năng 
*Email: tatthiendo@gmail.com
Ngày nhận bài: 14/3/2016; Ngày nhận đăng: 2/6/2016
Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 10, Số 3, 2016, Tr. 59-69
60
sáng tạo, từ đó có những định hướng kịp thời và có những tác động phù hợp sẽ giúp cho các em 
phát triển khả năng sáng tạo của mình theo hướng tích cực.
Bên cạnh việc sử dụng test TST-H (Test đã được Việt hóa), tác giả cũng đã mạnh dạn xây 
dựng một hệ thống bài tập riêng dựa trên việc phân tích bản chất, cấu trúc của sáng tạo và đặc 
điểm của sáng tạo ở học sinh nhằm đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu 
học tại tỉnh Quảng Ngãi. 
2.	 Phương	pháp	và	khách	thể	nghiên	cứu
- Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là phương pháp điều tra bằng hệ thống bài 
tập, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như: trò chuyện, quan sát, phỏng vấn...
- Khách thể nghiên cứu: đề tài tiến hành nghiên cứu trên 427 học sinh lớp 5 một số trường 
tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. Phân bổ khách thể nghiên cứu như sau: Về giới tính, có 217 (50.82%) 
học sinh nam và 210 (49.18%) học sinh nữ; về khu vực, có 180 (42.15%) học sinh ở thành phố và 
247 (57.85%) học sinh ở nông thôn.
3.	 Mô	tả	về	hệ	thống	bài	tập	đo	nghiệm	tự	soạn
Hệ thống bài tập nhằm đánh giá khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu 
học tại tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 8 tiểu bài tập, được xây dựng bằng các “chất liệu”: ngôn ngữ, 
toán, phi toán - phi ngôn ngữ. Hệ thống bài tập sáng tạo này được cấu tạo bởi 5 tiểu bài tập như 
sau: Tiểu bài tập Flexibility (linh hoạt); tiểu bài tập Fluency (mềm dẻo); tiểu bài tập Originality 
(độc đáo); tiểu bài tập Problem sensibility (nhạy cảm vấn đề) và tiểu bài tập Elaboration (tính kế 
hoạch). Các tiểu bài tập Flexibility, Fluency, Originality và Elaboration đều thể hiện trong mình 
ý nghĩa của tiểu bài tập Originality. Cấu trúc chung của hệ thống bài tập sáng tạo được sơ đồ hóa 
như sau:
Bảng 1. Cấu trúc hệ thống bài tập sáng tạo
ORIGINALITY (Có tính độc đáo : Hiếm, Lạ, Hợp lý)
FLEXIBILITY
(Linh hoạt)
BT 1 Tìm nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật.
BT 2 Nhiều phương án giải quyết một vấn đề.
BT 3 Tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng (Khối 
Rubic)
FLUENCY
(Mềm dẻo)
BT 4 Tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của 
một từ
BT 5 Tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của 
một từ và đặt câu hay viết đoạn văn với từ ấy.
BT 6 Vẽ nhiều hình khác nhau từ một số đường nét cho 
trước
PROBLEM SENSIBILITY 
(Nhạy cảm vấn đề)
BT 7 Tìm số chưa biết theo nguyên tắc. (SODOKU)
ELABORATION
(Tính kế hoạch)
BT 8 Vẽ các chi tiết với khung cho sẵn để tạo ra hình vẽ có 
ý nghĩa
Đỗ Tất Thiên
61
 Tập 10, Số 3, 2016
4.	 Kết	quả	nghiên	cứu
4.1.	 Kết	quả	khả	năng	sáng	tạo	chung	của	học	sinh	lớp	5	một	số	trường	tiểu	học	tại	tỉnh	
Quảng	Ngãi	qua	hệ	thống	bài	tập 
Dựa vào bảy mức độ của khả năng sáng tạo theo thang phân loại của hệ thống bài tập, có 
thể nhận thấy khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi tập 
trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, chiếm 
hơn 3/5 lượng mẫu. Ở gần 2/5 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức là: C (trung bình) chiếm 34.46% 
và D (trung bình khá) chiếm 0.47%. Một điều khá thú vị trong đề tài này là có 3 mức sau đây 
không có học sinh nào đạt được đó là: mức E (khá), F (cao) và G ( cực cao). 
