Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn
Bài viết đề cập đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi
qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn. Kết quả cho thấy: dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo
thang phân loại của hệ thống bài tập, khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh
Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này,
chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Giữa học sinh nam và học sinh nữ không có sự khác biệt rõ rệt về khả năng sáng
tạo. Khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn có sự khác biệt rõ rệt.
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng sáng tạo của học sinh Lớp 5 một số trường Tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn
59 Tập 10, Số 3, 2016 KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH LỚP 5 MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP ĐO NGHIỆM TỰ SOẠN ĐỖ TẤT THIÊN* Khoa Tâm lý - Giáo dục và Công tác xã hội, Trường Đại học Quy Nhơn TÓM TẮT Bài viết đề cập đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn. Kết quả cho thấy: dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo thang phân loại của hệ thống bài tập, khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Giữa học sinh nam và học sinh nữ không có sự khác biệt rõ rệt về khả năng sáng tạo. Khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn có sự khác biệt rõ rệt. Từ khóa: Thích ứng, hoạt động học tập, học chế tín chỉ, sinh viên Đại học Quy Nhơn ABSTRACT Creativity of 5th Grade Pupils at Several Elementary Schools in Quang Ngai province through a Self-Designed System of Measurement Tests This article refers to the creative ability of 5th grade pupils of several elementary schools in Quang Ngai province through self-designed tests featuring a 7-level scale. The result showed that the majority of tested participants (64.87%) had low or very low creative ability. In addition, although there was no clear difference in creative ability between male and female pupils, the creative ability of rural and urban testees were significantly different. Keywords: Adaptation, study activities, credit system, Quy Nhon University’s students 1. Đặt vấn đề Sáng tạo là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người, nó vừa là nhu cầu vừa tạo ra những giá trị thỏa mãn nhu cầu của con người, lại vừa thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội. Trong thời đại ngày nay, sáng tạo đã trở thành tiềm lực, tài sản vô giá mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả nhân loại phải quan tâm, bồi dưỡng và phát huy một cách hiệu quả trên con đường phát triển của mình. Do đó, việc nghiên cứu về mức độ thực trạng khả năng sáng tạo và phương cách giúp nâng cao khả năng sáng tạo của con người mà đặc biệt là học sinh nhỏ tuổi - những chủ nhân tương lai của đất nước là điều vô cùng cấp thiết. Lớp 5 là lớp cuối cấp Tiểu học, thời điểm học sinh đã trải qua một quá trình gần 5 năm kể từ khi bắt đầu bước vào môi trường học tập chính thức và là bước đệm để chuyển sang cấp học mới với những đòi hỏi cao hơn. Ở lứa tuổi này, nhân cách của các em còn “mang tính tiềm ẩn”, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt. Nếu xác định được thực trạng khả năng *Email: tatthiendo@gmail.com Ngày nhận bài: 14/3/2016; Ngày nhận đăng: 2/6/2016 Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 10, Số 3, 2016, Tr. 59-69 60 sáng tạo, từ đó có những định hướng kịp thời và có những tác động phù hợp sẽ giúp cho các em phát triển khả năng sáng tạo của mình theo hướng tích cực. Bên cạnh việc sử dụng test TST-H (Test đã được Việt hóa), tác giả cũng đã mạnh dạn xây dựng một hệ thống bài tập riêng dựa trên việc phân tích bản chất, cấu trúc của sáng tạo và đặc điểm của sáng tạo ở học sinh nhằm đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. 2. Phương pháp và khách thể nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là phương pháp điều tra bằng hệ thống bài tập, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như: trò chuyện, quan sát, phỏng vấn... - Khách thể nghiên cứu: đề tài tiến hành nghiên cứu trên 427 học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. Phân bổ khách thể nghiên cứu như sau: Về giới tính, có 217 (50.82%) học sinh nam và 210 (49.18%) học sinh nữ; về khu vực, có 180 (42.15%) học sinh ở thành phố và 247 (57.85%) học sinh ở nông thôn. 3. Mô tả về hệ thống bài tập đo nghiệm tự soạn Hệ thống bài tập nhằm đánh giá khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 8 tiểu bài tập, được xây dựng bằng các “chất liệu”: ngôn ngữ, toán, phi toán - phi ngôn ngữ. Hệ thống bài tập sáng tạo này được cấu tạo bởi 5 tiểu bài tập như sau: Tiểu bài tập Flexibility (linh hoạt); tiểu bài tập Fluency (mềm dẻo); tiểu bài tập Originality (độc đáo); tiểu bài tập Problem sensibility (nhạy cảm vấn đề) và tiểu bài tập Elaboration (tính kế hoạch). Các tiểu bài tập Flexibility, Fluency, Originality và Elaboration đều thể hiện trong mình ý nghĩa của tiểu bài tập Originality. Cấu trúc chung của hệ thống bài tập sáng tạo được sơ đồ hóa như sau: Bảng 1. Cấu trúc hệ thống bài tập sáng tạo ORIGINALITY (Có tính độc đáo : Hiếm, Lạ, Hợp lý) FLEXIBILITY (Linh hoạt) BT 1 Tìm nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật. BT 2 Nhiều phương án giải quyết một vấn đề. BT 3 Tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng (Khối Rubic) FLUENCY (Mềm dẻo) BT 4 Tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ BT 5 Tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu hay viết đoạn văn với từ ấy. BT 6 Vẽ nhiều hình khác nhau từ một số đường nét cho trước PROBLEM SENSIBILITY (Nhạy cảm vấn đề) BT 7 Tìm số chưa biết theo nguyên tắc. (SODOKU) ELABORATION (Tính kế hoạch) BT 8 Vẽ các chi tiết với khung cho sẵn để tạo ra hình vẽ có ý nghĩa Đỗ Tất Thiên 61 Tập 10, Số 3, 2016 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Kết quả khả năng sáng tạo chung của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập Dựa vào bảy mức độ của khả năng sáng tạo theo thang phân loại của hệ thống bài tập, có thể nhận thấy khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Ở gần 2/5 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức là: C (trung bình) chiếm 34.46% và D (trung bình khá) chiếm 0.47%. Một điều khá thú vị trong đề tài này là có 3 mức sau đây không có học sinh nào đạt được đó là: mức E (khá), F (cao) và G ( cực cao). Dựa trên điểm số trung bình đo được về khả năng sáng tạo bằng hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi con số tìm được là 18.95 ứng với mức thấp về mặt xếp loại khả năng sáng tạo. Như vậy, kết quả trên cho thấy khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi đo theo hệ thống bài tập là không cao, không có sự nổi bật ở mức xuất sắc. Tuy nhiên, kết quả này chỉ mới cho ta biết một cách chung nhất về khả năng sáng tạo của nghiệm thể được đo bằng hệ thống bài tập. Để có cái nhìn cụ thể hơn, ta cần xem xét khả năng sáng tạo của học sinh dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Bảng 2. Kết quả khả năng sáng tạo chung của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập Mức độ Tần số (N) Tỷ lệ (%) Trung bình Xếp loại A 164 38.41 18.95 B (Thấp) B 113 26.46 C 148 34.66 D 2 0.47 E 0 0 F+G 0 0 4.1.1. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua kết quả từng bài tập của hệ thống bài tập Hệ thống bài tập dùng để đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng với 8 bài tập khác nhau. Kết quả thu được từ 8 bài tập này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 3. Kết quả biểu hiện khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua từng bài tập của hệ thống bài tập Bài tập BT1 BT2 BT3 BT4 BT5 BT6 BT7 BT8 Điểm Trung bình 4.72 0.14 0 6,78 3.14 1.71 0.88 1.59 Thứ hạng 2 7 8 1 3 4 6 5 Căn cứ vào kết quả bảng số liệu 3, nổi rõ lên nhất là học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi đạt được điểm số cao ở nhóm bài tập dễ, được xây dựng bằng chất liệu ngôn 62 ngữ, bao gồm: bài tập 4 (6.78) - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ (xếp hạng 1), bài tập 1 (4.72) - tìm nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật (xếp hạng 2) và bài tập 5 (3.14) - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu với những từ đó (xếp hạng 3). Đây là những bài tập khá gần gũi với cuộc sống các em, không đòi hỏi nhiều khả năng tư duy, hơn nữa lại khá sát với nội dung chương trình học môn Tiếng Việt nên việc các em đạt điểm cao ở dạng nhóm bài tập này là điều dễ hiểu. Kế đến là nhóm bài tập có độ khó trung bình, được xây dựng bằng chất liệu hình vẽ, các em đạt được điểm số “vừa phải” ở nhóm bài tập này. Cụ thể: bài tập 6 (1.74) - vẽ nhiều hình khác nhau từ một số đường nét cho trước (xếp hạng 4) và bài tập 8 (1.59) - vẽ các chi tiết với một khung cho sẵn để tạo ra một hình vẽ có ý nghĩa (xếp hạng 5). Đây là dạng bài tập vừa quen thuộc nhưng lại vừa mới mẻ giúp học sinh thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Quen thuộc vì đây là bài tập về vẽ, dạng bài tập mà học sinh thực hiện thường xuyên trong hoạt động học tập ở trường tiểu học nhưng điều mới lạ ở đây là các em phải tạo nên những hình ảnh hay bức tranh có ý nghĩa từ những nét vẽ đã cho. Chính điều này đã gây khó khăn cho các em trong việc tưởng tượng, hình dung trước nhiều kết quả, sản phẩm hình vẽ khác nhau từ các chi tiết sẵn có. Ở lứa tuổi này, các em vẫn quen với những yêu cầu, hướng dẫn cụ thể hơn là những yêu cầu chung chung. Bên cạnh đó, cách chấm điểm lại căn cứ vào số lượng sản phẩm các em hoàn thành trong khi khả năng tưởng tượng sáng tạo của các em chưa phát triển cân bằng và đủ để trong một khoảng thời gian ngắn phải cho ra nhiều kết quả khác nhau. Chính vì lẽ đó, các em chỉ đạt điểm trung bình ở mức vừa phải trong nhóm bài tập này. Ở nhóm bài tập có độ khó cao, được xây dựng bằng chất liệu toán, đòi hỏi phải tìm ra quy luật logic của các dãy số, một loạt nhóm số, các cách sắp xếp sự vật theo yêu cầu, các em đạt điểm số thấp với điểm trung bình đều dưới 1 bao gồm: bài tập 7 - tìm số chưa biết theo nguyên tắc với bài tập ô số Sodoku (xếp hạng 6), bài tập 2 - nhiều phương án giải quyết một vấn đề, với bài tập trồng cây (xếp hạng 7) và bài tập 3 - tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng (xếp hạng 8). Những dạng bài tập này tương đương với những bài toán sao (*), toán nâng cao trong chương trình học của các em. Đòi hỏi các em phải tập trung cao độ khả năng chú ý, tư duy, phân tích, tổng hợp, khái quát... vì thế các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết những bài tập này. Điểm trung bình của dạng nhóm bài tập này là thấp nhất chỉ dưới 1 điểm. Điển hình với bài tập 3, trong số 427 em tham gia, không ghi nhận được trường hợp nào có học sinh cho kết quả đúng cả. 4.1.2. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua các mặt biểu hiện tính sáng tạo của hệ thống bài tập Bảng 4. Kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi Các mặt biểu hiện Bài tập Điểm trung bình Thứ hạng Tính linh hoạt 1 + 2 + 3 1.62 2 Tính mềm dẻo 4 + 5 + 6 3.88 1 Tính nhạy cảm vấn đề 7 0.88 4 Tính kế hoạch 8 1.59 3 Đỗ Tất Thiên 63 Tập 10, Số 3, 2016 Từ bảng số liệu trên, có thể thấy trong các thành phần cơ bản của sáng tạo cấu thành hệ thống bài tập thì học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi nổi trội và có điểm trung bình