Dựa trên điểm số trung bình đo được về khả năng sáng tạo bằng hệ thống bài tập của học 
sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi con số tìm được là 18.95 ứng với mức thấp 
về mặt xếp loại khả năng sáng tạo. Như vậy, kết quả trên cho thấy khả năng sáng tạo của học sinh 
lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi đo theo hệ thống bài tập là không cao, không có 
sự nổi bật ở mức xuất sắc. Tuy nhiên, kết quả này chỉ mới cho ta biết một cách chung nhất về khả 
năng sáng tạo của nghiệm thể được đo bằng hệ thống bài tập. Để có cái nhìn cụ thể hơn, ta cần 
xem xét khả năng sáng tạo của học sinh dưới nhiều khía cạnh khác nhau. 
Bảng 2. Kết quả khả năng sáng tạo chung của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học
 tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập
Mức	độ Tần số (N) Tỷ lệ (%) Trung bình Xếp loại
A 164 38.41
18.95 B
(Thấp)
B 113 26.46
C 148 34.66
D 2 0.47
E 0 0
F+G 0 0
4.1.1. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua 
kết quả từng bài tập của hệ thống bài tập
Hệ thống bài tập dùng để đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học 
tại tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng với 8 bài tập khác nhau. Kết quả thu được từ 8 bài tập này 
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3. Kết quả biểu hiện khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học 
tại tỉnh Quảng Ngãi qua từng bài tập của hệ thống bài tập
Bài	tập BT1 BT2 BT3 BT4 BT5 BT6 BT7 BT8
Điểm	Trung	bình 4.72 0.14 0 6,78 3.14 1.71 0.88 1.59
Thứ	hạng 2 7 8 1 3 4 6 5
Căn cứ vào kết quả bảng số liệu 3, nổi rõ lên nhất là học sinh lớp 5 một số trường tiểu học 
tại tỉnh Quảng Ngãi đạt được điểm số cao ở nhóm bài tập dễ, được xây dựng bằng chất liệu ngôn 
62
ngữ, bao gồm: bài tập 4 (6.78) - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ (xếp 
hạng 1), bài tập 1 (4.72) - tìm nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật (xếp hạng 2) và bài tập 
5 (3.14) - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu với những từ đó 
(xếp hạng 3). Đây là những bài tập khá gần gũi với cuộc sống các em, không đòi hỏi nhiều khả 
năng tư duy, hơn nữa lại khá sát với nội dung chương trình học môn Tiếng Việt nên việc các em 
đạt điểm cao ở dạng nhóm bài tập này là điều dễ hiểu.
Kế đến là nhóm bài tập có độ khó trung bình, được xây dựng bằng chất liệu hình vẽ, các 
em đạt được điểm số “vừa phải” ở nhóm bài tập này. Cụ thể: bài tập 6 (1.74) - vẽ nhiều hình khác 
nhau từ một số đường nét cho trước (xếp hạng 4) và bài tập 8 (1.59) - vẽ các chi tiết với một khung 
cho sẵn để tạo ra một hình vẽ có ý nghĩa (xếp hạng 5). Đây là dạng bài tập vừa quen thuộc nhưng 
lại vừa mới mẻ giúp học sinh thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Quen thuộc vì đây là bài tập 
về vẽ, dạng bài tập mà học sinh thực hiện thường xuyên trong hoạt động học tập ở trường tiểu 
học nhưng điều mới lạ ở đây là các em phải tạo nên những hình ảnh hay bức tranh có ý nghĩa từ 
những nét vẽ đã cho. Chính điều này đã gây khó khăn cho các em trong việc tưởng tượng, hình 
dung trước nhiều kết quả, sản phẩm hình vẽ khác nhau từ các chi tiết sẵn có. Ở lứa tuổi này, các 
em vẫn quen với những yêu cầu, hướng dẫn cụ thể hơn là những yêu cầu chung chung. Bên cạnh 
đó, cách chấm điểm lại căn cứ vào số lượng sản phẩm các em hoàn thành trong khi khả năng 
tưởng tượng sáng tạo của các em chưa phát triển cân bằng và đủ để trong một khoảng thời gian 
ngắn phải cho ra nhiều kết quả khác nhau. Chính vì lẽ đó, các em chỉ đạt điểm trung bình ở mức 
vừa phải trong nhóm bài tập này.