cao nhất ở tính mềm dẻo (với 3.88 điểm - xếp hạng 1). Tính mềm dẻo của học sinh lớp 5 được đo bởi kết quả của 3 tiểu bài tập, gồm: bài 4 - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ; bài 5 - tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu với từ ấy và bài 6 - vẽ nhiều hình khác nhau từ một số đường nét cho trước. Kế đến là tính linh hoạt có điểm trung bình xếp hạng 2 và được hợp thành bởi 3 tiểu bài tập, gồm: bài tập 1 - tìm nhiều mục đích sử dụng của một số đồ vật; bài tập 2 - nhiều phương án giải quyết một vấn đề và bài tập 3 - tìm nhiều loạt số hạng có cùng một tổng. Tính kế hoạch (xếp hạng 3) được đo bằng bài tập 8 - vẽ các chi tiết với một khung cho sẵn để tạo ra một hình vẽ có ý nghĩa và tính nhạy cảm (xếp hạng 4) được đo bằng bài tập 7 - tìm số chưa biết theo nguyên tắc (sodoku). Có thể lí giải kết quả này như sau: Học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi có khả năng sáng tạo nổi trội nhất ở thành phần mềm dẻo (3.88) vì thành phần này chủ yếu huy động ở học sinh sự nhớ nhanh, tái hiện nhanh các từ, các câu, thành ngữ, các hình ảnh hoặc các liên tưởng về các ý tưởng đã biết được lưu giữ trong bộ nhớ. Chính vì kết quả của bài tập được hình thành phần nhiều dựa trên sự huy động những ý tưởng đã biết được lưu giữ trong trí nhớ, những kinh nghiệm thu nhận trong cuộc sống, trong học tập... nên việc học sinh đạt điểm trung bình cao nhất ở thành phần này là điều dễ hiểu. Tiếp đến là tính linh hoạt (1.62) và tính kế hoạch (1.59) có điểm số trung bình chênh lệch không lớn, đây là những thành phần đòi hỏi các em phải phải có sự linh động, không rập khuôn, tìm được nhiều cách thức giải quyết một vấn đề theo các kế hoạch cụ thể hay theo nhiều phương án khác nhau. Nếu phương án này không được nhanh chóng đổi qua phương án có sự khác về chất so với phương án cũ để giải quyết nhiệm vụ mà bài tập đưa ra. Tuy nhiên ở lứa tuổi này, các em chưa đủ hiểu biết, vốn sống và kinh nghiệm để có thể thuyên chuyển một cách linh hoạt trong tư duy, trong việc lập kế hoạch nhất là khi thời gian dành cho việc giải một bài tập lại không dài nên toàn mẫu nghiên cứu có mức điểm trung bình không cao ở hai thành phần trên. Tính nhạy cảm vấn đề có điểm trung bình thấp nhất (0.88), đây là thành phần đòi hỏi sự nhanh chóng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn, thiếu hụt hay thiếu logic, chưa tối ưu,... cũng như khả năng nắm bắt dễ dàng nhanh chóng các vấn đề để từ đó tìm ra và điền vào các ô số còn trống của sodoku dựa vào những ô số đã cho theo quy luật cho sẵn. Đây là một bài tập khó, cần sự tập trung cao độ và logic chặt chẽ vì chỉ cần sai một ô sẽ có thể dẫn đến sai nhiều ô khác. Chính vì vậy mà điểm số toàn mẫu ghi được trong phần này là rất thấp (0.88). Các tính mềm dẻo, linh hoạt, kế hoạch và nhạy cảm vấn đề đều “chứa” trong mình tính độc đáo. Có thể nhận thấy những biểu hiện cụ thể ở thành phần độc đáo như khả năng sử dụng các phương án hiếm, lạ, ít gặp hay sử dụng các hiện tượng mới lạ, bất ngờ... Tuy nhiên, qua việc chấm điểm hệ thống bài tập, có thể nhận thấy rất hiếm khi các em cho ra kết quả có sự độc đáo, hiếm, lạ so với những em khác. Chủ yếu các phương án, các hình vẽ mà các em đưa ra đều khá giống nhau, khá gần với những gì các em đã được học trên lớp cũng như tích lũy được trong cuộc sống qua tivi, truyện tranh, sách, báo... 64 4.2. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập so sánh theo giới tính Bảng 5. Kết quả đo khả năng sáng tạo chung của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi bằng hệ thống bài tập so sánh theo giới tính Giới tính Mức độ sáng tạo Nam Nữ N % N % A 91 41.94 73 34.76 B 56 25.81 57 27.14 C 70 32.25 78 37.14 D 0 0 2 0.96 E 0 0 0 0 F+G 0 0 0 0 Kết quả thống kê từ bảng 5, cho thấy khả năng sáng tạo của cả học sinh nam và nữ theo thang phân loại của hệ thống bài tập vẫn tập trung chủ yếu ở mức A và B, đều chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. ... nh, khả năng sáng tạo của học sinh nữ (37.14%) lại cao hơn 5.85% so với các em nam (32.25%). Ở mức độ trung bình khá - mức độ cao nhất đo được, chỉ ghi nhận trường hợp của 2 nữ học sinh đạt điểm (chiếm 0.96%), không có nam học sinh nào đạt được mức độ này. Như vậy, nhìn chung khả năng sáng tạo theo hệ thống bài tập của học sinh nữ có phần trội hơn học sinh nam một chút, tuy nhiên sự chênh lệch này là không đáng kể. Để bổ sung cho nhận định trên, ta tiến hành xem xét khả năng sáng tạo của nam và nữ qua từng bài tập và qua các mặt biểu hiện sáng tạo của hệ thống bài tập. Bảng 6. Kết quả các bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo giới tính Các bài tập và tổng điểm Trung bình Kiểm nghiệm t (Sig<α= 0.05 có sự khác biệt)Nam Nữ Bài tập 1 4.6544 4.7952 0.494 Bài tập 2 0.0461 0.2381 0.096 Bài tập 3 0 0 - Bài tập 4 6.5346 7.0238 0.006 Bài tập 5 2.8986 3.3810 0.049 Bài tập 6 2.7650 2.8143 0.751 Bài tập 7 1.4988 1.3071 0.074 Bài tập 8 2.7235 2.6762 0.598 Tổng điểm 21.1210 22.2357 0.090 Số liệu ở bảng 6, cho thấy điểm trung bình về khả năng sáng tạo theo thang đo khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập giữa học sinh nam và học sinh nữ chênh lệch không đáng kể (22.2357 – 21.1210 = 0.1147) cho thấy khả năng sáng tạo của học sinh nam và học sinh nữ tương Đỗ Tất Thiên 65 Tập 10, Số 3, 2016 đương nhau và đều đạt loại thấp (B). Bên cạnh đó, khi thực hiện kiểm nghiệm t với mức ý nghĩa α = 0.05, hầu hết tất cả các tiêu chí (5/7) và tổng điểm của học sinh nam và học sinh nữ thì sự khác biệt về điểm trung bình đều không có ý nghĩa (Sig luôn lớn hơn α = 0.05). Có thể khẳng định ở lứa tuổi này khả năng sáng tạo của học sinh nam và nữ thông qua hệ thống bài tập là tương đương nhau. Nói cách khác, giới tính không ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của học sinh đo theo qua hệ thống bài tập. Nhận định trên dựa vào các lý do sau: Thứ nhất, khi phân tích dựa trên điểm trung bình từng bài tập cho thấy ở bài tập 1, 2, 4, 5, 6 học sinh nữ có phần nổi trội hơn học sinh nam, ngược lại ở các bài tập 7, 8 thì học sinh nam lại có phần trội hơn học sinh nữ một chút. Thứ hai, khi so sánh giá trị trung bình giữa nam và nữ trên từng bài tập bằng kiểm định Independent-samples T-test thu được kết quả như sau: bài tập 4 và bài tập 5 có giá trị Sig trong kiểm tịnh t < 0.05 chứng tỏ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình giữa nam và nữ ở 2 bài tập trên. Những bài tập còn lại đều có giá trị sig trong kiểm định t > 0.05 chứng tỏ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình giữa nam và nữ ở những bài tập này. Từ hai phân tích trên, có thể kết luận học sinh nữ trội hơn học sinh nam và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở bài tập 4 và 5. Học sinh nam không có kết quả bài tập nào trội hơn học sinh nữ mà có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình. Có thể lí giải những khác biệt này như sau: bài tập 4 và 5 thuộc nhóm bài tập ngôn ngữ viết. Bên cạnh đó, bài tập 4 và 5 với yêu cầu tìm nhiều kết hợp từ tạo nhiều nghĩa khác nhau của một từ và đặt câu với từ ấy là 2 bài tập có nội dung sát với chương trình học của học sinh. Mà ở lứa tuổi này theo các nghiên cứu chỉ ra “các bé trai luôn cảm thấy việc học hành không thể nào hấp dẫn bằng những trò chơi hành động. Trong những thời gian đầu đi học các cậu bé thường tụt hậu và học kém hơn so với các bạn gái bằng tuổi, đặc biệt về sự tập trung và khả năng ngôn ngữ”. Chính những đặc trưng về giới tính trong giai đoạn lứa này đã dẫn đến sự chênh lệch trên. Để xem xét toàn diện hơn về khả năng sáng tạo của nam và nữ học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi theo hệ thống bài tập chúng ta cần phân tích sự khác biệt khả năng sáng tạo giữa nam qua nữ qua các mặt biểu hiện sáng tạo. Thể hiện qua bảng số liệu 7. Bảng 7. Kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo qua hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo giới tính Các mặt biểu hiện Trung bình Kiểm nghiệm t (Sig<α= 0.05 có sự khác biệt)Nam Nữ Tính mềm dẻo 4.0661 4.4063 0.023 Tính linh hoạt 1.5668 1.6778 0.167 Tính kế hoạch 2.7235 2.6762 0.598 Tính nhạy cảm vấn đề 1.4988 1.3071 0.074 Số liệu ở bảng 7 và phân tích dựa trên điểm trung bình từng mặt biểu hiện khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập ta thấy: học sinh nữ có phần nổi trội hơn học sinh nam ở tính mềm dẻo và tính linh hoạt, ngược lại ở tính kế hoạch và tính nhạy cảm vấn đề thì học sinh nam lại có phần trội hơn học sinh nữ một chút. Bên cạnh đó, khi so sánh giá trị trung bình giữa nam và nữ trên 66 từng mặt biểu hiện bằng kiểm định Independent-samples T-test thu được kết quả như sau: giá trị t của tính mềm dẻo tìm được (t = 0.023 < 0.05) chứng tỏ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình giữa nam và nữ ở mặt biểu hiện này. Những mặt biểu hiện còn lại: tính linh hoạt, tính kế hoạch, tính nhạy cảm vấn đề đều có giá trị sig trong kiểm định t > 0.05 chứng tỏ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình giữa nam và nữ ở những mặt biểu hiện này. Từ những phân tích trên, cho thấy học sinh nam không có mặt biểu hiện nào về khả năng sáng tạo trội hơn học sinh nữ mà lại có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình. Trong khi đó, học sinh nữ lại trội hơn học sinh nam và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở tính mềm dẻo trong khả năng sáng tạo. Đây có thể là đặc trưng cơ bản về giới tính giữa nam và nữ vì nữ giới thường có biểu hiện mềm dẻo hơn trong cách lựa chọn phương án, xử lí, giải quyết vấn đề so với nam trong thực tế. 4.3. Khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua các bài tập của hệ thống bài tập so sánh theo khu vực Kết quả hệ thống bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi phân theo khu vực được thể hiện ở bảng số liệu dưới đây: Bảng 8. Kết quả hệ thống bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi so sánh theo khu vực Khu vực Mức độ sáng tạo Thành phố Nông thôn Tần số (N) % Tần số (N) % A 24 13.33 140 56.68 B 49 27.22 64 25.91 C 105 58.33 43 17.41 D 2 1.12 0 0 E 0 0 0 0 F+G 0 0 0 0 Căn cứ vào bảng phân loại khả năng sáng tạo theo hệ thống bài tập, có thể nhận thấy khả năng sáng tạo của học sinh nông thôn nổi rõ lên nhất ở mức A - kém (với 56.68%) chiếm hơn 1/2 lượng mẫu. Ở gần 1/2 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức đó là: loại thấp (B) chiếm 25.91% và loại C (trung bình) chiếm 17.41%. Trong khi đó, khả năng sáng tạo của học sinh thành phố lại tập trung chủ yếu ở mức trung bình (với 58.33%) chiếm hơn 1/2 lượng mẫu. Ở 43.32% lượng mẫu còn lại rơi vào 3 mức đó là: mức A chiếm 13.33%, mức B chiếm 27.22% và mức D chiếm 1.12%. Không có học sinh nào đạt được mức độ khá, cao và cực cao. Khi tiến hành so sánh khả năng sáng tạo của học sinh nông thôn và thành phố theo thang đo của hệ thống bài tập ta nhận thấy khả năng sáng tạo của học sinh thành phố có phần trội hơn học sinh nông thôn. Cụ thể: loại A (kém) của học sinh lớp 5 vùng nông thôn (chiếm 56.68%) cao gấp hơn 4 lần so với học sinh lớp 5 ở thành phố (chiếm 13.33%). Kế đến là mức độ khả năng sáng tạo thấp (B), học sinh nông thôn và thành phố có tỉ lệ khá đồng đều nhau và đều chiếm hơn 1/4 lượng mẫu. Ở mức độ trung bình (C), học sinh thành phố (58.33%) lại có tỉ lệ cao hơn gấp 3 lần so với Đỗ Tất Thiên 67 Tập 10, Số 3, 2016 học sinh nông thôn (17.41%). Trong khi đó, với mức độ trung bình khá - mức độ cao nhất được ghi