Ở nhóm bài tập có độ khó cao, được xây dựng bằng chất liệu toán, đòi hỏi phải tìm ra quy 
luật logic của các dãy số, một loạt nhóm số, các cách sắp xếp sự vật theo yêu cầu, các em đạt điểm 
số thấp với điểm trung bình đều dưới 1 bao gồm: bài tập 7 - tìm số chưa biết theo nguyên tắc với 
bài tập ô số Sodoku (xếp hạng 6), bài tập 2 - nhiều phương án giải quyết một vấn đề, với bài tập 
trồng cây (xếp hạng 7) và bài tập 3 - tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng (xếp hạng 8). Những 
dạng bài tập này tương đương với những bài toán sao (*), toán nâng cao trong chương trình học 
của các em. Đòi hỏi các em phải tập trung cao độ khả năng chú ý, tư duy, phân tích, tổng hợp, khái 
quát... vì thế các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết những bài tập này. Điểm trung 
bình của dạng nhóm bài tập này là thấp nhất chỉ dưới 1 điểm. Điển hình với bài tập 3, trong số 427 
em tham gia, không ghi nhận được trường hợp nào có học sinh cho kết quả đúng cả.
4.1.2. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua 
các mặt biểu hiện tính sáng tạo của hệ thống bài tập
Bảng 4. Kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 
một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi
Các	mặt	biểu	hiện Bài	tập Điểm	trung	bình Thứ	hạng
Tính linh hoạt 1 + 2 + 3 1.62 2
Tính mềm dẻo 4 + 5 + 6 3.88 1
Tính nhạy cảm vấn đề 7 0.88 4
Tính kế hoạch 8 1.59 3
Đỗ Tất Thiên
63
 Tập 10, Số 3, 2016
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy trong các thành phần cơ bản của sáng tạo cấu thành hệ 
thống bài tập thì học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi nổi trội và có điểm 
trung bình cao nhất ở tính mềm dẻo (với 3.88 điểm - xếp hạng 1). Tính mềm dẻo của học sinh 
lớp 5 được đo bởi kết quả của 3 tiểu bài tập, gồm: bài 4 - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa 
khác nhau của một từ; bài 5 - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt 
câu với từ ấy và bài 6 - vẽ nhiều hình khác nhau từ một số đường nét cho trước. Kế đến là tính 
linh hoạt có điểm trung bình xếp hạng 2 và được hợp thành bởi 3 tiểu bài tập, gồm: bài tập 1 - tìm 
nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật; bài tập 2 - nhiều phương án giải quyết một vấn đề và 
bài tập 3 - tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng. Tính kế hoạch (xếp hạng 3) được đo bằng bài 
tập 8 - vẽ các chi tiết với một khung cho sẵn để tạo ra một hình vẽ có ý nghĩa và tính nhạy cảm 
(xếp hạng 4) được đo bằng bài tập 7 - tìm số chưa biết theo nguyên tắc (sodoku). Có thể lí giải 
kết quả này như sau:
Học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi có khả năng sáng tạo nổi trội 
nhất ở thành phần mềm dẻo (3.88) vì thành phần này chủ yếu huy động ở học sinh sự nhớ nhanh, 
tái hiện nhanh các từ, các câu, thành ngữ, các hình ảnh hoặc các liên tưởng về các ý tưởng đã biết 
được lưu giữ trong bộ nhớ. Chính vì kết quả của bài tập được hình thành phần nhiều dựa trên sự 
huy động những ý tưởng đã biết được lưu giữ trong trí nhớ, những kinh nghiệm thu nhận trong 
cuộc sống, trong học tập... nên việc học sinh đạt điểm trung bình cao nhất ở thành phần này là 
điều dễ hiểu.
Tiếp đến là tính linh hoạt (1.62) và tính kế hoạch (1.59) có điểm số trung bình chênh lệch 
không lớn, đây là những thành phần đòi hỏi các em phải phải có sự linh động, không rập khuôn, 
tìm được nhiều cách thức giải quyết một vấn đề theo các kế hoạch cụ thể hay theo nhiều phương 
án khác nhau. Nếu phương án này không được nhanh chóng đổi qua phương án có sự khác về chất 
so với phương án cũ để giải quyết nhiệm vụ mà bài tập đưa ra. Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em 
chưa đủ hiểu biết, vốn sống và kinh nghiệm để có thể thuyên chuyển một cách linh hoạt trong tư 
duy, trong việc lập kế hoạch nhất là khi thời gian dành cho việc giải một bài tập lại không dài nên 
toàn mẫu nghiên cứu có mức điểm trung bình không cao ở hai thành phần trên.
Tính nhạy cảm vấn đề có điểm trung bình thấp nhất (0.88), đây là thành phần đòi hỏi sự 
nhanh chóng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn, thiếu hụt hay thiếu logic, chưa tối ưu,... cũng như khả 
năng nắm bắt dễ dàng nhanh chóng các vấn đề để từ đó tìm ra và điền vào các ô số còn trống của 
sodoku dựa vào những ô số đã cho theo quy luật cho sẵn. Đây là một bài tập khó, cần sự tập trung 
cao độ và logic chặt chẽ vì chỉ cần sai một ô sẽ có thể dẫn đến sai nhiều ô khác. Chính vì vậy mà 
điểm số toàn mẫu ghi được trong phần này là rất thấp (0.88).
Các tính mềm dẻo, linh hoạt, kế hoạch và nhạy cảm vấn đề đều “chứa” trong mình tính độc 
đáo. Có thể nhận thấy những biểu hiện cụ thể ở thành phần độc đáo như khả năng sử dụng các 
phương án hiếm, lạ, ít gặp hay sử dụng các hiện tượng mới lạ, bất ngờ... Tuy nhiên, qua việc chấm 
điểm hệ thống bài tập, có thể nhận thấy rất hiếm khi các em cho ra kết quả có sự độc đáo, hiếm, 
lạ so với những em khác. Chủ yếu các phương án, các hình vẽ mà các em đưa ra đều khá giống 
nhau, khá gần với những gì các em đã được học trên lớp cũng như tích lũy được trong cuộc sống 
qua tivi, truyện tranh, sách, báo... 
64
4.2.	 Khả	năng	sáng	tạo	của	học	sinh	lớp	5	một	số	trường	tiểu	học	tại	tỉnh	Quảng	Ngãi	qua	
hệ	thống	bài	tập	so	sánh	theo	giới	tính
Bảng 5. Kết quả đo khả năng sáng tạo chung của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học 
tại tỉnh Quảng Ngãi bằng hệ thống bài tập so sánh theo giới tính
	Giới	tính
Mức	độ	sáng	tạo
Nam Nữ
N % N %
A 91 41.94 73 34.76
B 56 25.81 57 27.14
C 70 32.25 78 37.14
D 0 0 2 0.96
E 0 0 0 0
F+G 0 0 0 0
Kết quả thống kê từ bảng 5, cho thấy khả năng sáng tạo của cả học sinh nam và nữ theo 
thang phân loại của hệ thống bài tập vẫn tập trung chủ yếu ở mức A và B, đều chiếm hơn 3/5 lượng 
mẫu. ... nh, khả năng sáng tạo của học 
sinh nữ (37.14%) lại cao hơn 5.85% so với các em nam (32.25%). Ở mức độ trung bình khá - mức 
độ cao nhất đo được, chỉ ghi nhận trường hợp của 2 nữ học sinh đạt điểm (chiếm 0.96%), không 
có nam học sinh nào đạt được mức độ này. Như vậy, nhìn chung khả năng sáng tạo theo hệ thống 
bài tập của học sinh nữ có phần trội hơn học sinh nam một chút, tuy nhiên sự chênh lệch này là 
không đáng kể. Để bổ sung cho nhận định trên, ta tiến hành xem xét khả năng sáng tạo của nam 
và nữ qua từng bài tập và qua các mặt biểu hiện sáng tạo của hệ thống bài tập.