nhận qua việc thực hiện hệ thống bài tập thì không có học sinh nông thôn nào mà chỉ có 2 học sinh ở thành phố (chiếm 1.12%) đạt được điểm ở mức độ này. Tuy nhiên, khi bàn về khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi qua hệ thống bài tập so sánh theo khu vực, ta không thể chỉ dừng lại ở sự so sánh tỉ lệ đạt được trong từng mức độ giữa học sinh ở nông thôn với học sinh ở thành phố mà cần phải đi sâu phân tích khả năng sáng tạo của học sinh nông thôn và thành phố qua từng bài tập và qua các mặt biểu hiện của sáng tạo. Bảng 9. So sánh kết quả từng bài tập đo khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi phân theo khu vực Các bài tập và tổng điểm Trung bình Kiểm nghiệm t (Sig<α= 0.05 có sự khác biệt)Thành phố Nông thôn Bài tập 1 5.0361 4.4960 0.007 Bài tập 2 0.3333 0.0000 0.014 Bài tập 3 0 0 - Bài tập 4 7.4944 6.2510 0.000 Bài tập 5 4.2667 2.3117 0.000 Bài tập 6 3.0778 2.5789 0.002 Bài tập 7 1.6847 1.2004 0.000 Bài tập 8 2.7778 2.6437 0.145 Tổng điểm 24.6708 19.4818 0.000 Từ số liệu của bảng 9, có thể thấy điểm trung bình về khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn có sự chênh lệch khá rõ (24.6708 – 19.4818 = 5.189). Căn cứ vào bảng phân loại 7 mức độ của hệ thống bài tập cho thấy học sinh thành phố có khả năng sáng tạo ở mức trung bình - C với 24.67 điểm, còn học sinh nông thôn có khả năng sáng tạo ở mức thấp - B với 19.48 điểm. Bên cạnh đó, khi thực hiện kiểm nghiệm t với mức ý nghĩa α = 0.05 hầu hết tất cả các bài tập (7/8) và tổng điểm của học sinh ở thành phố và nông thôn thì sự khác biệt về điểm trung bình đều có ý nghĩa thống kê (sig < α = 0,05 rất nhiều). Từ những phân tích trên, có thể khẳng định khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn theo hệ thống bài tập là khác nhau, khu vực sinh sống và điều kiện học tập ở thành phố hay nông thôn có ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh đó, khi phân tích dựa trên điểm trung bình của từng bài tập cho thấy học sinh thành phố nổi trội hơn học sinh nông thôn ở tất cả các bài tập. Đồng thời, khi so sánh giá trị trung bình giữa học sinh thành phố và học sinh nông thôn ở từng bài tập bằng kiểm định Independent-samples T-test ta thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở tất cả các bài tập (trừ bài 8 t = 0.145 > 0.05) Sig trong kiểm định t < 0.05 rất nhiều. 68 Bảng 10. So sánh kết quả các mặt biểu hiện khả năng sáng tạo qua hệ thống bài tập của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi theo khu vực Các mặt biểu hiện Trung bình Kiểm nghiệm t (Sig<α= 0.05 có sự khác biệt)Thành phố Nông thôn Tính mềm dẻo 4.9463 3.7193 0.000 Tính linh hoạt 1.7898 1.4987 0.000 Tính kế hoạch 2.7778 2.6437 0.145 Tính nhạy cảm vấn đề 1.6847 1.2004 0.000 Dựa vào bảng số liệu 10, phân tích điểm trung bình và thực hiện kiểm định Independent- samples T-test trên từng mặt biểu hiện khả năng sáng tạo của hệ thống bài tập ta thấy: học sinh thành phố nổi trội hơn học sinh nông thôn ở tất cả các mặt biểu hiện, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê về trị trung bình ở 3 mặt: tính mềm dẻo, tính linh hoạt, tính nhạy cảm vấn đề (t < 0.05) trừ tính kế hoạch (t= 0.145 > 0.05) trong khả năng sáng tạo của học sinh. Như vậy, về phương diện biểu hiện khả năng sáng tạo qua các mặt của hệ thống bài tập học sinh thành phố nổi trội hơn hẳn so với học sinh nông thôn. Sự chênh lệch này có thể được lí giải bởi những nguyên nhân cơ bản sau: + Thứ nhất, do những thuận lợi về kinh tế, văn hóa, đời sống, cơ sở vật chất... cũng như trình độ nhận thức của gia đình mà các em học sinh ở thành phố thường nhận được nhiều sự quan tâm, chăm sóc, được tạo điều kiện tối đa để tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, tiếp cận với nhiều phương cách nhằm phát huy khả năng sáng tạo của mình so với