Bảng 6. Kết quả các bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu 
học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo giới tính
Các	bài	tập	và	tổng	điểm
Trung	bình Kiểm	 nghiệm	 t	 (Sig<α=	 0.05	
có	sự	khác	biệt)Nam Nữ
Bài tập 1 4.6544 4.7952 0.494
Bài tập 2 0.0461 0.2381 0.096
Bài tập 3 0 0 -
Bài tập 4 6.5346 7.0238 0.006
Bài tập 5 2.8986 3.3810 0.049
Bài tập 6 2.7650 2.8143 0.751
Bài tập 7 1.4988 1.3071 0.074
Bài tập 8 2.7235 2.6762 0.598
Tổng điểm 21.1210 22.2357 0.090
Số liệu ở bảng 6, cho thấy điểm trung bình về khả năng sáng tạo theo thang đo khả năng 
sáng tạo của hệ thống bài tập giữa học sinh nam và học sinh nữ chênh lệch không đáng kể 
(22.2357 – 21.1210 = 0.1147) cho thấy khả năng sáng tạo của học sinh nam và học sinh nữ tương 
Đỗ Tất Thiên
65
 Tập 10, Số 3, 2016
đương nhau và đều đạt loại thấp (B). Bên cạnh đó, khi thực hiện kiểm nghiệm t với mức ý nghĩa 
α = 0.05, hầu hết tất cả các tiêu chí (5/7) và tổng điểm của học sinh nam và học sinh nữ thì sự khác 
biệt về điểm trung bình đều không có ý nghĩa (Sig luôn lớn hơn α = 0.05). Có thể khẳng định ở 
lứa tuổi này khả năng sáng tạo của học sinh nam và nữ thông qua hệ thống bài tập là tương đương 
nhau. Nói cách khác, giới tính không ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của học sinh đo theo qua 
hệ thống bài tập. Nhận định trên dựa vào các lý do sau:
Thứ nhất, khi phân tích dựa trên điểm trung bình từng bài tập cho thấy ở bài tập 1, 2, 4, 5, 
6 học sinh nữ có phần nổi trội hơn học sinh nam, ngược lại ở các bài tập 7, 8 thì học sinh nam lại 
có phần trội hơn học sinh nữ một chút.
Thứ hai, khi so sánh giá trị trung bình giữa nam và nữ trên từng bài tập bằng kiểm định 
Independent-samples T-test thu được kết quả như sau: bài tập 4 và bài tập 5 có giá trị Sig trong 
kiểm tịnh t < 0.05 chứng tỏ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình giữa nam và nữ 
ở 2 bài tập trên. Những bài tập còn lại đều có giá trị sig trong kiểm định t > 0.05 chứng tỏ không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình giữa nam và nữ ở những bài tập này. 
Từ hai phân tích trên, có thể kết luận học sinh nữ trội hơn học sinh nam và có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở bài tập 4 và 5. Học sinh nam không có kết quả bài tập nào 
trội hơn học sinh nữ mà có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình. Có thể lí giải những 
khác biệt này như sau: bài tập 4 và 5 thuộc nhóm bài tập ngôn ngữ viết. Bên cạnh đó, bài tập 4 và 
5 với yêu cầu tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu với từ ấy là 2 
bài tập có nội dung sát với chương trình học của học sinh. Mà ở lứa tuổi này theo các nghiên cứu 
chỉ ra “các bé trai luôn cảm thấy việc học hành không thể nào hấp dẫn bằng những trò chơi hành 
động. Trong những thời gian đầu đi học các cậu bé thường tụt hậu và học kém hơn so với các bạn 
gái bằng tuổi, đặc biệt về sự tập trung và khả năng ngôn ngữ”. Chính những đặc trưng về giới tính 
trong giai đoạn lứa này đã dẫn đến sự chênh lệch trên.
Để xem xét toàn diện hơn về khả năng sáng tạo của nam và nữ học sinh lớp 5 một số trường 
tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi theo hệ thống bài tập chúng ta cần phân tích sự khác biệt khả năng 
sáng tạo giữa nam qua nữ qua các mặt biểu hiện sáng tạo. Thể hiện qua bảng số liệu 7.
Bảng 7. Kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo qua hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 
một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo giới tính
Các	mặt	biểu	hiện
Trung	bình Kiểm	nghiệm	t	(Sig<α=	0.05	có	
sự	khác	biệt)Nam Nữ
Tính mềm dẻo 4.0661 4.4063 0.023
Tính linh hoạt 1.5668 1.6778 0.167
Tính kế hoạch 2.7235 2.6762 0.598
Tính nhạy cảm vấn đề 1.4988 1.3071 0.074
Số liệu ở bảng 7 và phân tích dựa trên điểm trung bình từng mặt biểu hiện khả năng sáng 
tạo của hệ thống bài tập ta thấy: học sinh nữ có phần nổi trội hơn học sinh nam ở tính mềm dẻo 
và tính linh hoạt, ngược lại ở tính kế hoạch và tính nhạy cảm vấn đề thì học sinh nam lại có phần 
trội hơn học sinh nữ một chút. Bên cạnh đó, khi so sánh giá trị trung bình giữa nam và nữ trên 
66
từng mặt biểu hiện bằng kiểm định Independent-samples T-test thu được kết quả như sau: giá trị t 
của tính mềm dẻo tìm được (t = 0.023 < 0.05) chứng tỏ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị 
trung bình giữa nam và nữ ở mặt biểu hiện này. Những mặt biểu hiện còn lại: tính linh hoạt, tính 
kế hoạch, tính nhạy cảm vấn đề đều có giá trị sig trong kiểm định t > 0.05 chứng tỏ không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình giữa nam và nữ ở những mặt biểu hiện này. 
Từ những phân tích trên, cho thấy học sinh nam không có mặt biểu hiện nào về khả năng 
sáng tạo trội hơn học sinh nữ mà lại có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình. Trong 
khi đó, học sinh nữ lại trội hơn học sinh nam và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung 
bình ở tính mềm dẻo trong khả năng sáng tạo. Đây có thể là đặc trưng cơ bản về giới tính giữa 
nam và nữ vì nữ giới thường có biểu hiện mềm dẻo hơn trong cách lựa chọn phương án, xử lí, giải 
quyết vấn đề so với nam trong thực tế.
4.3.	 Khả	năng	sáng	tạo	của	học	sinh	lớp	5	một	số	trường	tiểu	học	tại	tỉnh	Quảng	Ngãi	qua	
các	bài	tập	của	hệ	thống	bài	tập	so	sánh	theo	khu	vực
Kết quả hệ thống bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại 
tỉnh Quảng Ngãi phân theo khu vực được thể hiện ở bảng số liệu dưới đây:
Bảng 8. Kết quả hệ thống bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường 
tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo khu vực
	Khu	vực
Mức	độ	sáng	tạo
Thành	phố Nông	thôn
Tần	số	(N) % Tần	số	(N) %
A 24 13.33 140 56.68
B 49 27.22 64 25.91
C 105 58.33 43 17.41
D 2 1.12 0 0
E 0 0 0 0
F+G 0 0 0 0
Căn cứ vào bảng phân loại khả năng sáng tạo theo hệ thống bài tập, có thể nhận thấy khả 
năng sáng tạo của học sinh nông thôn nổi rõ lên nhất ở mức A - kém (với 56.68%) chiếm hơn 1/2 
lượng mẫu. Ở gần 1/2 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức đó là: loại thấp (B) chiếm 25.91% và loại 
C (trung bình) chiếm 17.41%. Trong khi đó, khả năng sáng tạo của học sinh thành phố lại tập 
trung chủ yếu ở mức trung bình (với 58.33%) chiếm hơn 1/2 lượng mẫu. Ở 43.32% lượng mẫu 
còn lại rơi vào 3 mức đó là: mức A chiếm 13.33%, mức B chiếm 27.22% và mức D chiếm 1.12%. 
Không có học sinh nào đạt được mức độ khá, cao và cực cao. 
Khi tiến hành so sánh khả năng sáng tạo của học sinh nông thôn và thành phố theo thang đo 
của hệ thống bài tập ta nhận thấy khả năng sáng tạo của học sinh thành phố có phần trội hơn học 
sinh nông thôn. Cụ thể: loại A (kém) của học sinh lớp 5 vùng nông thôn (chiếm 56.68%) cao gấp 
hơn 4 lần so với học sinh lớp 5 ở thành phố (chiếm 13.33%). Kế đến là mức độ khả năng sáng tạo 
thấp (B), học sinh nông thôn và thành phố có tỉ lệ khá đồng đều nhau và đều chiếm hơn 1/4 lượng 
mẫu. Ở mức độ trung bình (C), học sinh thành phố (58.33%) lại có tỉ lệ cao hơn gấp 3 lần so với 
Đỗ Tất Thiên
67
 Tập 10, Số 3, 2016
học sinh nông thôn (17.41%). Trong khi đó, với mức độ trung bình khá - mức độ cao nhất được 
ghi nhận qua việc thực hiện hệ thống bài tập thì không có học sinh nông thôn nào mà chỉ có 2 học 
sinh ở thành phố (chiếm 1.12%) đạt được điểm ở mức độ này.
Tuy nhiên, khi bàn về khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh 
Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập so sánh theo khu vực, ta không thể chỉ dừng lại ở sự so sánh tỉ 
lệ đạt được trong từng mức độ giữa học sinh ở nông thôn với học sinh ở thành phố mà cần phải 
đi sâu phân tích khả năng sáng tạo của học sinh nông thôn và thành phố qua từng bài tập và qua 
các mặt biểu hiện của sáng tạo. 