các em học sinh ở nông thôn. + Thứ hai, đại đa số các em học sinh ở thành phố chỉ tập trung vào mỗi việc học hành, vui chơi và giải trí. Trong khi đó, các em học sinh ở nông thôn nhất là nông thôn miền núi còn gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài việc học hành với điều kiện đường xá xa xôi, trắc trở, cơ sở vật chất nghèo nàn... các em còn phải dành nhiều thời gian cho việc phụ giúp gia đình như: giữ em, chăn bò, cắt cỏ, trồng trọt, thậm chí có học sinh lớp 5 còn theo bố mẹ đi làm thêm nhằm trang trải cho cuộc sống gia đình. Chính gánh nặng cuộc sống này đã “cướp” đi tuổi thơ thỏa sức tưởng tượng, sáng tạo của các em. Qua việc hướng dẫn các em ở trường tiểu học Sơn Hạ làm test và hệ thống bài tập, chúng tôi nhận thấy có hiện tượng nhiều em có trình độ rất thấp, không tương xứng với trình độ của một học sinh lớp 5, nhất là một số học sinh là con em của đồng bào dân tộc thiểu số. + Thứ ba, các em học sinh ở nông thôn đa phần có tính cách khá rụt rè, thiếu sự tự tin trong việc thể hiện bản thân so với các em học sinh thành phố nên sản phẩm thu được của test TST-H cũng vì đó mà chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo của học sinh... Chính những lí do cơ bản vừa phân tích trên, đã ít nhiều chi phối, tác động và dẫn đến sự chênh lệch về khả năng sáng tạo giữa học sinh ở nông thôn so với học sinh ở thành phố. Đây chính là vấn đề “nhức nhối” đặt ra cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét nhằm hoạch định các chiến lược, phương hướng thích hợp, tạo điều kiện cho các em học sinh ở nông thôn, nhất là nông thôn miền núi có điều kiện thuận lợi trong việc học tập, vui chơi, giải trí, Đỗ Tất Thiên 69 Tập 10, Số 3, 2016 được sống với đúng đặc điểm tâm, sinh lí của lứa tuổi mình và cũng chính là góp phần giảm thiểu sự chênh lệch về khả năng sáng tạo giữa học sinh thành phố và nông thôn, miền núi. 5. Kết luận Dựa vào 7 mức độ của khả năng sáng tạo theo thang phân loại của hệ thống bài tập, khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung chủ yếu ở mức thấp (A) và kém (B) với 64.87% học sinh đạt điểm ở 2 mức độ này, chiếm hơn 3/5 lượng mẫu. Ở gần 2/5 lượng mẫu còn lại rơi vào 2 mức là: C (trung bình) chiếm 34.46% và D (trung bình khá) chiếm 0.47%. Có 3 mức sau đây không có học sinh nào đạt được đó là: mức E (khá), F (cao) và G (cực cao). Xem xét trên bình diện kết quả từng bài tập của hệ thống bài tập thì: học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi đạt được điểm số cao ở nhóm bài tập dễ, được xây dựng bằng chất liệu ngôn ngữ, bao gồm: bài tập 4 (xếp hạng 1), bài tập 1 (xếp hạng 2) và bài tập (xếp hạng 3). Điểm trung bình về khả năng sáng tạo giữa học sinh nam và học sinh nữ theo thang phân loại của hệ thống bài tập chênh lệch không đáng kể. Có thể khẳng định ở lứa tuổi này khả năng sáng tạo của học sinh nam và nữ theo hệ thống bài tập là tương đương nhau và giới tính không ảnh hưởng nhiều đến khả năng sáng tạo của học sinh đo theo hệ thống bài tập. Điểm trung bình về khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn theo thang phân loại của hệ thống bài tập có sự chênh lệch đáng kể. Có thể khẳng định khả năng sáng tạo của học sinh ở thành phố và nông thôn theo hệ thống bài tập là khác nhau, khu vực sinh sống và học tập ở thành phố hay nông thôn có ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của học sinh lớp 5 một số trường tiểu học tại tỉnh Quảng Ngãi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Thành Nghị, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (2012). 2. Huỳnh Văn Sơn, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Nxb Giáo dục, (2009). 3. Nguyễn Huy Tú, Giáo trình Tâm lí học sáng tạo, Viện Khoa học Giáo dục, (2000).
File đính kèm:
- kha_nang_sang_tao_cua_hoc_sinh_lop_5_mot_so_truong_tieu_hoc.pdf