Bảng 9. So sánh kết quả từng bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 
một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi phân theo khu vực
Các	bài	tập	và	tổng	điểm
Trung	bình Kiểm	nghiệm	t	(Sig<α=	0.05	có	sự	
khác	biệt)Thành	phố Nông	thôn
Bài tập 1 5.0361 4.4960 0.007
Bài tập 2 0.3333 0.0000 0.014
Bài tập 3 0 0 -
Bài tập 4 7.4944 6.2510 0.000
Bài tập 5 4.2667 2.3117 0.000
Bài tập 6 3.0778 2.5789 0.002
Bài tập 7 1.6847 1.2004 0.000
Bài tập 8 2.7778 2.6437 0.145
Tổng điểm 24.6708 19.4818 0.000
Từ số liệu của bảng 9, có thể thấy điểm trung bình về khả năng sáng tạo của học sinh ở 
thành phố và nông thôn có sự chênh lệch khá rõ (24.6708 – 19.4818 = 5.189). Căn cứ vào bảng 
phân loại 7 mức độ của hệ thống bài tập cho thấy học sinh thành phố có khả năng sáng tạo ở mức 
trung bình - C với 24.67 điểm, còn học sinh nông thôn có khả năng sáng tạo ở mức thấp - B với 
19.48 điểm. Bên cạnh đó, khi thực hiện kiểm nghiệm t với mức ý nghĩa α = 0.05 hầu hết tất cả các 
bài tập (7/8) và tổng điểm của học sinh ở thành phố và nông thôn thì sự khác biệt về điểm trung 
bình đều có ý nghĩa thống kê (sig < α = 0,05 rất nhiều). Từ những phân tích trên, có thể khẳng 
định khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn theo hệ thống bài tập là khác nhau, 
khu vực sinh sống và điều kiện học tập ở thành phố hay nông thôn có ảnh hưởng đến khả năng 
sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh đó, khi phân 
tích dựa trên điểm trung bình của từng bài tập cho thấy học sinh thành phố nổi trội hơn học sinh 
nông thôn ở tất cả các bài tập. Đồng thời, khi so sánh giá trị trung bình giữa học sinh thành phố và 
học sinh nông thôn ở từng bài tập bằng kiểm định Independent-samples T-test ta thấy có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở tất cả các bài tập (trừ bài 8 t = 0.145 > 0.05) Sig trong 
kiểm định t < 0.05 rất nhiều.
68
Bảng 10. So sánh kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo qua hệ thống bài tập 
của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi theo khu vực
Các	mặt	biểu	hiện
Trung	bình Kiểm	nghiệm	t	(Sig<α=	0.05	có	
sự	khác	biệt)Thành	phố Nông	thôn
Tính mềm dẻo 4.9463 3.7193 0.000
Tính linh hoạt 1.7898 1.4987 0.000
Tính kế hoạch 2.7778 2.6437 0.145
Tính nhạy cảm vấn đề 1.6847 1.2004 0.000
Dựa vào bảng số liệu 10, phân tích điểm trung bình và thực hiện kiểm định Independent-
samples T-test trên từng mặt biểu hiện khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập ta thấy: học sinh 
thành phố nổi trội hơn học sinh nông thôn ở tất cả các mặt biểu hiện, sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê về trị trung bình ở 3 mặt: tính mềm dẻo, tính linh hoạt, tính nhạy cảm vấn đề (t < 0.05) 
trừ tính kế hoạch (t= 0.145 > 0.05) trong khả năng sáng tạo của học sinh.
Như vậy, về phương diện biểu hiện khả năng sáng tạo qua các mặt của hệ thống bài tập học 
sinh thành phố nổi trội hơn hẳn so với học sinh nông thôn. Sự chênh lệch này có thể được lí giải 
bởi những nguyên nhân cơ bản sau:
+ Thứ nhất, do những thuận lợi về kinh tế, văn hóa, đời sống, cơ sở vật chất... cũng như 
trình độ nhận thức của gia đình mà các em học sinh ở thành phố thường nhận được nhiều sự 
quan tâm, chăm sóc, được tạo điều kiện tối đa để tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, tiếp 
cận với nhiều phương cách nhằm phát huy khả năng sáng tạo của mình so với các em học sinh 
ở nông thôn.
 + Thứ hai, đại đa số các em học sinh ở thành phố chỉ tập trung vào mỗi việc học hành, vui 
chơi và giải trí. Trong khi đó, các em học sinh ở nông thôn nhất là nông thôn miền núi còn gặp 
rất nhiều khó khăn. Ngoài việc học hành với điều kiện đường xá xa xôi, trắc trở, cơ sở vật chất 
nghèo nàn... các em còn phải dành nhiều thời gian cho việc phụ giúp gia đình như: giữ em, chăn 
bò, cắt cỏ, trồng trọt, thậm chí có học sinh lớp 5 còn theo bố mẹ đi làm thêm nhằm trang trải cho 
cuộc sống gia đình. Chính gánh nặng cuộc sống này đã “cướp” đi tuổi thơ thỏa sức tưởng tượng, 
sáng tạo của các em. Qua việc hướng dẫn các em ở trường tiểu học Sơn Hạ làm test và hệ thống 
bài tập, chúng tôi nhận thấy có hiện tượng nhiều em có trình độ rất thấp, không tương xứng với 
trình độ của một học sinh lớp 5, nhất là một số học sinh là con em của đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Thứ ba, các em học sinh ở nông thôn đa phần có tính cách khá rụt rè, thiếu sự tự tin trong 
việc thể hiện bản thân so với các em học sinh thành phố nên sản phẩm thu được của test TST-H 
cũng vì đó mà chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo của học sinh...
Chính những lí do cơ bản vừa phân tích trên, đã ít nhiều chi phối, tác động và dẫn đến sự 
chênh lệch về khả năng sáng tạo giữa học sinh ở nông thôn so với học sinh ở thành phố. Đây chính 
là vấn đề “nhức nhối” đặt ra cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét 
nhằm hoạch định các chiến lược, phương hướng thích hợp, tạo điều kiện cho các em học sinh ở 
nông thôn, nhất là nông thôn miền núi có điều kiện thuận lợi trong việc học tập, vui chơi, giải trí, 
Đỗ Tất Thiên
69
 Tập 10, Số 3, 2016
được sống với đúng đặc điểm tâm, sinh lí của lứa tuổi mình và cũng chính là góp phần giảm thiểu 
sự chênh lệch về khả năng sáng tạo giữa học sinh thành phố và nông thôn, miền núi.
5.	 Kết	luận
Dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo thang phân loại của hệ thống bài tập, khả 
năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở 
mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, chiếm hơn 3/5 lượng 
mẫu. Ở gần 2/5 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức là: C (trung bình) chiếm 34.46% và D (trung 
bình khá) chiếm 0.47%. Có 3 mức sau đây không có học sinh nào đạt được đó là: mức E (khá), F 
(cao) và G (cực cao). 
Xem xét trên bình diện kết quả từng bài tập của hệ thống bài tập thì: học sinh lớp 5 một 
số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi đạt được điểm số cao ở nhóm bài tập dễ, được xây dựng 
bằng chất liệu ngôn ngữ, bao gồm: bài tập 4 (xếp hạng 1), bài tập 1 (xếp hạng 2) và bài tập (xếp 
hạng 3).
Điểm trung bình về khả năng sáng tạo giữa học sinh nam và học sinh nữ theo thang phân 
loại của hệ thống bài tập chênh lệch không đáng kể. Có thể khẳng định ở lứa tuổi này khả năng 
sáng tạo của học sinh nam và nữ theo hệ thống bài tập là tương đương nhau và giới tính không 
ảnh hưởng nhiều đến khả năng sáng tạo của học sinh đo theo hệ thống bài tập.
Điểm trung bình về khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn theo thang 
phân loại của hệ thống bài tập có sự chênh lệch đáng kể. Có thể khẳng định khả năng sáng tạo 
của học sinh ở thành phố và nông thôn theo hệ thống bài tập là khác nhau, khu vực sinh sống và 
học tập ở thành phố hay nông thôn có ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một 
số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi.
TÀI	LIỆU	THAM	KHẢO
1. Phạm Thành Nghị, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (2012).
2. Huỳnh Văn Sơn, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Nxb Giáo dục, (2009).
3. Nguyễn Huy Tú, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Viện Khoa học Giáo dục, (2000).

File đính kèm:

  • pdfkha_nang_sang_tao_cua_hoc_sinh_lop_5_mot_so_truong_tieu_hoc.pdf